MD là gì đệ/?:money_eyes:
VÔ SƯ TRÍ là gì :
- Theo từ điển Phật Học Hán Việt của Nhà Xuất Bản Khoa Học Xả Hội , trang 1535 có định nghĩa : VÔ SƯ TRÍ : Thuật Ngữ – Chỉ Phật Trí , không Thầy mà tự mình giác ngộ . Pháp Hoa Phẩm , thí dụ : Nhất thiết trí , Phật Trí , tự nhiên trí , vô sư trí .
- Theo từ điển Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn , trang 649 có định nghĩa như sau : VÔ SƯ TRÍ : Cái trí huệ của bậc không Thầy của người tự mình liểu ngộ . Tức là Phật Trí .
Bây giờ chúng ta tạm dạo qua một vài bài viết của quý Thầy về Vô Sư trí , sau đó chúng ta sẻ phân tích những cấu trúc huyền môn bên trong , mà bên Phật giáo dùng từ khác để biệu hiện các ý huyền môn nầy :
CHƯƠNG NĂM: VÔ SƯ TRÍ
I. TRÍ TUỆ HỮU SƯ VÀ VÔ SƯ.
Con người từ lúc mới sinh ra đến khi mất đi, mỗi ngày mỗi tích lũy thêm kiến thức kinh nghiệm để tồn tại và phát triển. Do học hỏi từ bên ngoài phát sinh trí tuệ, nhà Phật gọi là Hữu sư trí, tức trí tuệ nhờ có Thầy dạy. Vì vận dụng chất xám mà hiểu biết, nên Hữu sư trí có tính cách phân tích lý luận theo tinh thần tiền nhân hậu quả: nghe giảng dạy là nhân, suy tư để hiểu là quả. Trong Tam huệ học, văn và tư huệ thuộc phạm trù Hữu sư, chung quy chỉ nhờ vay mượn huân tập từ người khác, không phải thật của mình, nên giới hạn và không ngừng biến đổi. Hành giả có công phu Thiền định, quét sạch mọi tạo tác của tâm, trở về trạng thái bổn tịch bổn tri, một lúc nào đó xảy ra đột biến, tự nhiên phát khởi trí tuệ. Đây là cái biết của trực giác không qua trung gian ý thức phân biệt, cái bổn tri khi hồi phục chức năng ban sơ của tâm, cái biết giải trừ và vượt qua Hữu sư trí, chính là Tu huệ, tức Vô sư trí.
Vô sư trí còn được gọi bằng nhiều tên: Căn bản trí, Bát-Nhã trí, Vô phân biệt trí, Chơn trí, Thật trí, Trực Giác Bát Nhã... Từ thường dùng nhất là Trí tuệ Bát Nhã. Mỗi người có hoàn cảnh chánh báo và y báo khác nhau, nhưng tất cả đều bình đẳng ở trí tuệ này. Nhà Thiền diễn tả bằng hình ảnh “từ hông ngực lưu xuất” hoặc bằng từ “Thời trí”, nghĩa là vốn sẵn đủ, là diệu dụng của tự tánh. Khi cần, các vị Thiền sư ngộ đạo sử dụng ngay vốn sẵn đủ ấy một cách linh hoạt và khế cơ khế lý, nên tùy duyên mà có muôn vàn phương pháp khai thị cho người.
Vị Bồ tát tượng trưng cho Vô sư trí là Ngài Văn Thù. Nhà Phật nói: “Bát Nhã vô tri nhi vô bất tri” (Bát Nhã không biết nhưng không có gì là chẳng biết). Gương không có ý soi rọi, nhưng mọi vật để trước gương đều hiện ảnh một cách trung thực. Bát-Nhã cũng thế, không tác ý hiển lộ các pháp, vì vậy soi thấu các pháp đến tận cùng bản thể. Bình thường khi nhìn một vật, tự nhiên chúng ta khởi tâm phân biệt cái thấy và cái bị thấy. Sự phân biệt là hành vi của thức, nhìn các pháp chỉ ở một khía cạnh, lại thêm phân tích tưởng tượng, nên chỉ phản ảnh các pháp một cách phiến diện hời hợt. Khi tâm thanh tịnh rỗng rang, dứt bặt vọng tưởng suy lường, đột nhiên trực giác phát sinh, chủ thể và đối tượng nhận thức hòa nhập, ta chợt thấy rúng động toàn thân, chợt nhận ra mọi vấn đề một cách toàn diện toàn triệt. Đây là cái biết bất nhị, kết quả của một quá trình thiền tập miên mật và lâu dài, không do tư duy hay thức tình sinh khởi, không mang tính cách học thuật kinh viện thế gian. Bài Tín Tâm Minh của Tam Tổ Tăng Xán có câu: “Phi tư lương xứ, thức tình nan trắc” (Chỗ chẳng thuộc suy lường, thức tình khó đo được). Trạng thái “Phi tư lương xứ” chính là trạng thái của Thiền, là hành vi của Vô sư trí.
Hệ Pàli phân biệt 5 cấp độ hiểu biết từ thấp đến cao:
1. Tưởng tri: Cái biết do tưởng tượng, như mây bay thấy trăng dời, thuyền đi thấy bờ chạy.
2. Thức tri: Biết do phân biệt so sánh. Nhìn một vật, con người khởi ngay niệm phân biệt đẹp - xấu, từ đó lôi cuốn theo một loạt ý nghĩ khác như khen - chê, ưa - ghét...
Tưởng tri và thức tri là hai cấp độ hiểu biết của phàm phu, nhìn các pháp một cách phiến diện và chủ quan nên thường nông cạn, sai lầm.
3. Tuệ tri: Cái biết bằng trí tuệ nhờ công phu thiền tập.
4. Thắng tri: Cái biết thù thắng trong trạng thái tâm lặng lẽ, không dấy niệm dính mắc hai bên.
Tuệ tri và Thắng tri là trí tuệ của các bậc Hữu học từ Sơ quả đến Tam quả. Tuy nhiên, vẫn còn những niệm vi tế làm chướng ngại mà Đức Phật ví như sóng nắng.
5. Liễu tri: “Liễu” là hoàn toàn, tột cùng. Liễu tri hay Liễu liễu thường tri là trí tuệ của các bậc Vô học đã quét sạch mọi phàm tình thánh giải, đã giác ngộ và giải thoát hoàn toàn.
http://www.hoalinhthoai.com/?option=..._id=667&page=1
II. NHỮNG VẤN ÐỀ QUAN TRỌNG LIÊN QUAN ÐẾN VÔ SƯ TRÍ
A. Kiến thức góp nhặt từ trường lớp sách vở không giúp ta hiểu rõ chính mình. Khoa học ngày nay đã tiến bộ vượt bực, đã khám phá nhiều bí mật từ những chi tiết vi mô đến các tầng cấp vĩ mô, nhưng rốt cuộc cũng chỉ nghiên cứu những cái bên ngoài. Công trình nghiên cứu nào cũng có sự phân cách rõ ràng giữa chủ thể và đối tượng, vì vậy không sao thấu triệt thật tướng của chính mình và của vũ trụ vạn pháp. Ngược lại, bằng công phu phản quan tự kỷ, chánh niệm tỉnh giác trong từng biến dịch của thân tâm, hành giả tu Thiền có nhiều cơ hội kiến chiếu tự nội thể, quán chiếu vào tận cùng những ngõ ngách sâu thẳm của tâm thức. Vị ấy có nhiều cơ hội giải quyết mối nghi “Ta là ai? ”, lúc ấy tự nhiên có sự hòa điệu giữa mình và người. Khi một con sóng nhận ra mình là nước, chung cùng bản thể với những con sóng khác dù hình tướng sai thù, nó tự nhiên có một tình thương bao la bình đẳng đối với tất cả. Nhứt tức nhứt thiết, nhứt thiết tức nhứt. Một niệm bao gồm muôn năm, mười phương thế giới nằm trong hạt cải. Cho nên, trong tịnh thất của Ngài Duy Ma Cật có thể dung chứa ba muôn hai ngàn tòa sư tử mà không có sự ngăn ngại. Ðây là việc bất khả tư nghì, mà chỉ có những bậc trụ bất tư nghì giải thoát, bằng trí tuệ vô sư, mới hoàn toàn thẩm thấu.
B. Có hành giả công phu một thời gian, đạt được trạng thái vắng lặng. Ðây là Ðịnh, sự ngủ yên của ý thức, nhưng nếu mãi an trú trong ấy thì không thể phát Huệ. Biển lặng sóng là biểu hiện Ðịnh, biển dậy sóng đục ngầu là thức tưởng của phàm phu, biển có sóng trong vắt là Vô sư trí. Biển không thể không có sóng, nên công phu dẹp trừ đè nén vọng tưởng có thể đưa hành giả vào trầm không trệ tịch, không đúng với chủ trương của Thiền tông là Ðịnh-Huệ đồng thời. Khi ý thức ngủ yên mà ánh sáng giác ngộ đột nhiên bừng sáng, hành giả thấy được lẽ thật rồi không bao giờ quên nữa, đó mới là biểu hiện của Vô sư trí. Không còn vô minh, hành giả thật sự cắt đứt và đảo ngược vòng luân chuyển của mười hai nhân duyên, mặc nhiên cắt đứt sự vận hành tương tục muôn kiếp lôi mình vào sinh tử. Nhà Phật gọi đây là trạng thái Chuyển y (Asrayaparàvritti).
Như vậy, Vô sư trí là sự sống động ngay trong từng Sát-na sinh diệt của tâm, là phút giây vĩnh cửu ngay trong lòng các pháp đang biến chuyển không cùng, vận dụng sự sống-động-bất-biến này nhiêu ích quần sanh. Từ chủ trương tu hành khác biệt giữa Nhị thừa và Ðại thừa, nên tác phong của các Ngài cũng khác nhau. Những vị tu Nhị thừa có vẻ điềm đạm tề chỉnh, xem trọng oai nghi tế hạnh; còn các Bồ-tát Ðại thừa lại thể hiện rất nhiều hình tướng, nhân cách khác nhau, thuận hạnh nghịch hạnh khó lường. Từ đó, đạo Phật uyển chuyển hòa quyện vào mọi lĩnh vực của đời sống, mọi sinh hoạt của từng dân tộc mà không chống trái, cũng không đánh mất nguồn cội và những nét đặc thù độc đáo của mình.
C. Ðọc hành trạng và thuật khai tâm của các Thiền sư, chúng ta thấy nhiều khi các Ngài có những lời nói hành động thật kỳ quặc, khó hiểu. Các Ngài có thể thăng tòa thuyết pháp một cách biện chứng, sư phạm, nhưng những lời dạy ấy thường chỉ giúp môn đệ nắm vững đường lối tu hành, hoặc thêm kiến giải. Lại nữa, những từ Phật học trau chuốt bóng bẩy là điều kiện tốt cho ý thức hoạt động mạnh mẽ, dễ đưa người nghe sa vào mê cung của khái niệm. Do đó, đối với người tham vấn riêng rẽ, các Ngài thường sử dụng thủ thuật kỳ đặc để đương cơ bặt đường suy nghĩ, dứt hết mối manh, có cơ hội trực nhận con người thật xưa nay của mình.
Tăng hỏi Thiền sư Tuệ Tĩnh: “Thế nào là Phật? ”. Sư đáp: “Con mèo trèo lên cây cột”. Tăng thưa: “Bạch Hòa thượng, con không hội”. Sư bảo: “Ðến hỏi cây cột đi!”. Không có từ ngữ nào mang tính chất đạo lý ở đây cả, nhưng thật sự diễn tả một hiện tượng sống động mà nhà Thiền gọi “thực tại đang là”. Tăng không hội ý nghĩa Phật pháp tại thế gian, nên Sư chấm dứt câu chuyện bằng lời bảo đến hỏi cây cột. Ðó là trước mắt lầm qua, Phật tại nhãn tiền mà tăng bỏ lỡ cơ hội nhận thấy.
Một thiền khách đến hỏi Ngài Triệu Châu:
- Con chó có Phật tánh không?
Ngài Triệu Châu đáp:
- Có.
- Hòa thượng có Phật tánh không?
- Không.
- Chúng sanh đều có Phật tánh, sao Hòa thượng lại không?
- Ta chẳng phải chúng sanh.
- Không phải chúng sanh, là Phật chăng?
- Cũng chẳng phải.
- Vậy Hòa thượng là gì?
- Ta không là gì cả.
- Có thể thấy biết được chăng?
- Vượt khỏi nghĩ ngợi, thoát khỏi lý luận, thế nên gọi là bất tư nghì.
Câu chuyện này tương đối dễ hiểu. Trở về bản tâm gọi là Phật, quên mất bản tâm là chúng sanh. Phật và chúng sanh chỉ là ngôn từ, không phải thực thể. Ngài Triệu Châu muốn giúp khách vượt thoát mọi khái niệm lý luận để trực nhận sự hiện hữu nội tại tự thân. “Ta không là gì cả” có nghĩa không sở thủ sở đắc, nhưng chẳng có gì là không thấy biết. Lời giải đáp ở nơi mỗi người, Thiền sư không cho đáp án rõ ràng, thật đó là tâm lão bà tha thiết!
Trong pháp hội của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, có hai môn đồ xuất cách, sau này xiển dương hai đường hướng khác nhau. Thượng tọa Thần Tú là bậc chân tu thực học, làm giáo thọ hướng dẫn 500 đồ chúng. Cư sĩ Huệ Năng không biết chữ, làm việc dưới nhà trù, thân phận thấp hèn thường bị chúng bắt nạt khinh khi. Ðường đi của Ngài Thần Tú là thiền định, tâm ví như gương, có gương thật lấm bụi thật nên hàng ngày phải lau chùi. Con đường của cư sĩ Huệ Năng là kiến tánh, không chạy theo hình tướng mà y cứ bản thể, thấy thật tướng của các pháp là Vô tướng. “Xưa nay không một vật” thì chỗ nào dính bụi mà phải dụng công lau? Kiến tánh tức sống bằng Vô sư trí, khế hợp với yếu chỉ Thiền tông, nên cư sĩ được Tổ truyền y bát.
D. Sống ở đời, ai cũng theo đuổi một mục đích, một lý tưởng, một sự nghiệp. Tùy quan niệm của mỗi người mà sự nghiệp mong muốn to hay nhỏ, thuộc thế gian hay xuất thế. Người tu cũng có sự nghiệp chung thân. Sự nghiệp chung thân ấy là gì?
Một số người cho rằng, xây nhiều chùa to, đúc nhiều tượng lớn, làm nhiều công tác từ thiện... là mục đích của đời tu. Thật ra, ấy là những Phật sự nên làm nếu có điều kiện, nhưng hoàn toàn không phải là cứu cánh. Làm Phật sự chu toàn là tạo phước; phước đức giúp người tu dễ vượt qua khó khăn ma chướng, nhưng trí tuệ mới là quan trọng nhất. Nếu không có trí tuệ, người tu dễ rơi vào tà tín và cũng không thể hướng dẫn người khác theo đúng chánh pháp. Một số ngôi Già-lam biến thành chỗ buôn Thần bán Thánh, xin xăm bói quẻ, cũng do người tu không có chánh kiến và chánh tín. Nơi ấy, Ðức Phật biến thành thần linh ra oai tác phúc, đạo Phật mất đi ý nghĩa của một đạo giác ngộ giải thoát. Ðây là một thực trạng rất đáng buồn, có thể xem là một pháp nạn của Phật giáo. Cho nên, phước đức và trí tuệ được xem như hai cánh của một con chim, muốn bay xa, bay cao, chim phải có đầy đủ hai cánh mạnh mẽ, tràn đầy sinh lực.
Một số người khác lại quan niệm, phải có nhiều kiến thức mới đúng nghĩa người tu trong thời đại khoa học. Vì thế, bằng mọi cách, họ phải đạt được những bằng cấp cao về Phật học và thế học, xem đó là mục đích của đời mình. Thật ra, kiến thức nội - ngoại điển rất cần thiết trong giai đoạn đầu của tự lợi, và hỗ trợ rất nhiều trong việc lợi tha. Một vị Bồ tát đầy đủ ngũ minh rất dễ nhiếp phục chúng sinh, từ đó dễ hướng dẫn họ tu đúng theo chánh pháp. Tuy nhiên, kiến thức góp nhặt từ bên ngoài chỉ là Trí hữu sư, chưa phải sự nghiệp chung thân. Bởi vì trí tuệ ấy do vay mượn mà được, có tính cách tương đối, tạm bợ và hữu hạn; đôi khi chấp vào đó, tự cho mình học cao hơn người, vô tình tô bồi cho bản ngã, gây thêm chướng ngại trên đường tu. Một điều không thể phủ nhận là, người có trình độ tri thức dễ tiếp thu những điều kinh sách muốn truyền đạt, kể cả những ý nghĩa thâm sâu uyên áo. Họ cũng dễ có chánh kiến chánh tín, biết rõ đường hướng tu hành đúng đắn theo Phật và chư Tổ. Nhưng khi đi vào thực hành, nhất là đối với chủ trương của Thiền Tông “chặt hết sắn bìm”, thì vốn kiến thức bác lãm ấy, thói quen phân tích lý luận ấy làm họ bị vướng mắc, nếu không biết buông bỏ tháo gỡ. Ví như người bộ hành phải vượt qua quãng đường rất dài và gian nan; trước tiên họ cần bản đồ và nhiều lời chỉ dẫn để hiểu rõ đường đi cùng những tình huống có thể xảy ra, tiên liệu những trở ngại để có biện pháp khắc phục. Nhưng khi bắt đầu xuất phát, hành trang của họ phải càng gọn nhẹ càng tốt; và lúc đến nơi rồi, có đầy đủ gia tài châu báu rồi, họ phải bỏ hết gánh nặng trên vai hay cứ khư khư mang mãi? Gia tài châu báu ấy là Vô sư trí, mới là cứu cánh của đời tu, là trí tuệ nhắc đến trong câu “Duy tuệ thị nghiệp”. Những bậc giác ngộ dù học không nhiều, dù không xây chùa đúc tượng, nhưng đi đến đâu, làm việc gì, các Ngài cũng mang lợi ích cho mọi người. Bởi vì toàn thân các ngài là Ðạo, nên bằng thân giáo, khẩu giáo, thậm chí cả lúc ngồi yên, các Ngài cũng toát ra một sự an lạc thanh lương cho những người hữu duyên kề cận.
E. Trả lời câu hỏi “Thế nào là Ðạo? ”, có Thiền sư nói: “Như người cỡi trâu đi tìm trâu”; vị khác lại bảo: “Ngay tại đó”. Nhiều cách nói khác nhau, nhưng chung quy đều nhằm chỉ thẳng cái chân thật. Vốn từ vô thủy, chúng sinh đã là Phật, nhưng một niệm mê khởi lên chợt sanh sơn hà đại địa. Nếu không có sẵn tánh giác, ai biết hỏi, ai biết nghe, ai biết tất cả mọi sự vật hiện tượng diễn biến quanh mình? Có phải tánh giác luôn hiện diện nơi đương xứ, nhưng do chúng ta mãi hướng ngoại tìm cầu, nên vác Phật đi tìm Phật, cỡi trâu tìm trâu? Cứ như thế mà tạo nghiệp thiện ác, mãi quẩn quanh trong vòng sanh tử không có ngày cùng.
Do lòng hướng ngoại tìm cầu, nên chúng ta thường mong thấy một kết quả cụ thể, xem như mốc đánh đấu từng chặng đường mình đã đi qua. Ðây là tâm trạng thường gặp và đáng thông cảm, vì đường tu quá gian nan vất vả, luôn luôn phải thúc liễm thân tâm, nếu không có chút kết quả nào thì khó động viên mình tiếp tục gắng bước. Tuy nhiên, sự mong muốn có sở đắc là chướng ngại trong công phu, ở nhiều mặt: Thứ nhất, khi tọa thiền có đôi chút thanh tịnh lặng lẽ, do lòng mong cầu kết quả nên thường khởi hiện những cảnh lạ, như thấy ánh sáng, thấy chư Phật xoa đầu thọ ký, nghe tiếng Phật thuyết pháp... Người tu khởi niệm mừng, chấp cho là thật, dính mắc vào đó, có thể lầm lạc đường tu. Thứ hai, nếu ước muốn không được thỏa mãn, người tu dễ bất an rồi chán nản, nghi ngờ pháp tu, nghi ngờ khả năng thầy dạy và nghi cả chính mình. Thứ ba, nếu đạt được một kết quả nào đó, lại muốn kể cho người khác nghe. Ðây là hành vi của bản ngã, không hợp với lý Ðạo. Trong nhà Thiền, thầy trò chỉ hiểu nhau thầm kín; ngay đến lời khen, Thầy cũng ít khi dùng vì ngại trò tự mãn, khó tiến tu. Thứ tư, tự tánh vốn tự thanh tịnh sẵn đủ, nếu khởi niệm tìm cầu thì kết quả có được cũng chỉ là vật bên ngoài, không phải thật mình.
Vậy cuối cùng, chúng ta tu để làm gì, để được gì?
Lúc mới phát tâm, ta muốn dứt bỏ khổ đau tìm cầu an lạc, muốn bỏ bờ mê để qua bến giác. Nhưng đâu là ranh giới giữa hai bờ vức khổ đau và an lạc, giữa si mê và giác ngộ? Khi đèn bật lên, bóng tối ngàn năm tự nhiên tan biến, chứ không phải ánh đèn đẩy bóng tối đi nơi khác. Khi ánh sáng giác ngộ bừng lên, vô minh tự bao đời kiếp tự nhiên không còn hiện hữu. Tu chỉ có nghĩa là Dừng. Khi ta dừng mọi vọng tưởng lăng xăng, tự nhiên ta có an lạc. Biết mà loạn động là thức tâm phân biệt, bất động mà thường biết là Vô sư trí. Luôn luôn nó hiện tiền nơi đương xứ, làm nền móng cho những cuộc vận hành của tâm, những đổi thay của toàn pháp giới. Các pháp đủ duyên thì sinh-hiện, hết duyên lại diệt-tàn; nhưng dù sinh hay diệt vẫn ở trong bản thể bất sinh bất diệt, dù luân chuyển biến thiên nhưng vẫn luôn định vị trong thể chân thường bất biến. Các bậc giác ngộ thẩm thấu tự thể tịch lặng và hằng tri ở ngay tại đây và bây giờ, nên các Ngài tự tại trước sóng gió của cuộc đời và an nhiên trước sinh tử.
Hiểu rõ sinh tử không hề dính dáng đến tự thể chân thật hằng hữu, mà chỉ là chuyện còn mất tạm thời của biểu tướng, chúng ta thấy đời tu của mình rất có ý nghĩa. Biết đường hướng và mục đích cuối cùng, chúng ta cứ vững lòng tiến bước. Ðường chúng ta đi có rất nhiều chông gai trở ngại, chướng duyên thường xuất hiện từ bên ngoài và có cả trong nội tâm, nhưng đó là những thử thách cần có để trui rèn nghị lực và ý chí của mình. Chúng ta không tự mãn với một vài kết quả có được, cũng không mang mặc cảm mình phước mỏng nghiệp dày. Nhà Thiền độc đáo ở chỗ không chú trọng nghiệp nặng hay nhẹ lúc phát tâm, vì tất cả chúng sinh đều bình đẳng ở tánh giác. Khi liễu ngộ, không thấy có nghiệp thật để trả và mình là người thật trả nghiệp, vì tánh của nghiệp vốn không. Nhưng nếu chưa liễu ngộ thì vẫn phải thọ lãnh mọi oan trái đúng lý nhân quả ba thời. Thiền sư Huyền Giác nói :
Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không
Vị liễu ưng tu hoàn túc trái.
Trúc Thiên dịch:
Tỏ rồi, nghiệp chướng hóa thành không
Chưa tỏ, nợ xưa đành trang trải.
F. Trong Truyền Ðăng Lục, Thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài có bài kệ như sau:
Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.
Nhạn bay qua dòng sông, bóng chìm dưới nước; nhạn không có ý lưu bóng mà sông cũng chẳng có tâm lưu ảnh. Dù cả hai đều vô tâm vô ý, nhưng thực tế vẫn có bóng nhạn dưới dòng sông. Ðiều này có ý nghĩa gì? - Không tâm ý mà cảnh nào hiện rõ cảnh ấy, đặc tính “phân biệt mà không phải ý” chính là sự kỳ diệu của trí tuệ Vô sư. Có phải đôi khi ngồi hóng mát, trí óc ta không suy nghĩ điều gì nhưng mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe rõ ràng hay không? Mặt nước lặng là Ðịnh, bóng nhạn hiện là Huệ; không suy nghĩ lăng xăng là Ðịnh, nghe thấy rõ ràng là Huệ. Thiền chính là Ðịnh - Huệ đồng thời.
Một số Ðạo sư ngoại đạo cùng thời với Ðức Phật cũng có lắm thần thông, đôi vị thấy đến 20 - 40 thành kiếp hoại kiếp về trước. Ðó là nhờ sức định sâu, nhưng vì không phát huệ nên chưa phải Bảo sở. Nếu chấp vào định và an trú trong đó, hành giả có thể rơi vào trạng thái “Si định” mà nhà Thiền gọi là Tử thủy. Thiền sư Triệu Châu dạy: “Chỗ có Phật chớ trụ lại, chỗ không Phật phải khéo vượt qua”. Lời dạy của Ngài mang tính liễu nghĩa của Tối thượng thừa Thiền. Lúc công phu, thấy tâm hoàn toàn lặng lẽ thanh tịnh (chỗ có Phật) ta không nên chấp trụ vào đó. Nếu khởi niệm “ta không còn chấp trước” (vừa khởi niệm là đã ở chỗ không Phật), cũng phải biết là vọng mà buông bỏ. Khéo hiểu lời dạy của chư Tổ, ta không vướng mắc vào sự thủ đắc thủ chứng trong công phu, vào các tầng Thiền định Hóa thành, tiếp tục đột phá vào tận cùng sâu thẳm bổn tịch bổn tri. Bổn tịch vốn thường tịch lặng nên không miễn cưỡng vào định, bổn tri vốn hằng giác nên không miễn cưỡng thêm hiểu biết. Quán triệt những điều khó nói khó hiểu trên đây, chúng ta sẽ tiến nhanh trên đường Ðạo, dù chưa hoàn toàn sống với bản tâm, nhưng tự nhiên có sự khế hợp trong lối sống và phong cách. Phiền não kiết sử ta vẫn còn như mọi người , nhưng khi hiểu lẽ thật rồi, ta thấy phiền não tự tánh vốn là không; và gương tâm ta tuy bị bụi bám đầy, nhưng tánh lặng lẽ sáng soi vẫn hằng hiện hữu. Từ đó, ta có sự an lạc nội tại, để khi gặp cơn nguy biến hay nghịch cảnh chướng duyên, thậm chí ngay cơn hấp hối, ta vẫn giữ chánh niệm, tỉnh giác nhận diện và chuyển hóa từng động thái của thân tâm.
Tổ Lâm Tế nói: “Ngoài chẳng nhận phàm Thánh, trong chẳng trụ căn bản”. Ðây là lối phá chấp triệt để của Bát-Nhã. Chúng ta thường có tâm phân biệt tốt-xấu, thiện-ác, Thánh-phàm..., trụ trước vào đó nên khó bề giải thoát. Tổ dạy, không những bên ngoài đừng vướng mắc hai bên, mà cảnh giới thanh tịnh bên trong cũng không để bị lôi dẫn. Như thế mới là Ðạo nhân vô y, hoàn toàn không nương tựa vào điều gì, kể cả vào sự chứng đạt của chính mình. Quét sạch tạo tác đến tận căn để, tâm hoàn toàn vắng lặng nhưng rõ ràng thường biết - đây là chỗ bất khả tư nghì chỉ tự mình thầm nhận. Và từ tâm thể bất tư nghì ấy, khởi phát diệu dụng là Vô sư trí. Diệu dụng, tức mặt trăng thứ hai nói theo kinh Lăng Nghiêm, được nhà Thiền diễn đạt bằng những hình ảnh lạ lùng: sáo không lỗ, đàn không dây, tiếng vỗ của một bàn tay... Lúc chưa đủ duyên thì ẩn tàng, khi đủ duyên sẽ phát ra “âm thanh”, lưu nhuận lưu ích cho muôn loài. Cũng như Ðức Phật ứng hóa thân là vị Thái tử xuất gia tu hành thành đạo, suốt 49 năm giáo hóa chúng sinh, nhờ đó chánh pháp lưu truyền mãi đến ngàn sau. Ðây là Sanh thân, thuộc Tích môn. Còn Ðức Phật Pháp thân xuất ly sinh tử thì chưa từng xuất hiện ở đời, chưa từng giáo hóa, chưa từng nhập diệt, không từ đâu đến cũng chẳng về đâu. Ðây là Pháp thân, tức lý tánh tuyệt đối, thuộc Chân như môn, Bản môn.
Hiểu như thế, ta mới thấy rõ hình tượng của tạo chủ (người sáng thế) và tạo vật (vũ trụ vạn pháp) muốn diễn tả điều gì. Ta cũng hiểu những hình ảnh lung linh huyền diệu dùng nhân cách hóa lý tánh tuyệt đối. Ví như biểu tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn: Quan Âm là Phản văn văn tự tánh. Trở về với Tánh thấy là thấy cùng khắp pháp giới, tức có đại trí thấu rõ lẽ thật (thiên nhãn); từ đó phát đại nguyện cứu độ muôn loài chúng sinh (thiên thủ). Sau khi viên mãn công phu Nhĩ căn viên thông, thể nhập Tánh nghe vượt qua năm ấm, Bồ tát Quan Âm thị hiện 32 ứng hóa thân đi vào cuộc đời.
Nhà Thiền có câu: “Thủy lưu qui đại hải, Nguyệt lạc bất ly thiên”. Nước dù chảy đi đâu, cuối cùng cũng về biển cả; trăng lặn ở đâu, cũng không ra khỏi bầu trời. Thân năm uẩn của chúng ta là hình tướng báo thân tùy nghiệp thọ sanh, nhưng sanh tử bao lần vẫn không ngoài thể tánh chân như bất biến. Các bậc Bồ tát sống trong thể tánh chân như ấy, nhưng do hạnh nguyện độ sanh mà vào thế giới sai biệt, giáo hóa muôn loài.
Chúng ta tu Thiền, học theo hạnh nguyện Bồ tát, muốn có sự bình ổn nội tâm và chan rải sự bình ổn ấy cho người. Nhưng đi tìm bình ổn ở đâu? Nhiều người gặp cảnh bất như ý, đi tìm quên lãng trong các thú vui thế tục; người có đạo tâm tìm nguồn an ủi nơi cảnh chùa. Nhưng hạt giống khổ đau nằm sẵn trong tàng thức, gặp dịp lại trồi lên, nên đến nơi nào cũng vẫn thấy khổ đau phiền não. Bởi vì, chúng ta có thể chạy trốn hoàn cảnh hiện thời, chạy trốn mọi người, chứ không thể chạy trốn bản thân. Vì thế, điều thiết yếu là phải trực diện với phiền não bằng chánh niệm tỉnh giác. Khi lắng sâu tâm thức để trực nhận chính mình, vọng tưởng không còn cơ hội lẫy lừng, ta có thể thấu suốt tận cùng bản chất của phiền não, và cuối cùng chuyển hóa chúng. Hạnh phúc đích thực chỉ hiện hữu khi ta trọn vẹn có bình an tự nội, mà sự bình an ấy là do trí tuệ trong công phu, nhận ra mọi khổ đau đều không có thật. Nói cách khác, nhờ Vô sư trí quán triệt vạn pháp đều không, hành giả vượt thoát tất cả mọi khổ nạn.
Lão tử nói: “Học thì ngày càng thêm, Ðạo thì ngày càng bớt”. Học hỏi kinh nghiệm tri thức bên ngoài là trí tuệ hữu sư, càng học càng nặng thêm kiến giải. Ngược lại, càng có công phu tu hành thì càng bớt phân tích lý luận, bớt phiền não kiết sử, bớt nhân ngã thị phi. Khi hành trì, nếu có vài kết quả, cũng phải buông xả để tâm hoàn toàn rỗng rang thanh tịnh, đó mới khế hợp đạo lý. Cuộc đời nhiều khổ hơn vui, nhưng người có định lực thì dù thân khổ mà tâm không khổ, dù bị dập vùi vẫn hiên ngang đi tới. Với khí lực ấy, với sức mạnh tinh thần ấy, hành giả vững bước trên đường đạo và đường đời, đồng thời tiếp thêm sức mạnh cho những người chung quanh. Hình ảnh Ðịa Tạng Vương nơi địa ngục, Diệm Nhiên Vương (hóa thân của Bồ tát Quan Ââm) nơi cõi Ngạ quỷ... là những hình ảnh huyền nhiệm và tấm gương sáng chói nhất về hạnh nguyện trục loại tùy hình làm lợi ích cho chúng sinh.
http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2...7-7_14-1_15-1/
vÔ SƯ TRÍ LÀ GÌ ?
09.04.2010 16:50
Hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu về đề tài VÔ SƯ TRÍ. Trong kinh điển nhà phật thường nói đến vô sư trí hay là trí vô sư cũng như nhau. Chúng ta mỗi ngày qua có thêm kinh nghiệm sống,
học thêm được nhiều điều hay lẽ phải được kết quả đó do học từ bên ngoài mà có, nói tóm lại sự hiểu biết bằng ý thức của chúng ta đang có hôm nay do chúng ta huân tập học hỏi xung quanh môi trường sống này mới có, cái đó gọi là TRÍ HỮU SƯ
Cái trí hữu sư này do người biết trước truyền thừa lại người biết sau cứ nối tiếp mãi không ngừng, do ta vay mượn từ bên ngoài mà có , mà cái gì đã vay mượn thì phải trả không tồn tại được, vì vậy cái trí hữu sư sáng còn nhớ tối quên mất là lẽ đơn nhiên.
Vì vậy giáo pháp của phật đà chỉ cho ta rỏ ràng con đường tìm ra cái TRÍ VÔ SƯ ngay nơi thân tam bợ này, mới mong thoát khỏi cảnh vay mượn, có ai sống mà thích mình vay mượn mãi như vậy không? chắc là không rồi, vậy tu phật thì phải tìm cho được cái vô sư trí ngay nơi thân vô thường này mới có ngày hết khổ vì hết nợ nần.
Trí vô sư này là cái trí mà không có một ai cho mình cả, ai ai củng có sẳn như nhau, không cần học mà có, mở mắt ra thấy cha, thấy mẹ nhìn anh em vợ con mà tâm thức thấy biết rỏ ràng, tâm trí không cần "thì thầm" khởi nghỉ đó là mẹ mình kia cha mình mà vẩn biết rỏ từng người ... thì ngay lúc đó có trí vô sư hiện hữu không cần tìm đâu xa, quay lại mà nhìn, tìm trí vô sư thì nó đả mất tiêu. vậy ngay giây phút này quý vị thử nhìn cha mẹ mình đi nhé thực tập như vậy là trở về bộ mặt thật xưa nay của chính chúng ta không khó.
còn tiếp
(Đón đọc kỳ III)
Minh Trí (Theo minh trí)
http://tinhxangocnguyen.myplus.org/m...=viewst&sid=26
Vô sư trí vi tôn
Thư Liệu Theo Tháng - 02-2010
Written by HT Thích Thanh Từ
Bài Viết - Tùy Bút
Vừa rồi chùa Cổ Pháp ở Hà Nội có nhờ tôi đặt cho một đôi liễn và một bảng hoành phi. Trong bảng hoành phi năm chữ tôi đặt như thế này Vô sư trí vi tôn. Đây là câu mà tôi rất tâm đắc. Tôi tin chắc rằng quí Phật tử tu rồi cũng tâm đắc như tôi.
Vô sư trí vi tôn nghĩa là Trí vô sư tôn quí nhất. Tại sao tôi nói như vậy? Bởi vì chúng ta tu cốt là được giác ngộ, cốt được thành Phật nhưng mà giác ngộ cái gì?
Đó là một vấn đề mà người Phật tử chúng ta cần phải hiểu. Nói đến đây tôi nhắc lại cho quí vị nhớ, thuở xưa đức Phật Thích-ca đi tu, qua những lần học hỏi với các vị tiên nhân nhưng chưa đạt được mục đích, cuối cùng Ngài từ giã hết để tu khổ hạnh. Sau khi tu khổ hạnh không có hiệu quả, Ngài sống trở lại bình thường và đến dưới cội bồ-đề tọa thiền bốn mươi chín ngày đêm, Ngài được giác ngộ. Sau khi giác ngộ Ngài tuyên bố một câu như thế này:
-“Ta đã hàng phục tất cả, rõ biết tất cả. Ta không nhiễm một pháp nào. Ta xa lìa hết thảy, diệt dục mà giải thoát và tự mình chứng ngộ thì còn ai là thầy của ta?”
(Kinh Pháp Cú)
Ngay câu nói đó chúng ta tự kiểm nghiệm xem: Ngài hàng phục được tất cả, Ngài không nhiễm tất cả, Ngài lìa hết thảy, Ngài diệt dục được giải thoát và tự mình chứng ngộ thì còn ai làm thầy? Như vậy cái chứng ngộ của đức Phật không do ai dạy Ngài hết. Nếu có người dạy tức là có thầy nhưng ngược lại không có ai dạy nên không có ai là thầy của Phật. Không thầy tại sao được giác ngộ? Điều đó chắc quí Phật tử cũng nhớ, như Phật đã tuyên bố do Ngài hàng phục tất cả, biết được tất cả, không nhiễm một pháp nào, xa lìa hết thảy, diệt dục mà giải thoát. Nghĩa là đức Phật tự hàng phục được nội tâm, tự biết rõ được tất cả các pháp thiện ác, nhiễm tịnh v.v... và Ngài không nhiễm các pháp ác, không kẹt các pháp thiện, do đó mà diệt dục được giải thoát là do tự chứng ngộ chớ không có ai là thầy cả.
Hiện giờ tất cả quí Phật tử đang tu tập tọa thiền, vậy tọa thiền để làm gì? Để hàng phục mình phải không? Hàng phục từ thân đến tâm của chính mình. Trong khi ngồi thiền, nếu ngồi quen nửa giờ mà thêm chừng mười phút nữa thì sao? Chắc là mười phút cay đắng. Như vậy nếu chúng ta cố gắng ngồi được một giờ hay hơn một giờ v.v... đó là chúng ta đã hàng phục được sự nhọc nhằn của thân. Kế đó đến nội tâm, tức là ý niệm của chúng ta như một dòng nước chảy xiết vậy, hết niệm này tới niệm kia liên tục không ngừng. Thế nên chúng ta tọa thiền để thắng hết tất cả những thứ niệm đó, không cho nó khởi liên tục, từ từ chúng lặng dần cho đến lúc không còn dấy động nữa. Như vậy hàng phục được tất cả niệm lăng xăng của mình. Đó là chúng ta đã tự chiến thắng, đã vào được Thiền định. Vì định tức là nội tâm yên tịnh không còn lăng xăng nữa. Được như vậy rồi thì tất cả các pháp nhiễm, tất cả các pháp ác đều xa lìa. Từ đó mọi ham muốn được tháo gỡ. Nhờ vậy trong khi tu tâm chúng ta được trong lặng sáng suốt, dứt hết các nhiễm ô rồi thì tự giác ngộ. Mà tự giác ngộ thì ai là thầy của chúng ta? Tự giác ngộ là Trí vô sư sẵn có của mình.
Chúng ta nhớ đức Phật tọa thiền dưới cội bồ-đề bốn mươi chín ngày đêm, tâm yên tĩnh trong lặng, cho đến khi Ngài hướng tâm về quá khứ liền nhớ vô số kiếp về trước đã từng làm gì, ở đâu và tất cả sự việc xảy ra như thế nào. Ngài nhớ như là chuyện xảy ra hôm qua rõ ràng không thiếu sót, đó gọi là chứng Túc mạng minh. Khi Ngài hướng tâm về vị lai thấy chúng sanh sau khi chết sẽ đi về đâu? Cái gì lôi dẫn đi? Ngài thấy rõ chúng sanh do nghiệp dẫn đi trong các đường, đó là chứng được Thiên nhãn minh. Như vậy chứng Túc mạng minh, chứng Thiên nhãn minh v.v... tất cả cái chứng đó đều do Vô sư trí mà ra, chớ không phải ở đâu, không do ai dạy hết.
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra Trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết, điều đó rất rõ ràng. Tôi dẫn một việc nhỏ này cho quí Phật tử nghiệm xem, có những Phật tử tu được chút chút, lúc tọa thiền yên lặng, bất chợt nhớ lại câu kinh hôm nào mình học không hiểu, khi nhớ lại bỗng dưng hiểu ra. Cái hiểu này do ai dạy? Lúc đó không có thầy giảng, không có người nói, tại sao nhớ lại rồi bỗng dưng hiểu, hiểu một cách rõ ràng sáng suốt. Thử hỏi ai dạy? Đó là hiện tượng của Trí vô sư, điều nhỏ thì sáng nhỏ, điều lớn thì sáng lớn.
Như vậy chúng ta tu hành cần đạt được Trí vô sư thì mới có thể được giác ngộ thành Phật. Như vậy Phật ở đâu? Phật sẵn ở nơi mình. Muốn thấy Phật, chịu khó dẹp hết mây phiền não, mây nghiệp chướng, nếu nó trong sạch hết thì ông Phật mình hiện ra, chớ không có ở đâu cả. Lâu nay chúng ta cứ nghĩ Phật ở đâu trên non, trên núi nên phải trèo đèo lội suối, phải đi thật xa tìm Phật, nhưng thật tình Phật ở ngay nơi mình. Vì vậy, người học đạo không nên có tâm tìm kiếm bên ngoài mà chỉ dồn hết sức mình phá dẹp phiền não, dừng lặng dòng tư tưởng lăng xăng. Những thứ đó tan rồi, lặng rồi thì ông Phật hiện tiền.
Vậy quí Phật tử tu Thiền là lối tu gần hay xa, khó làm hay dễ làm, thực tế hay mơ hồ? Việc làm đó là thật của mình, vì mình dẹp được phiền não thì mình hết khổ, dừng được tâm lăng xăng thì tâm được an định. Tâm hết phiền não, được an định thì trí tuệ bừng sáng, ngay nơi mình chớ không có ở đâu xa hết. Cho nên người Phật tử tu Thiền lúc nào cũng phải dụng công tu hành cho chiến thắng được mình, chớ không được cầu xin ai khác. Lâu nay Phật tử mình đã quen cầu xin, bây giờ phải ngồi lại thấy khổ quá chừng. Hồi đó quen lạy Phật cầu xin cho con cái này cho con cái kia, bây giờ bắt xoay lại mình để quán sát đâu là thật đâu là hư, đâu là xấu đâu là tốt, nhận định rồi tự mình phá dẹp. Thấy việc đó nhọc nhằn không quen nhưng đó mới thật là chỗ tu hành chân chánh. Đức Phật ngày xưa đã như vậy, bây giờ chúng ta cũng làm như vậy thì mới đúng là đi theo Phật, còn mình làm khác đi thì không biết mình theo Phật hay theo ai? Tôi chủ trương tu theo Phật thì phải sử dụng phương pháp Phật sử dụng ngày xưa, ứng dụng vào sự tu của mình sẽ có kết quả không nghi.
Tôi xin dẫn câu chuyện sau đây để quí Phật tử nghiệm xem. Thiền sư Nham Đầu và Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn đi đến Ngao Sơn gặp trời trở tuyết, nên hai huynh đệ vào trong cái miếu nhỏ ở tạm. Mỗi hôm ngài Tuyết Phong đều ngồi thiền, còn ngài Nham Đầu thì không ngồi. Ngài Nham Đầu mới quở ngài Tuyết Phong sao ngồi thiền mãi như vậy, ngài Tuyết Phong nói:
- Tôi thật còn chưa ổn.
Ngài Nham Đầu bảo:
- Nếu ông thật như thế, cứ chỗ thấy của ông mỗi mỗi thông qua, chỗ phải tôi sẽ chứng minh cho ông, chỗ chẳng phải tôi sẽ vì ông đuổi dẹp.
Ngài Tuyết Phong kể lại:
- Khi xưa tôi mới đến chỗ Thiền sư Diêm Quan thấy Ngài thượng đường nói về nghĩa Sắc Không, ngay nơi đó tôi liền được vào cửa.
Ngài Nham Đầu bảo:
- Từ đây đến ba mươi năm sau rất kỵ không được nói đến.
Ngộ được lý Sắc Không mà ngài Nham Đầu nói chưa được, ba mươi năm sau rất kỵ nói đến cái đó. Như vậy chúng ta mới thấy trong thời gian tu thiền có nhiều chặng. Bước đầu mới vào cửa thiền đa số chúng ta đều học Bát-nhã. Học Bát-nhã là để nhận được lý Sắc Không (Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc). Bước vào cửa Không đã là một bước tiến trên đường tu rồi, nhưng chưa phải là chỗ cứu kính, nên ngài Nham Đầu mới bảo: “Từ đây đến ba mươi năm sau rất kỵ không được nói đến.” Ngài Tuyết Phong kể tiếp:
- Tôi thấy bài kệ của ngài Động Sơn khi qua cầu ngộ đạo (ngài Động Sơn qua cầu, nhìn dưới dòng suối thấy bóng của mình, ngay đó Ngài ngộ đạo) liền làm bài kệ:
Thiết kỵ tùng tha mích
Điều điều dữ ngã sơ
Cừ kim chánh thị ngã
Ngã kim bất thị cừ.
“Thiết kỵ tùng tha mích” nghĩa là rất tối kỵ, chẳng nên tìm nơi khác mà được. Vì nếu tìm nơi khác thì đã cách xa, không phải là mình. “Cừ kim chánh thị ngã”, nghĩa là nó chính là mình. “Ngã kim bất thị cừ”, nhưng mình thì không phải là nó. Bởi vì ngài Động Sơn đi trên cầu, nhìn dưới suối thấy bóng của mình, cái bóng thì đâu phải là mình nhưng nó có rời mình không? Vì vậy nên nói nó cũng chính là mình: “Cừ kim chánh thị ngã”. Nhưng mình không phải là nó, tức mình không phải là bóng, ngài Động Sơn do nhận thấy bóng của mình mà ngộ đạo, ngài Tuyết Phong nhân nghe được câu này cũng có tỉnh. Bởi tỉnh nên trình với ngài Nham Đầu nhưng ngài Nham Đầu lại bảo rằng: “Nếu chừng ấy tự cứu cũng chưa xong.” Đó là chặng thứ hai.
Chặng thứ nhất là thấu suốt được lẽ sắc không, chặng thứ hai là biết nơi mình, bên cạnh cái giả có cái thật. Bóng là giả nhưng cái giả đó không rời cái thật. Biết được lý ấy rồi cũng vẫn chưa tới nơi, nên ngài Nham Đầu nói: “Chừng ấy tự cứu cũng chưa xong.” Ngài Tuyết Phong kể thêm: “Một hôm tôi hỏi ngài Đức Sơn việc tông thừa con có phần chăng, ngài Đức Sơn đánh một gậy hỏi tôi nói cái gì, tôi khi ấy như thùng lủng đáy.” Như thùng lủng đáy nghĩa là rỗng và sạch hết, vậy mà ngài Nham Đầu nạt: “Ông chẳng nghe nói từ cửa vào chẳng phải của báu trong nhà.”
Cái gì từ cửa vào thì không phải là của báu trong nhà. Câu này để giản trạch cho chúng ta hiểu người tu phải nhận được cái chân thật của mình. Cái chân thật của mình luôn có sẵn đây, chớ còn nhờ bên ngoài thì chưa được. Chúng ta ngồi thiền lặng lẽ, tỉnh giác, chợt phút giây nào bừng sáng lên thì đó mới thật là của mình. Còn đi hỏi người này, đi học người kia, thì sự hiểu biết ấy không phải là của mình, mà là của người ta.
Sau này ngài Tuyết Phong hỏi thêm:
- Về sau làm thế nào mới phải?
Ngài Nham Đầu bảo:
- Về sau, muốn xiển dương đại giáo mỗi mỗi từ trong hông ngực lưu xuất, sau này cùng ta che trời che đất đi.
Ngài Tuyết Phong ngay câu này liền bừng ngộ, nên gọi là ngộ đạo ở Ngao Sơn (tức là ở núi Ngao). Như vậy chỗ cuối cùng là từ hông ngực mà phát ra, chớ không phải ở bên ngoài. Nếu còn ở ngoài thì chưa phải tột. Chúng ta tu từ nội tâm phát sáng, từ nội tâm giác ngộ, đó mới là chân thật, là Trí vô sư hiện. Trí này là thật của chúng ta, nó trùm khắp không chỉ giới hạn trong thân tứ đại thôi.
Qua những chặng tôi nêu quí Phật tử nên hiểu, mình tu Thiền không phải chỉ một lần ngộ. Khi chúng ta bước vào sự tu, nghe kinh Bát-nhã hoặc đọc kinh Kim Cang, chúng ta thấy lóe được nghĩa Sắc Không cũng đã đáng mừng rồi. Từ chỗ ngày xưa mình thấy Sắc riêng Không riêng, bây giờ thấy Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Đây là bước đầu có tỉnh, có ngộ nhưng chỉ là tiểu ngộ thôi, chớ chưa phải đại ngộ. Đến như đọc một bài kệ, một câu thơ của các Thiền sư, mình nhận ra và lãnh hội được ý nghĩa câu đó đúng như điều mình đang hiểu, đang tu thì xem như bừng sáng một chặng nữa. Đây cũng là một chặng đường thôi. Hoặc giả trong khi tu, đem những lời đạo lý bàn luận với huynh đệ, thưa hỏi với thầy, được thầy nói cho một câu liền bừng sáng, nhẹ người lên. Lúc đó thấy như thùng lủng đáy, như vậy đó mà cũng vẫn chưa rồi. Cho đến bao giờ tự mình phát sáng ra, nhận thấy tất cả Thật thể muôn pháp trong thế gian này thì chừng đó mới thật là đại ngộ. Thế nên ở trong nhà Thiền nói tiểu ngộ thì vô số, còn đại ngộ cũng đôi ba lần, chớ không phải một lần. Tôi từ khi tu cho đến bây giờ, hướng dẫn Tăng Ni cũng như Phật tử tu, thấy tiểu ngộ khá nhiều, còn cũng có vài người gần như được đại ngộ. Đây là điều đáng mừng.
Lúc trước tôi có mặc cảm mình dạy người ta tu Thiền, nhất là giai đoạn đầu ra Chân Không, tôi mở khóa thứ nhất có mười người thôi, không dám nhận đông. Tại sao vậy? Bởi vì tôi nghe nhiều người nói: “coi chừng tu Thiền điên”, nên tôi thí nghiệm mười vị này xem có điên không. Dù biết tôi tu không điên, nhưng chưa rõ những người tu theo tôi thì sao? Qua ba năm không thấy ai điên hết nên khóa thứ hai tôi tăng lên ba, bốn chục vị. Rồi bây giờ đến mấy trăm người cũng không thấy ai điên. Do đó tôi hết mặc cảm lời người ta nói. Nếu bảo rằng tu Thiền điên là điều hết sức tai hại cho người tu Phật.
Chúng ta đã biết đức Phật Thích-ca do ngồi thiền ngộ đạo, bây giờ sao đệ tử Ngài ngồi thiền lại điên? Nói như vậy là một cái họa cho người tu Phật, nhất là tu Thiền. Còn một điều nữa, có người nói tu Thiền chỉ dành cho hàng thượng căn thượng trí mới tu được thôi, thời này mình tiểu căn tiểu trí tu không được.
Ngày xưa tôi cũng mặc cảm vì câu nói đó, nhưng sau này tôi lại nghĩ khác. Chúng ta có bệnh, cứ nghĩ người xưa mới thông minh, người xưa mới có căn trí bén nhạy, còn chúng ta bây giờ đần độn, ngu tối. Thật ra nếu xét kỹ có phải vậy không? Hồi xưa có người thông minh nhưng cũng có người đần độn. Ngày nay cũng thế, có nhiều người thông minh lắm chứ. Biết bao điều người xưa chưa biết, bây giờ nhờ khoa học và văn minh chúng ta được biết. Có những việc người xưa không làm được mà bây giờ ta làm được, tại sao lại nói ta đần độn? Như vậy bây giờ phải khôn hơn hồi xưa chứ! Nếu dại hơn thì hồi xưa chỉ biết đi bộ, sao bây giờ biết đi máy bay. Hồi xưa cái gì cũng thô sơ sao bây giờ cái gì cũng tinh vi? Người đời khôn hơn thời xưa, chẳng lẽ người tu dại hơn người xưa? Sao tệ vậy! Cho nên tôi không chịu. Tôi nói người xưa làm được thì ngày nay chúng ta làm cũng được, chỉ có điều chúng ta làm có đúng như người xưa không. Người xưa do đủ điều kiện mà thành công thì chúng ta nếu đủ điều kiện chắc chắn cũng sẽ thành công. Cứ cho rằng người xưa thông minh, thượng căn thượng trí và nghĩ mình là đần độn, như vậy là tự khi mình; mà khi mình thì tiến không được.
Trong nhà Thiền có câu: “Đệ tử bằng thầy là đã thua thầy nửa đức, đệ tử hơn thầy mới kham gìn giữ sự nghiệp của thầy.” Tại sao trong nhà Thiền nói như vậy? Thí dụ như tôi tu năm mươi năm, bây giờ có người đệ tử ngộ bằng tôi, nhưng tu mới mười năm thì đã thua tôi phân nửa rồi. Vì ngộ thì bằng nhưng công đức tu chưa bằng, nên nói thua thầy. Khi nào thầy ngộ mười mà đệ tử ngộ được hai mươi mới kịp với thầy. Vậy ông thầy trông cho đệ tử giỏi hơn, chớ không muốn đệ tử thua mình. Không nên nói: “Ta trước căn cơ bậc thượng, còn người sau căn cơ bậc hạ, tu không được.” Người sau vẫn có khả năng như người trước, chỉ có điều nếu người sau không làm đúng nguyên tắc người trước đã làm thì người sau tu sai trật; sai trật thì tu không có kết quả.
Gần đây tôi thấy Tăng Ni tu có tiến, thỉnh thoảng một vài Phật tử tu cũng có tiến. Như vậy tôi rất mừng, vì việc làm của chúng ta không phải phí công vô ích, mà có kết quả thật sự. Người nào ham tu thì giảm phiền não, một trăm phần cũng giảm được vài chục phần. Như vậy có tu thì có tiến. Tu ít thì kết quả ít, tu nhiều thì kết quả nhiều. Tất cả kết quả đó đều do công phu soi sáng lại chính mình để nhận ra cái chân thật của mình. Khi đã nhận ra rồi thì tự mình sẽ vượt qua hết những khó khăn, những đau khổ ở đời. Đến đây tôi kể thêm một chuyện nữa để làm sáng tỏ thâm ý trên. Câu chuyện này được trích từ tác phẩm “Góp Nhặt Cát Đá” của Nhật Bản.
Có một chú mù lâu ngày nhớ bạn, nên hôm đó chú chống gậy đi tìm thăm bạn. Gặp lại bạn cũ chú mừng quá nên ở chơi, nói chuyện đến khuya vẫn chưa chịu về. Thấy vậy, người bạn nhắc chú: “đã khuya quá rồi anh nên về”, chú mới chịu về. Người bạn thấy bên ngoài trời tối mà bạn mình lại mù, sợ nguy hiểm nên nói:
- Để tôi đốt cho anh cây đèn, anh cầm đi về.
Chú mù cười:
- Tôi thì ngày như đêm, đêm như ngày; bây giờ anh đốt đèn, tôi cũng đâu thấy cái gì.
Anh bạn nói:
- Biết vậy. Nhưng nhờ anh cầm cây đèn, người khác thấy được sẽ không đụng anh.
Nghe có lý nên chú mù cầm đèn đi về. Được nửa đường bỗng có người đầu kia đi lại đụng phải, chú la lên:
- Bộ anh không thấy tôi sao?
Người kia nói:
- Dạ thưa ông, tôi không thấy.
- Tôi cầm cây đèn đây mà anh không thấy à!
- Cây đèn của ông đã tắt từ bao giờ rồi.
Qua câu chuyện đó quí vị hiểu thế nào? Nếu mình không tự sáng, dù cho người khác đem ánh sáng đến trao tay cho mình cũng không cứu được mình. Đèn bên ngoài đưa lại, đó là Hữu sư trí. Trí do người khác cho mình thì cứu mình không được, chỉ con mắt mình sáng mới cứu được mình thôi. Mắt mình sáng đó là Vô sư trí, không ai dạy mà tự sáng. Bởi vậy nên người học Phật hay tu Phật phải khai thác trí sẵn có của mình là quí hơn hết.
Kế nữa là câu chuyện của ngài Đức Sơn. Một hôm Ngài đứng hầu thầy là Thiền sư Sùng Tín. Thấy khuya quá ngài Sùng Tín bảo:
- Ông đi nghỉ đi.
Ngài Đức Sơn vâng lời xá thầy, vén rèm bước ra. Thấy bên ngoài tối quá nên Ngài quay trở lại, ngài Sùng Tín hỏi:
- Sao ông trở lại?
Ngài Đức Sơn thưa:
- Bạch Hòa thượng, bên ngoài trời tối đen.
Nghe nói vậy, ngài Sùng Tín bèn đốt cây đèn cầm đưa cho Đức Sơn. Đức Sơn vừa đưa tay nhận cây đèn thì ngài Sùng Tín vụt thổi tắt. Ngài Đức Sơn liền ngộ. Như vậy ngài Đức Sơn ngộ cái gì? Nếu mình thấy tối phải nhờ đèn, nhưng nếu đèn do người khác trao thì chưa làm mình sáng được. Ngài Đức Sơn vừa cầm đèn thì ngài Sùng Tín liền thổi tắt. Ngay đó Đức Sơn tự bừng ngộ, cho nên “cái đó” phải tự mình sáng ra, chớ người khác trao cho không được.
Như vậy tôi giảng Thiền, dạy Thiền cũng chỉ là hướng dẫn cho quí vị thực hành thôi, sáng hay tối là do quí vị chớ không phải tôi. Bởi tôi không có khả năng làm cho quí vị sáng mà chỉ hướng dẫn thế này, thế nọ... rồi tự quí vị theo đó tự khai thác, tự ngộ. Chừng nào ngộ, báo tin cho tôi mừng thôi. Tôi không làm gì cho quí vị cả. Lẽ thật trong đạo là vậy.
Qua những câu chuyện trên, chúng ta thấy người tu Thiền là người đang đào bới thửa đất tâm của mình để tìm cho ra hòn ngọc trong đó. Đến khi nào chúng ta phát hiện và nắm hòn ngọc được rồi là điều quí nhất, đáng mừng nhất của người tu. Được “cái đó” mới gọi là chân thật, còn tất cả những gì chúng ta hiểu, chúng ta nghe ai nói chỉ là phụ thôi. Đó là ý nghĩa Vô sư trí mà mỗi người chúng ta phải tự thấy, tự biết.
Nếu không nhờ Vô sư trí thì có lẽ các nhà khoa học sẽ không có các phát minh. Bởi vì phát minh là thấy biết, phát hiện ra những điều từ trước đến giờ chưa ai biết; mà điều chưa ai biết thì ai dạy mình? Chỉ người có chí dồn hết tâm lực vào một việc, rồi ngày nào tự bừng sáng lên, gọi là phát minh. Người thế gian lo giúp cho đời nên phát minh vật chất, còn chúng ta tu hành thì lo phát minh cái sẵn có của mình. “Cái đó” bị chôn vùi, bây giờ chúng ta phải làm cho nó sáng ra, hiển bày ra. Khi được sáng, được hiển bày rồi thì lúc đó chúng ta phải làm gì nữa? Chui vô non vô núi ở cho đến chết luôn phải không?
Khi mình nhận được hòn ngọc thật và biết mọi người cũng đều có hòn ngọc đó nhưng họ quên, thì chúng ta khởi lòng từ bi thương tất cả, muốn chỉ anh có, tôi có, người khác có. Chỉ ra hòn ngọc của mỗi người sẵn có là cái chỉ bình đẳng, không thiên vị. Dù kẻ đó là quan nhưng ông quên, mình cũng thương như người khác, còn kẻ cùng đinh mà quên thì mình cũng thương như ông quan. Bởi vì chúng ta chỉ thương cái mê, cái quên của họ thôi. Nếu nói thấy ai nghèo mình thương, còn người giàu không thương, như vậy là mất bình đẳng. Thương cái mê, cái quên vì họ có của báu mà không nhớ, nên người nào quên chúng ta cũng thương, như vậy lòng thương đó mới bình đẳng. Chính vì ai cũng có của báu, có hòn ngọc quí, nên dù nam hay nữ cũng tu thành Phật được hết. Chỉ quên thì không có, còn nhớ và ráng tu là được. Thế nên tinh thần Thiền tông hết sức bình đẳng, nam nữ như nhau, ai cũng có hòn ngọc quí nên ai cũng có quyền thành Phật cả.
Trong kinh Pháp Hoa, phẩm Đề-bà-đạt-đa, có Long nữ được ngài Văn-thù giáo hóa. Ngài Văn-thù nói với ngài Xá-lợi-phất: “Long nữ này sẽ thành Phật”, ngài Xá-lợi-phất không tin vì người nữ và hơn nữa là súc sanh thì làm gì thành Phật được. Long nữ nghe nói như vậy liền đem viên ngọc minh châu dâng lên cúng dường Phật. Phật nhận, Long nữ hỏi ngài Xá-lợi-phất:
- Tôi dâng ngọc, đức Thế Tôn nhận có mau không?
Ngài Xá-lợi-phất nói:
- Mau.
- Tôi thành Phật cũng mau như vậy đó.
Liền khi đó Long nữ ẩn mình qua nước khác thành Phật. Như vậy là sao? Văn-thù-sư-lợi trong kinh Pháp Hoa là tiêu biểu cho Vô sư trí. Đã có Vô sư trí thì nam nữ gì cũng thành Phật chớ không phân biệt phái nào.
Người nữ đứng về mặt nghiệp tướng thì khác, nhưng về mặt Vô sư trí thì bình đẳng với người nam. Vì vậy Thiền tông luôn khai thác Trí vô sư đó. Dưới con mắt nhà Thiền thấy nam nữ bình đẳng như nhau, ai cũng có khả năng thành Phật. Tăng Ni, Phật tử nam hay Phật tử nữ, cho đến cả người thế gian chưa từng biết đạo cũng có hòn ngọc quí, cho nên không ai là kẻ bần cùng, chỉ người quên mới bần cùng thôi.
Nếu chúng ta ứng dụng tu cho đến nơi, đến chốn thì quyền thành Phật là quyền của mình, chớ không phải Phật cho mình thành Phật. Phần nhiều chúng ta mong muốn được Phật thọ ký, nhưng chúng ta có làm được thì Phật mới thọ ký, còn không làm được thì Phật làm sao thọ ký? Chúng ta có quyền làm Phật và chúng ta cũng có quyền làm ngạ quỉ, súc sanh. Chính vì chúng ta có quyền đó nên chúng ta phải nỗ lực tinh tấn tu hành, để đi lên chớ đừng đi xuống. Không ai phạt chúng ta cả, trời không phạt, Phật không phạt mà chỉ vì mình chọn đường đi. Chọn đường đi xuống thì đi xuống, chọn đường đi lên thì đi lên, tất cả đều do mình chọn.
Có người nói Thiền tông nói gì cũng hướng về mình hết, không nhờ bên ngoài; như vậy không nhờ Phật sao? Thật ra chúng ta phải hiểu như vầy: Phật chỉ cho chúng ta đường lối tu, căn bản các pháp tu là đã gia hộ cho chúng ta rồi. Cũng như quí vị không biết gì hết, tôi chỉ cho quí vị biết chút chút rằng, quí vị có hòn ngọc quí báu, có cái sáng suốt, nhưng quí vị phải tự tìm lấy. Đó là tôi đã gia hộ cho quí vị, chớ đâu phải đợi gặp tai nạn rồi ban cho điều này, điều kia mới gọi là gia hộ. Hướng dẫn một lối đi, chúng ta theo đó tự sáng lên tránh khỏi mọi khổ đau. Đó gọi là gia hộ.
Lại, nói về thầm gia hộ thì như đứa học trò siêng năng cần mẫn, thông minh, thầy cô giáo dạy đâu đều học, đều hiểu và đều thực hành được hết. Làm bài nó có xin thầy giáo cho con điểm cao và thầy cô có chiều nó không? Nếu nó thông minh, học giỏi, làm bài hay thì nhất định thầy cô phải cho điểm cao. Cho điểm cao là thầy cô thương nó hay là tại cái gì? Tại nó cố gắng học.
Cũng vậy, người tu của chúng ta, nếu tu chân chánh, cần mẫn thì sau này có kết quả tốt. Còn nói rằng Phật thọ ký hay Bồ-tát hướng dẫn cho mình, thật ra đó là do công phu nỗ lực của mình, cố gắng thực hành theo lời dạy bảo của các ngài, nên việc tu mới có kết quả. Nhờ sự nỗ lực, cố gắng đó mà được điểm tốt. Thầm gia hộ là như vậy. Phật thương chúng ta, muốn chúng ta tu tiến từ chính sự cố gắng nỗ lực của chúng ta. Được thế, Phật mừng và khen ngợi; khen ngợi đó là thầm gia hộ rồi.
Hôm nay tôi đến thăm Đạo tràng Thái Tuệ, vừa để biết chỗ nơi tu hành của quí Phật tử, vừa trực tiếp nhắc nhở sách tấn quí vị tu tập. Tôi nghĩ quí Phật tử cũng từng nghe giảng, nghe tôi nói nhiều rồi, mong rằng từ đây về sau tất cả quí Phật tử trong Đạo tràng và những Phật tử xung quanh biết mình có của báu quí giá rồi, phải ráng nỗ lực khai thác tìm ra cho được mà dùng, đừng làm cùng tử lang thang nữa. Đó là sự mong mỏi của tôi
HT Thích Thanh Từ
Nguồn: thienviendaidang.net
http://www.huongdaoonline.com.au/ind...it-2&Itemid=86
Nhiều quá, không hội nổi, bị đặc đầu.
Đây là những gì tôi cho là hữu ích nhất, chứng thực, phân hạng công phu tu hành của đạo sỹ, tổng cộng 44 điều, tu luyện bấy lâu nay và sắp tới cũng chỉ dựa vào 44 điều này, tôi gọi là tứ thập tứ pháp. Xin chia sẻ cùng quý đạo hữu.
1. Cố
2. Quan diệu kiếu
3. Tương sinh
4. Bất hiện bất loạn
5. Hư tâm
6. Thủ xung
7. Hòa quang
8. Động
9. Gian thần
10.Thân ngoại
11. Vô tư
12. Vô ưu
13. Thiện thủy thiện địa
14. Thời động
15. Hồn phách vô ly thân
16. Dụng
17. Di hi vi
18. Hốt hoảng
19. Ngự kim tri thủy
20. Thông thức
21. An động, thanh tĩnh
22. Tân thành
23. Quan phục
24. Tri thường
25. Tuyệt, thiểu
26. Tòng
27. Tắc
28. Bất cửu
29. Tịch
30. Chu hành
31. Đạo pháp khiên cưỡng
32. Siêu nhiên
33. Khai quan
34. Tán khí
35. Thần khí
36. Hoặc
37. Phù
38. Giáng hợp
39. Chỉ
40. Thí
41. Tử vong
42. Đạm
43. Tương
44. Tương tự hóa, tương tự định
Xin các vị kiến thức phật giáo cao thâm trả lời câu hỏi này của tôi:
http://www.thegioivohinh.com/diendan...1&postcount=23
NHẬN THỨC CỦA HUYỀN MÔN VỀ CÁC BÀI VIẾT TRÊN CỦA CỦA CÁC TÁC GIẢ PHẬT GIÁO VỀ VÔ SƯ TRÍ NHƯ SAU :
CHƯƠNG NĂM: VÔ SƯ TRÍ
I. TRÍ TUỆ HỮU SƯ VÀ VÔ SƯ.
Con người từ lúc mới sinh ra đến khi mất đi, mỗi ngày mỗi tích lũy thêm kiến thức kinh nghiệm để tồn tại và phát triển. ...................
................................ Trạng thái “Phi tư lương xứ” chính là trạng thái của Thiền, là hành vi của Vô sư trí.
Hệ Pàli phân biệt 5 cấp độ hiểu biết từ thấp đến cao:
1. Tưởng tri: Cái biết do tưởng tượng, như mây bay thấy trăng dời, thuyền đi thấy bờ chạy.
2. Thức tri: Biết do phân biệt so sánh. Nhìn một vật, con người khởi ngay niệm phân biệt đẹp - xấu, từ đó lôi cuốn theo một loạt ý nghĩ khác như khen - chê, ưa - ghét...
Tưởng tri và thức tri là hai cấp độ hiểu biết của phàm phu, nhìn các pháp một cách phiến diện và chủ quan nên thường nông cạn, sai lầm.
3. Tuệ tri: Cái biết bằng trí tuệ nhờ công phu thiền tập.
4. Thắng tri: Cái biết thù thắng trong trạng thái tâm lặng lẽ, không dấy niệm dính mắc hai bên.
Tuệ tri và Thắng tri là trí tuệ của các bậc Hữu học từ Sơ quả đến Tam quả. Tuy nhiên, vẫn còn những niệm vi tế làm chướng ngại mà Đức Phật ví như sóng nắng.
5. Liễu tri: “Liễu” là hoàn toàn, tột cùng. Liễu tri hay Liễu liễu thường tri là trí tuệ của các bậc Vô học đã quét sạch mọi phàm tình thánh giải, đã giác ngộ và giải thoát hoàn toàn.
http://www.hoalinhthoai.com/?option=..._id=667&page=1
NHẬN THỨC HUYỀN MÔN VỀ BÀI VIẾT TRÊN VỀ VÔ SƯ TRÍ :
QUA ĐOẠN TRÊN TA THẤY RỎ RÀNG CÁI BIẾT CỦA VÔ SƯ TRÍ KHÔNG THÔNG QUA SỰ SUY LUẬN CỦA Ý THỨC PHÀM NHÂN , MÀ CÁI BIẾT NẦY HIỆN DIỆN KHI : “ tâm thanh tịnh rỗng rang, dứt bặt vọng tưởng suy lường, đột nhiên trực giác phát sinh, chủ thể và đối tượng nhận thức hòa nhập, ta chợt thấy rúng động toàn thân, chợt nhận ra mọi vấn đề một cách toàn diện toàn triệt. Đây là cái biết bất nhị, kết quả của một quá trình thiền tập miên mật và lâu dài, không do tư duy hay thức tình sinh khởi, không mang tính cách học thuật kinh viện thế gian ” THÌ ĐÂY LÀ GIAI ĐOẠN SỰ LẮNG ĐỘNG TẠP NIỆM CỦA Ý THỨC , LÚC NẦY ĐẦU ÓC VẮNG LẶNG Ở GIAI ĐOẠN TỈNH ĐỊNH THÂM SÂU , NÊN HÀNH GIẢ CÓ THỂ SCAN QUÉT HAY BẮT ĐƯỢC CÁC TÍN HIỆU TỪ CÁC HỘP THÔNG TIN LƯU TRỬ XƯA NAY TRONG KHÔNG GIAN NHIỀU CHIỀU , NẾU CHỦNG TỬ HUÂN TẬP CỦA HÀNH GIẢ THUỘC TÔN GIÁO NÀO , THÌ NÓ SẺ CHIÊU CẢM LINH LỰC VÀ TỤÊ GIÁC CỦA TÔN GIÁO ĐÓ , NÊN PHẬT GIÁO GỌI QUÁ TRÌNH NẦY LÀ GIỚI – ĐỊNH –TỤÊ VẬY ....DO ĐÓ , VÔ SƯ TRÍ CHỈ LÀ KHẢ NĂNG NGOẠI CẢM CỦA HÀNH GIẢ CÓ ĐƯỢC NHỜ THÔNG QUA SỰ TU TẬP THIỀN ĐỊNH LÂU DÀI MÀ THÔI ......CHỨ KHÔNG CÓ GÌ PHỨC TẠP THEO CÁCH DIỂN DỊCH ẨN GIẤU HAY BIỂU TƯỢNG CỦA CÁC TÔN GIÁO ....
II. NHỮNG VẤN ÐỀ QUAN TRỌNG LIÊN QUAN ÐẾN VÔ SƯ TRÍ
A. Kiến thức góp nhặt từ trường lớp sách vở không giúp ta hiểu rõ chính mình............................................. ......................
.................................................. .......... Hình ảnh Ðịa Tạng Vương nơi địa ngục, Diệm Nhiên Vương (hóa thân của Bồ tát Quan Ââm) nơi cõi Ngạ quỷ... là những hình ảnh huyền nhiệm và tấm gương sáng chói nhất về hạnh nguyện trục loại tùy hình làm lợi ích cho chúng sinh.
http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2...7-7_14-1_15-1/
NHẬN THỨC HUYỀN MÔN VỀ BÀI VIẾT TRÊN VỀ NHỮNG VẤN ÐỀ QUAN TRỌNG LIÊN QUAN ÐẾN VÔ SƯ TRÍ :
- BÀI VIẾT TRÊN BÀI BÁC CÁI HỌC CỦA TRI THỨC PHÀM NHÂN , NHƯNG THẬT RA NÓ CÓ CÁI DÙNG CỦA NÓ , THẬT HỬU ÍCH TRONG CUỘC SỐNG QUY ƯỚC CỦA XẢ HỘI . NHƯNG VÌ NÓ LÀ CÔNG CỤ CỦA BẢN NGẢ , NÊN KHÔNG BIẾT GÌ VỀ CHÂN NGẢ VÀ CÔNG CỤ NGOẠI CẢM CỦA NÓ ĐANG HIỆN DIỆN BÊN TRONG MỔI NGƯỜI .
- CÁC CÔNG ÁN CỦA THIỀN TÔNG THÌ CHỈ LÀ MỘT TRONG NHỮNG PHÁP MÔN GIÚP HÀNH GIẢ CÓ THỂ TÁCH CHÂN NGẢ RA KHỎI BẢN NGẢ , CHỦ THỂ VÀ KHÁCH THỂ NHẬP LÀM MỘT , KHÔNG CÓ NGƯỜI XEM VÀ VẬT XEM ...MÀ CHỈ CÓ SỰ BIẾT NHƯ NHƯ THỊ HIỆN CỦA VẠN PHÁP MÀ THÔI ....ĐỂ TỪ ĐÂY , HÀNH GIẢ MỚI CÓ THỂ TỪ TRONG CHÂN NGẢ MÀ THỂ NGHIỆM VÀ BẮT ĐƯỢC CÁC THÔNG TIN CỦA VŨ TRỤ PHÙ HỢP VỚI CHỦNG TỬ CẢM ỨNG THUỘC TÔN GIÁO CŨA MÌNH MÀ TUỆ GIÁC PHÁT SINH , NHƯNG THẬT RA ĐÂY CHỈ LÀ MỘT DẠNG CỦA VIỆC BẮT VÀ ĐỌC ĐƯỢC CÁC KÝ ỨC CỦA VŨ TRỤ ĐƯỢC LƯU GIỬ TRONG BỘ NHỚ CỦA VŨ TRỤ MÀ THÔI , CHỨ KHÔNG CÓ GÌ LÀ HUYỀN BÍ , GHÊ GỚM VÀ MƠ HỒ NHƯ CÁC DIỂN DỊCH CỦA NGÔN NGỮ THIỀN TÔN VÀ TÔN GIÁO LIÊN HỆ ...
- SỰ HIỂU BIẾT VÀ SỞ ĐẮC VÔ SƯ TRÍ ĐƯỢC GIÃNG GIÃI TRONG BÀI TRÊN , THEO HUYỀN MÔN , NÓ CHỈ LÀ KHẢ NĂNG NGOẠI CẢM CỦA CON NGƯỜI ĐƯỢC KHAI MỞ MÀ THÔI , NÓ CHỈ CẦN BẮT ĐÚNG TẦNG SỐ THÔNG TIN NÀO CẦN , MÀ MANG VỀ XỬ DỤNG MÀ THÔI , HÀNH GIẢ KHÔNG CẦN THÔNG QUA SỰ HỌC TẬP MÀ CŨNG THÔNG ĐẠT ĐƯỢC VẠN LÝ LÀ NHƯ THẾ .....
VÔ SƯ TRÍ LÀ GÌ ?
09.04.2010 16:50
Hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu về đề tài VÔ SƯ TRÍ. Trong kinh điển nhà phật thường nói đến vô sư trí hay là trí vô sư cũng như nhau. Chúng ta mỗi ngày qua có thêm kinh nghiệm sống,
học thêm được nhiều điều hay lẽ phải được kết quả đó do học từ bên ngoài mà có, nói tóm lại sự hiểu biết bằng ý thức của chúng ta đang có hôm nay do chúng ta huân tập học hỏi xung quanh môi trường sống này mới có, cái đó gọi là TRÍ HỮU SƯ
Cái trí hữu sư này do người biết trước truyền thừa lại người biết sau cứ nối tiếp mãi không ngừng, do ta vay mượn từ bên ngoài mà có , mà cái gì đã vay mượn thì phải trả không tồn tại được, vì vậy cái trí hữu sư sáng còn nhớ tối quên mất là lẽ đơn nhiên.
Vì vậy giáo pháp của phật đà chỉ cho ta rỏ ràng con đường tìm ra cái TRÍ VÔ SƯ ngay nơi thân tam bợ này, mới mong thoát khỏi cảnh vay mượn, có ai sống mà thích mình vay mượn mãi như vậy không? chắc là không rồi, vậy tu phật thì phải tìm cho được cái vô sư trí ngay nơi thân vô thường này mới có ngày hết khổ vì hết nợ nần.
Trí vô sư này là cái trí mà không có một ai cho mình cả, ai ai củng có sẳn như nhau, không cần học mà có, mở mắt ra thấy cha, thấy mẹ nhìn anh em vợ con mà tâm thức thấy biết rỏ ràng, tâm trí không cần "thì thầm" khởi nghỉ đó là mẹ mình kia cha mình mà vẩn biết rỏ từng người ... thì ngay lúc đó có trí vô sư hiện hữu không cần tìm đâu xa, quay lại mà nhìn, tìm trí vô sư thì nó đả mất tiêu. vậy ngay giây phút này quý vị thử nhìn cha mẹ mình đi nhé thực tập như vậy là trở về bộ mặt thật xưa nay của chính chúng ta không khó.
còn tiếp
(Đón đọc kỳ III)
Minh Trí (Theo minh trí)
http://tinhxangocnguyen.myplus.org/m...=viewst&sid=26
NHẬN THỨC HUYỀN MÔN VỀ BÀI VIẾT TRÊN : VÔ SƯ TRÍ LÀ GÌ ?
QUA ĐOẠN SAU ĐÂY : Trí vô sư này là cái trí mà không có một ai cho mình cả, ai ai củng có sẳn như nhau, không cần học mà có, mở mắt ra thấy cha, thấy mẹ nhìn anh em vợ con mà tâm thức thấy biết rỏ ràng, tâm trí không cần "thì thầm" khởi nghỉ đó là mẹ mình kia cha mình mà vẩn biết rỏ từng người ... thì ngay lúc đó có trí vô sư hiện hữu không cần tìm đâu xa, quay lại mà nhìn, tìm trí vô sư thì nó đả mất tiêu. vậy ngay giây phút này quý vị thử nhìn cha mẹ mình đi nhé thực tập như vậy là trở về bộ mặt thật xưa nay của chính chúng ta không khó. TA THẤY TÁC GIẢ NHẬP MỘT CHÂN NGẢ , LÀ CÁI BIẾT CỦA CHÂN NGẢ ĐỐI VỚI CÁC SẮC PHÁP CỦA THẾ GIAN VÀ PHẦN HAI LÀ KHẢ NĂNG NGOẠI CẢM CỦA CHÂN NGẢ ĐỐI VỚI CÁI BIẾT LIỀN NGAY TỨC THÌ CỦA KHẢ NĂNG NGOẠI CẢM , KHÔNG THÔNG QUA CÁI HỌC TÍCH LỦY HẠN HẸP CỦA Ý THỨC PHÀM TRẦN BẢN NGẢ ....
TRONG ĐOẠN : “ thì ngay lúc đó có trí vô sư hiện hữu không cần tìm đâu xa, quay lại mà nhìn, tìm trí vô sư thì nó đả mất ” TỨC CÁI THẤY CỦA CHÂN NGẢ CẦN ĐẦU ÓC YÊN TỊNH KHÔNG MỘT VỌNG NIỆM VÀ TẠP NIỆM CỦA PHÀM TRẦN , NHƯNG KHI HÀNH GIẢ DÙNG Ý THỨC MÀ NHÌN , THÌ CÁI THẤY CỦA CHÂN NGẢ SẺ MẤT ĐI , VÌ Ý THỨC LÀ CÔNG CỤ CỦA BẢN NGẢ DÙNG TRONG CỎI PHÀM TRẦN VẬT CHẤT THÔ KỆCH MÀ THÔI ..
Vô sư trí vi tôn
Thư Liệu Theo Tháng - 02-2010
Written by HT Thích Thanh Từ
Bài Viết - Tùy Bút
Vừa rồi chùa Cổ Pháp ở Hà Nội có nhờ tôi đặt cho một đôi liễn và một bảng hoành phi. Trong bảng hoành phi năm chữ tôi đặt như thế này Vô sư trí vi tôn. Đây là câu mà tôi rất tâm đắc. Tôi tin chắc rằng quí Phật tử tu rồi cũng tâm đắc như tôi.
Vô sư trí vi tôn nghĩa là Trí vô sư tôn quí nhất. Tại sao tôi nói như vậy? Bởi vì chúng ta tu cốt là được giác ngộ, cốt được thành Phật nhưng mà giác ngộ cái gì?
.................................................. .................................................. .............................................
.................................................. .................................................. ................................................
Hôm nay tôi đến thăm Đạo tràng Thái Tuệ, vừa để biết chỗ nơi tu hành của quí Phật tử, vừa trực tiếp nhắc nhở sách tấn quí vị tu tập. Tôi nghĩ quí Phật tử cũng từng nghe giảng, nghe tôi nói nhiều rồi, mong rằng từ đây về sau tất cả quí Phật tử trong Đạo tràng và những Phật tử xung quanh biết mình có của báu quí giá rồi, phải ráng nỗ lực khai thác tìm ra cho được mà dùng, đừng làm cùng tử lang thang nữa. Đó là sự mong mỏi của tôi
HT Thích Thanh Từ
Nguồn: thienviendaidang.net
http://www.huongdaoonline.com.au/ind...it-2&Itemid=86
NHẬN THỨC HUYỀN MÔN VỀ BÀI VIẾT TRÊN : Vô sư trí vi tôn
QUA BÀI VIẾT TRÊN TA THẤY , TÁC GIẢ DÙNG NGÔN NGỮ CỦA PHẬT GIÁO THIỀN TÔNG VÀ QUÁ TRÌNH ĐẮC ĐẠO CỦA PHẬT THIĆH CA ĐỂ GIẢI THÍCH VÔ SƯ TRÍ , TÁC GIẢ CỔ VỎ SỰ PHÁT TRIỂN VÔ SƯ TRÍ QUA VIỆC TÌM VỀ CHÂN NGẢ , TỨC CHỦ THỂ CỦA CÁI BIẾT , CHỦ NHÂN CỦA BẢN NGẢ ….MÀ CÁI BIẾT CỦA CHÂN NGẢ CÓ HAI DIỆU DỤNG : MỘT LÀ DÙNG CHÂN NGẢ ĐỂ DÌU DẮT BẢN NGẢ RA KHỎI VÔ MINH CUẢ CUỘC ĐỜI , VÀ ĐẠT ĐẾN TUỆ GIÁC CỦA VÔ SƯ TRÍ …..HAI LÀ PHÁT TRIỂN CÁI BIẾT CỦA CHÂN NGẢ QUA VIỆC PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG NGOẠI CẢM CỦA LỤC THẦN THÔNG CÒN TIỀM ẨN CỦA CON NGƯỜI , NHƯ ĐỨC PHẬT ĐẢ SỞ ĐẮC ….
NHƯNG MÂU THUẨN CỦA PHẬT GIÁO THẾ QUYỀN , LÀ MỘT MẶT KÊU GỌI VÀ TÔN VINH SỰ DIỆU DỤNG CỦA VÔ SƯ TRÍ , TỨC KHẢ NĂNG THẦN THÔNG CỦA THA TÂM THÔNG …..ĐỂ CÓ ĐƯỢC CÁI BIẾT KHÔNG XUYÊN QUA SỰ SUY NGHỈ CỦA Ý THỨC , NHƯNG MỘT MẶT LẠI BÁC BỎ SỰ XỬ DỤNG NHỮNG TIỆN ÍCH CỦA VÔ SƯ TRÍ NẦY LÀ KHẢ NĂNG NGOẠI CẢM , LÀ ĐẶC DỊ CÔNG NĂNG , LÀ THẦN THÔNG CỦA CHÂN NGẢ VẬY …..
Ánh Sáng – T2 – Úc châu
Viết xong 11.49 pm , 11/01/11
http://www.thegioivohinh.com
http://www.huyenbihoc.com
đọc thì thấy hay đấy ! Nhưng thấy ảo quá các bác bởi vì những điều trên mà thực sự như vậy thì ai cũng có thể bay à lúc đó nhìn ra ngoài đường ai cũng bay hết chắc loạn quá !^^
Ps: Đây là ý kiến thực lòng hậu bối mong các tiền bối bỏ qua ! Thực lòng hướng dẫn này quá ảo !!!!!!!!!!!!!!!!!
-------------------------------------------------
Thưa đạo hữu tôi xin mạo muội xen vào đôi chút ,cách thức bay ko thể bay bằng thân tứ đại nổi ,vì thân tứ đại là hữu hình ,muốn tác động thân hữu hình chỉ dùng các vong linh hay,những tác động của người âm để sai họ nhấc mình lên để biểu diễn cho mình coi ,cách này thường là bên phái mao sơn ,lỗ ban ,thiêng linh cái những phái thường dùng binh ,sai binh ,điều kiểng binh ,tôi nghe có một môn phái tu luyện bằng ngủ quỷ ,năm sắc màu ,ngủ quỷ này cũng tu phật nhưng tu hoài ko đắc quả ,sau thành quỷ thần ,người luyện được môn phái ngủ quỷ này ,cũng có thể di chuyển được di vật hữu hình ,còn phương pháp thiền để đạt đến bay đây là bay trong thần thức níp bàn ,còn gọi là trong thiền cảnh ,
Chỉ có vài lời ko được thông minh lắm xin miễn thứ
, thuở xưa đức Phật Thích-ca đi tu, qua những lần học hỏi với các vị tiên nhân nhưng chưa đạt được mục đích, cuối cùng Ngài từ giã hết để tu khổ hạnh. Sau khi tu khổ hạnh không có hiệu quả, Ngài sống trở lại bình thường và đến dưới cội bồ-đề tọa thiền bốn mươi chín ngày đêm, Ngài được giác ngộ. Sau khi giác ngộ Ngài tuyên bố một câu như thế này:
-“Ta đã hàng phục tất cả, rõ biết tất cả. Ta không nhiễm một pháp nào. Ta xa lìa hết thảy, diệt dục mà giải thoát và tự mình chứng ngộ thì còn ai là thầy của ta?”
(Kinh Pháp Cú)
Ngay câu nói đó chúng ta tự kiểm nghiệm xem: Ngài hàng phục được tất cả, Ngài không nhiễm tất cả, Ngài lìa hết thảy, Ngài diệt dục được giải thoát và tự mình chứng ngộ thì còn ai làm thầy? Như vậy cái chứng ngộ của đức Phật không do ai dạy Ngài hết. Nếu có người dạy tức là có thầy nhưng ngược lại không có ai dạy nên không có ai là thầy của Phật. Không thầy tại sao được giác ngộ? Điều đó chắc quí Phật tử cũng nhớ, như Phật đã tuyên bố do Ngài hàng phục tất cả, biết được tất cả, không nhiễm một pháp nào, xa lìa hết thảy, diệt dục mà giải thoát. Nghĩa là đức Phật tự hàng phục được nội tâm, tự biết rõ được tất cả các pháp thiện ác, nhiễm tịnh v.v... và Ngài không nhiễm các pháp ác, không kẹt các pháp thiện, do đó mà diệt dục được giải thoát là do tự chứng ngộ chớ không có ai là thầy cả.
Hiện giờ tất cả quí Phật tử đang tu tập tọa thiền, vậy tọa thiền để làm gì? Để hàng phục mình phải không? Hàng phục từ thân đến tâm của chính mình. Trong khi ngồi thiền, nếu ngồi quen nửa giờ mà thêm chừng mười phút nữa thì sao? Chắc là mười phút cay đắng. Như vậy nếu chúng ta cố gắng ngồi được một giờ hay hơn một giờ v.v... đó là chúng ta đã hàng phục được sự nhọc nhằn của thân. Kế đó đến nội tâm, tức là ý niệm của chúng ta như một dòng nước chảy xiết vậy, hết niệm này tới niệm kia liên tục không ngừng. Thế nên chúng ta tọa thiền để thắng hết tất cả những thứ niệm đó, không cho nó khởi liên tục, từ từ chúng lặng dần cho đến lúc không còn dấy động nữa. Như vậy hàng phục được tất cả niệm lăng xăng của mình. Đó là chúng ta đã tự chiến thắng, đã vào được Thiền định. Vì định tức là nội tâm yên tịnh không còn lăng xăng nữa. Được như vậy rồi thì tất cả các pháp nhiễm, tất cả các pháp ác đều xa lìa. Từ đó mọi ham muốn được tháo gỡ. Nhờ vậy trong khi tu tâm chúng ta được trong lặng sáng suốt, dứt hết các nhiễm ô rồi thì tự giác ngộ. Mà tự giác ngộ thì ai là thầy của chúng ta? Tự giác ngộ là Trí vô sư sẵn có của mình.
Chúng ta nhớ đức Phật tọa thiền dưới cội bồ-đề bốn mươi chín ngày đêm, tâm yên tĩnh trong lặng, cho đến khi Ngài hướng tâm về quá khứ liền nhớ vô số kiếp về trước đã từng làm gì, ở đâu và tất cả sự việc xảy ra như thế nào. Ngài nhớ như là chuyện xảy ra hôm qua rõ ràng không thiếu sót, đó gọi là chứng Túc mạng minh. Khi Ngài hướng tâm về vị lai thấy chúng sanh sau khi chết sẽ đi về đâu? Cái gì lôi dẫn đi? Ngài thấy rõ chúng sanh do nghiệp dẫn đi trong các đường, đó là chứng được Thiên nhãn minh. Như vậy chứng Túc mạng minh, chứng Thiên nhãn minh v.v... tất cả cái chứng đó đều do Vô sư trí mà ra, chớ không phải ở đâu, không do ai dạy hết.
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra Trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết, điều đó rất rõ ràng. Tôi dẫn một việc nhỏ này cho quí Phật tử nghiệm xem, có những Phật tử tu được chút chút, lúc tọa thiền yên lặng, bất chợt nhớ lại câu kinh hôm nào mình học không hiểu, khi nhớ lại bỗng dưng hiểu ra. Cái hiểu này do ai dạy? Lúc đó không có thầy giảng, không có người nói, tại sao nhớ lại rồi bỗng dưng hiểu, hiểu một cách rõ ràng sáng suốt. Thử hỏi ai dạy? Đó là hiện tượng của Trí vô sư, điều nhỏ thì sáng nhỏ, điều lớn thì sáng lớn.
Như vậy chúng ta tu hành cần đạt được Trí vô sư thì mới có thể được giác ngộ thành Phật. Như vậy Phật ở đâu? Phật sẵn ở nơi mình. Muốn thấy Phật, chịu khó dẹp hết mây phiền não, mây nghiệp chướng, nếu nó trong sạch hết thì ông Phật mình hiện ra, chớ không có ở đâu cả. Lâu nay chúng ta cứ nghĩ Phật ở đâu trên non, trên núi nên phải trèo đèo lội suối, phải đi thật xa tìm Phật, nhưng thật tình Phật ở ngay nơi mình. Vì vậy, người học đạo không nên có tâm tìm kiếm bên ngoài mà chỉ dồn hết sức mình phá dẹp phiền não, dừng lặng dòng tư tưởng lăng xăng. Những thứ đó tan rồi, lặng rồi thì ông Phật hiện tiền.
Vậy quí Phật tử tu Thiền là lối tu gần hay xa, khó làm hay dễ làm, thực tế hay mơ hồ? Việc làm đó là thật của mình, vì mình dẹp được phiền não thì mình hết khổ, dừng được tâm lăng xăng thì tâm được an định. Tâm hết phiền não, được an định thì trí tuệ bừng sáng, ngay nơi mình chớ không có ở đâu xa hết. Cho nên người Phật tử tu Thiền lúc nào cũng phải dụng công tu hành cho chiến thắng được mình, chớ không được cầu xin ai khác. Lâu nay Phật tử mình đã quen cầu xin, bây giờ phải ngồi lại thấy khổ quá chừng. Hồi đó quen lạy Phật cầu xin cho con cái này cho con cái kia, bây giờ bắt xoay lại mình để quán sát đâu là thật đâu là hư, đâu là xấu đâu là tốt, nhận định rồi tự mình phá dẹp. Thấy việc đó nhọc nhằn không quen nhưng đó mới thật là chỗ tu hành chân chánh. Đức Phật ngày xưa đã như vậy, bây giờ chúng ta cũng làm như vậy thì mới đúng là đi theo Phật, còn mình làm khác đi thì không biết mình theo Phật hay theo ai? Tôi chủ trương tu theo Phật thì phải sử dụng phương pháp Phật sử dụng ngày xưa, ứng dụng vào sự tu của mình sẽ có kết quả không nghi.
NN rất là bận không có thời gian nhiều, hôm nay vào diễn đàn chơi thì thấy có topic của huynh AnhSang (AS) rất là hay.
Tỉ Minh Đài (MĐ) mến, NN thấy tỉ có bàn về thiền định ở trên và có nói là chỉ có hồn, phách, hay ngươn thần xuất là thì mới có thể bay, hay đi vào những cõi giới khác. Nhưng thật ra không phải chỉ có như vậy đâu. Khi tỉ làm chủ được thân thể của mình như Thuỷ Đại, Hoả Đại, Thổ Đại, Không Đại thì ngay cả thân thể của mình cũng có thể đi vào những cõi giới khác. Một điển hình rất là cận đại là vị Đại Hành Giả của Mật Tông Tây Tạng là Ngài Milarepa khi Ngài đã đắc pháp rồi thì Ngài có thể bay lượn trong không gian như chim bay vậy đó. Đây chỉ nói là trong cõi giới của Tứ Đại thôi, chứ chưa nói đến những cõi khác mà có những nơi chỉ có 1 hay 2 đại mà thôi. Không những vậy mà ngay cả Ngài và những vị Thánh Tăng khác khi cúng dường cho các vị thầy của mình ở những cõi Cực Lạc thì các Ngài chỉ cần cầm đồ cúng thảy lên không gian, tất cả đồ cúng đều biến thành những vết hào quang bay cõi của các vị thầy của các Ngài và điều biến thành những trái cây, nhưng bông hoa rất đẹp, và vô cùng thanh tịnh. Ở trên thế gian này có nhiều, nhiều cái mà chính mình cũng không thể nào biết được đâu tỉ.
Trong topic này NN thấy hình như huynh AS rất có "dị ứng" với Đạo Phật thì phải. NN thấy huynh AS rất có cái tâm "sân hận" với đạo Phật. Chuyện gì đã xãy ra cho huynh vậy? Ở trên huynh có trích một đoạn của thầy Thích Thanh Từ nói về Vô Sư Trí, rồi huynh dùng những lời giãi thích của huynh, mà NN thấy rất là "gượng ép", rồi cho Vô Sư Trí là "thần thông", và nói Đạo Phật bác bỏ thần thông, nhưng lại dùng thần thông. NN đọc phần này NN thấy tức cười quá xá.
Đức Thế Tôn cấm các đệ tử của Ngài dùng thần thông vì thần thông cũng chỉ là một phương tiện mà thôi. Nó chẳng phải là cứu cánh, là con đường để giúp cho các Phật tử Giác Ngộ để đi đến con đường giãi thoát những sự đau khổ trong lục đạo, tam giới. Phần này thì khỏi nói là huynh cũng biết rồi. Tuy nhiên, nếu huynh có thần thông rồi thì làm sao? Dùng nó đề làm gì? Để chém giết lần nhau? Để thoả mãn những "ganh tị, tật đố" của mình? Để thoả mãn những "dục vọng" của mình, mà chính mình đã từng ao ướt, ấp ủ từ bao nhiêu năm nay? Cũng như huynh đã từng post lên những bài về "kiếm khí" có thể thu, phát trong vô hình. NN biết đây là sự thật. Không sai trái. Nhưng học những cái này đề làm gì vậy huynh? Để thanh toán nhau? Để hại nhau? Để thoả mản những "thú tính" của con người? NN thấy huynh NhuLaiPhatTo có nói trong câu chuyện của mình là vị thầy phóng ra "phi kiếm" để thử cũng chẳng dám làm "mạnh" vì nếu có chuyện gì thì phải mang "Nghiệp" đó. Và đâu là sự thật. Nếu biết những thứ này, nếu không khéo thì phải trả "Nghiệp" không những trong kiếp này, mà còn những kiếp lai sinh.
NN thấy bộ Trần Kỷ mà huynh giới thiệu cho các huynh, tỉ trên diễn đàn để được thưởng lãm rất là hay. NN biết đây là bộ sách có thật, và những pháp trong này điều là thật vì ở Việt Nam mình rất là xưa, đã lâu lắm rồi cũng đã từng có 2 người bạn cùng nhau cắp áo, cắp quần tìm thầy học đạo pháp. Tuy rằng, có ý muốn cầu đạo pháp những không phải cũng có duyên được học, và cũng không phải ai cũng học và tu luyện thành những pháp do thầy truyền lại. Họ đã gặp được vị thầy mà họ từng mong muốn, và họ đã theo học với thầy. Tuy thầy có lòng truyền thụ cho đạo pháp những vì cơ duyên mỗi người, mỗi khác cho 2 người, mỗi người chỉ tu luyện thành một đạo pháp, và khác nhau. Một người thì tu tập thành phép Độn Thổ, người kia thì tu tập được phép Độn Thuỷ. Sau khi đã ở vói thầy rất lâu những cũng chỉ tu thành nhiêu đó thôi, nên họ đã xin phép thầy trở về nhà. Khi họ từ biệt thầy, khi xuống núi họ cũng đã từng thử phép và đã từng đua với nhau, xem ai hơn, ai kém. Một người thì dùng độn Thuỷ, nhảy xuống sông. Một người thì dùng phép Độn Thổ chui xuống đất. Họ đi rất là nhanh. Nếu dùng phép thì họ đi nhanh không thể nào tưởng tượng được. Cuối cùng khi người ở dưới sông lên, người ở dưới đất lên. Họ đều đến đích cùng một lược. Cuối cùng thì chẳng ai hơn ai. Tuy nhiên, sau này, tuy rằng có phép thần thông, nhưng vì người có phép Độn Thổ có cái tâm tham cho nên, người này đã lợi dụng phép thuật của mình chuyên môn đi ăn cắp đồ của người ta, không những vậy mà còn làm ra những chuyện vô cùng bậy bạ. Đề rồi có người đã biết được, đã tìm và thỉnh được người cao tay ấn và họ đã lập kế để lừa người này vào bẫy. Vị thầy này đã dùng phép "Điểm Đất Hoá Thạch" đã khiển cho đất cứng như sắt, nhốt người đó lại, và người đó đã chết vì phép của mình.
Còn NN thấy có người nói về vần đề luyên đan của Tiên Gia, nhưng NN thấy người này cái tâm quá "sân" thì làm sao mà luyện cho thành? Luyện đan của Tiên Gia thì điều kiện đầu tiên là phải tự mình xã bỏ vì thế mà bên Tiên Gia có những công pháp như cái mà NN hay gọi chơi là "Tiếu Pháp" ,dùng nó để mà giữ "Nguyên Khí" rồi từ đó mới tu luyện lên. Và khi nói về Tiên Gia thì một khi luyện đan không phải chỉ có yếu tố về luyện khí không, mà cần phải có lực của cõi giới vô hình thì mới mong đắt quả đặng. Cái này không phải giởn chơi đâu. Người mà hay bàn cái này, chỉ cần nói ra thôi thì cũng biết trình độ của họ như thế nào rồi.
NN nói thiệt nha, huynh AS có giận NN, có chửi NN cũng vậy thôi, vì đối với NN tất cả trên đời này cái gì cũng thỉ là nhưng hư ảnh mà thôi. Mình như đang sống trong một cuốn phim thôi, mình xuất hiện trong giai đoạn này, qua giai đoạn khác thì mình đã biến mất trên cõi Ta Bà này rồi. Huynh cũng có thể đang ở giai đoạn, mà cũng có thể đang đi vào giai đoạn mà NN thường hay nói chơi là "một chân ở ngoài, một chân bước vô hòm rồi", huynh luyện được một trong những tuyệt kỷ của Bộ Trần Kỷ rồi thì sao? Huynh có sức trong bao lâu để mà "thi triển" nó? Không biết huynh có để ý không? Một khi mà mình bịnh rồi, mình nằm đó, cho dù có những sách quí, mình trân trọng suốt đời, những bùa phép mình biết đến thì cuối cùng cũng phải quăng qua một xó thôi. Mà nhiều khi luyện thành, chẳng hạn, phép độn thổ, nhưng mà yếu quá, không biết có chui lên khỏi mặt đất không nửa?
NN thấy huynh chê trách bên Phật giáo tu tập gì mà đến già cũng phải chết, và NN thấy hình như ý của huynh là có phân biệt giửa giáo pháp của Đức Phật và Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng. Thật ra thì Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng cũng là giáo pháp của Phật mà thôi. Mật Tông cũng là Đại Thừa. Các sư thầy của Mật Giáo Tây Tạng khi truyền giáo pháp cho chúng sanh thì lúc nào cũng nhắc nhở các Phật tử là không bao giờ có sự phân biệt giữa Tiểu Thừa, Đại Thừa, hay Kim Cang Thừa, vì tất cả cũng điều là giáo pháp của chư Phật. Nếu có ai mà phân biệt thì điều có tội vì làm như vậy là chia rẽ Phật pháp, chia rẽ tăng đoàn thì nhất định sẽ bị cái nghiệp dẫn vào ngạ quỷ, địa ngục.
Ngài Long Thọ thì các hàng Phật tử ai cũng biết vì Ngài là vị viện trưởng của Đại Học Phật Giáo Nalanda thời xa xưa ở Ấn Độ. Ngài đã sống rất là lâu. Ngài thọ hơn 500 năm, và Ngài đã từng đến cung Rồng của loài Rồng mà thuyết pháp cho những vị Long Vương và con cháu họ nghe để họ tu tập. Và cũng nhờ những cuộc viếng thăm này mà Ngài đã thỉnh được bộ sách Pháp Hoa, Trung Quán Luận, v.v... mà Đức Thế Tôn đã thuyết cho các loài Rồng nghe khi Đức Thế Tôn xuống long cung khi Ngài còn tại thế. Sau hơn 500, Ngài Long Thọ đã chết cũng vì cái nghiệp quả đã trổ khi từ những tiền kiếp xa xôi đã đã bứt đầu một con kiến thì nay nó trở về với thân xác là một vị Thái Tử của một xứ, và cũng vì một ông thầy bói Bà La Môn nói rằng nếu Thái Tử của vị vua đó nếu muốn lên làm vua thì phải lấy cái đầu của Ngài Long Thọ. Nếu có đầu của Ngài Long Thọ thì các nước chư hầu khác mới phục tùng. Ngài Long Thọ đã biết cái nghiệp quả đã đến lúc trổ mầm. Ngài rất vui vẽ trả nghiệp vì Ngài đã biết trước rồi, và đã ra chỉ thị là không ai có thể trả thù cho Ngài, vì có biết bao nhiêu đồ đệ của Ngài là những vị vua. Nếu không có chỉ thị của Ngài thì họ nhất định kéo quân đề làm thịt vị vua này. Khi vị vua này cắt đầu của Ngài thì họ chỉ thấy có chất chảy ra như sửa, như chất Đề Hồ đó. Không có máu.
Qua câu chuyện trên thôi thì cũng thấy là Ngài Long Thọ mà còn sống hơn 500 năm thì đối với Đức Thế Tôn, một vị Chánh Đẳng, Chánh Giác, Thiên Nhân Sư thì Ngài muốn sống hơn nửa cũng chẳng phải là khó. Đức Thế Tôn mất đi là Ngài muốn cho chúng sanh biết rằng thọ yểu của con người rất là ngắn. Hôm nay thế này, ngày mai lại khác. Chỉ có tu tập theo giáo pháp của Ngài thì mới có thể thoát khỏi đau khổ, sanh tử luân hồi mà thôi.
Và cũng qua câu chuyện trên thì NN cũng mong rằng huynh AS không nói rằng đây chỉ là câu chuyện thôi, chỉ lặp lại mà thôi. Nhưng NN cũng xin nhắc rằng huynh là người kề cận với tâm linh, với thế giới vô hình thì huynh cũng phải biết rằng có những chuyện chính huynh cũng chẳng thể nào giải thích được, phải không huynh? Đứng nói với NN là cái gì huynh cũng biết nha. Nếu mà huynh biết hết tất cả thì NN cũng chẳng phải lên tiếng làm gì.
Nếu huynh là người biết tất cả thì huynh có thể có NN biết những hiện tướng của những vị Tiên Trưởng bên Đạo Gia khi họ phải "trả nghiệp" thì hiện tướng của họ ra sao không? Những vị Tiên Trưởng bên Đạo Gia thật sự thì họ sống lâu lâu lắm. Người Hoa thì nói ông Thọ chỉ thọ được có 800 tuổi thôi, nhưng những vị Tiên Trưởng này, họ sống lâu không biết bao nhiêu lần. Tuy nhiên cũng có vị khi thọ mạng đã dứt nếu họ biết thì họ cũng sẽ đi vào cảnh mà NN thường hay nói chơi là cõi "Thái Hư", còn không vì cũng có nhiều vị Tiên Trưởng cũng bị lọ vào sổ "bì đen". Cái này cũng nhiều, nhiều lắm.
NN chấm dứt tại đây. NN không nói nửa. Chúc mọi người thân tâm an lạc.
Thân
NN
Minh họa hình ảnh cho bài viết của huynh Nhật Nguyệt nè:
http://www.google.com.vn/url?source=...uErcG5Lu1oTPfw
http://www.google.com.vn/url?source=...Evt2L5W8crNkJg
http://www.google.com.vn/url?source=...YdQDz5Z5OkAFLw
http://www.google.com.vn/url?source=...vLUzrJAfrnvGfQ
Khinh công trước cửa Nhà Trắng
Ngày 22/10/2007 khuôn viên trước dinh thự Nhà Trắng nổi tiếng nhất nước Mỹ được phen tấp nập khi hàng trăm người dân ùn ùn kéo tới để chứng kiến màn biểu diễn đặc sắc của người Hà Lan Wouter Bijdendijk, tín đồ trung thành của những môn phái yoga, bay lơ lửng giữa không trung.
Trên đây là một vài hình ảnh về màn trình diễn khinh công của Wouter Bijdendijk.
Wouter Bijdendijk - với nghệ danh Ramana, khẳng định: “Khinh công là một bộ môn nghệ thuật, nếu không muốn nói là ngành khoa học rất được coi trọng ở Ấn Độ”. “Tôi chỉ muốn cho mọi người thấy rằng, thực tế nhiều khi không phải như những gì người ta vẫn nghĩ”.
Và ngày nay nhiều người khác cũng đã chứng minh nhiều khả năng tu tập không phải như người ta thường nghĩ.
Tu theo Phật không phải chỉ có thiền định,để cho tâm vắng lặng vô nhiễm, đó là theo Phật có một nữa hè.Ngài còn dùng thiền quán để đạt huệ trí và chánh giác, tu thiền mà để tâm không là tu theo ngoại đạo (tổ Huệ Năng đã giảng như vậy)
Hơn nữa, tu thiền không phải chỉ có ngồi mới gọi là thiền , mà đi đứng nằm ngồi đều thiền.Bất kỳ chổ nào cũng có thể định và quán sát được, đó mới là chổ vi diệu của thiền
Mục đích của tu thiền không phải là vô sư trí hay thân tâm an lạc mà là Phật tánh hiển lộ tánh biết sáng suốt, chánh giác chánh tri, còn gọi là phát huệ, ngoài cái nầy là giả tri, tưởng tri tất cả.
Bà bà đi theo thiền kiểu vô vi rồi, cái nầy thì đắc sự xuất hồn thôi, và vào vùng tưởng sư trí, nói mà không biết mình nói cái gì, ai nói chứ không phải mình nói.
Lấy cái biết của bà bà, mà bà cho là Phật dạy như thế, thì quả là phá pháp Phật.
Tội lỗi! tội lỗi!
--------------------------------------------------------
Đây cô cũng chỉ trích từ bài trí vô sư của các hòa thượng ,còn của cô là gi??
Tâm cô thiền ko nghỉ mình sẽ thành cái gì ,ko thành phật ,ko thành bồ tát ,ko thành mọi quả gì mà bao người tưởng tượng ,mà cô tu thiền là xem coi mình có thể đạt được cái gì để cứu giúp chúng sanh ,nhiều người thường hay nói cô tu tưởng tượng ,cô chỉ mỉm cười ,cô đâu có vọng niệm đâu mà tưởng ,cô ko cải vì cô thấy xem người nói có đáng để cô nói ko?cái mọi người gọi là thần thông cô gọi là phương tiện ,cô ko biết cái gì gọi là phật dạy hay phàm dạy ,cô ko phân biệt phàm hay thánh cô chỉ quan tâm hiện cô có cái gì để làm lợi ích cho chúng sanh thế mà thôi .
Cái mà cô đạt chỉ là nhân duyên mà có ,người càng nói quả càng tội lỗi! tội lỗi!nam mô a di đà phật cầu cho chúng sanh bớt lòng sân tăng tâm từ bi hơn