kết quả từ 1 tới 10 trên 10

Ðề tài: Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng về Kinh Dược Sư.

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng về Kinh Dược Sư.

    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
    Bổn Nguyện Công Đức Kinh.
    Kinh Công Đức Các Bổn Nguyện
    của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Lược Giảng


    Đường Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu dịch
    Tuyên Hóa Thượng Nhân giảng tại Kim Luân Thánh Tự,
    Los Angeles, California, Hoa Kỳ năm 1983.


    Vì vấn đề sanh tử của chúng sanh chúng ta mà đức Phật Thích Ca xuất hiện
    tại cõi Ta-bà này. Ngài được sanh ra trong một gia đình vương giả, nhưng Ngài đã
    từ bỏ sự giàu sang của cả một vương quốc để ra đi lo việc tu hành và chứng thành
    Phật quả dưới gốc cây Bồ-đề. Sau khi chứng quả Phật, Ngài quán sát các chúng
    sanh trong thế giới Ta-bà và nhận thấy rằng các chúng sanh tại đây có một nhân
    duyên sâu đậm với hai vị Phật, đó là đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ở
    phương Đông và đức A-Di Đà Như Lai ở phương Tây.
    Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ở thế giới Lưu Ly nơi phương Đông
    có thể giúp chúng ta tăng phước tăng thọ, tiêu trừ tai nạn; còn đức A Di Đà Như
    Lai ở phương Tây thì có thể tiếp dẫn chúng ta mang theo nghiệp mà sanh về thế
    giới Cực lạc, “hoa nở liền trông thấy Phật, ngộ được pháp Vô sanh nhẫn.”
    Trong bài Nhị Phật Chú có câu:
    “Nhị Phật diễn hóa tại Ta-bà
    Đông A-súc, Tây Di-đà”
    2

    Hai câu này nghĩa là Phật A-súc, tức Phật Dược Sư và Phật Di-đà đều giáo
    hóa chúng sanh tại thế giới Ta-bà. Hai vị Phật, một vị ở phương Đông, một vị ở
    phương Tây, nhưng cả hai đều có nhân duyên rất sâu đậm với chúng ta nơi cõi Ta-
    bà, do đó Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật chính là Dược Sư Lưu Ly Quang Như
    Lai, còn Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật chính là A-di-đà Như Lai.
    Nếu có ai niệm danh hiệu của Đức Phật Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư thì
    người đó được giải trừ tai nạn, bệnh tật tiêu tan, tội diệt, phước sanh, tâm ý mãn
    nguyện. Vậy, vị Phật giúp các chúng sanh kéo dài mạng sống chính là Tiêu Tai
    Diên Thọ Dược Sư.
    Còn đức Phật A-di-đà thì sao? Ở đây là vấn đề vãng sanh. Như có ai muốn
    về thế giới Cực Lạc, thì phải niệm danh hiệu của đức Phật A-di đà. Nếu quý vị
    muốn sanh về cõi Lưu Ly, tức là thế giới của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thì
    hãy niệm danh hiệu của Ngài Dược Sư.
    Khi còn sống, người ta muốn tiêu trừ tai nạn, kéo dài tuổi thọ; còn khi lâm
    chung người ta mong về nơi thế giới Cực Lạc. Bởi vậy, trong Phật giáo chúng ta
    thấy có cái bài vị mầu đỏ gọi là bài vị diên thọ, ngụ ý rằng Đức Phật Tiêu Tai Diên
    Thọ Dược Sư phóng hào quang chiếu sáng ngôi sao bổn mạng. Còn khi vãng sanh,
    nếu không muốn tái sanh nơi thế giới Lưu Ly mà muốn về cõi Cực Lạc thì người ta
    niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Nhân duyên của chúng ta đối với hai vị Phật nói
    trên quả là rất mật thiết.
    Tuy nhiên, chúng ta vốn chưa biết về hai vị Phật này, ngay đến cả danh hiệu
    của các Ngài chúng ta cũng không biết, do đó đức Phật Thích Ca mới giới thiệu
    cho chúng ta về danh hiệu, bổn nguyện, cùng công đức nguyện lực của các Ngài.
    3

    Bởi vậy mới có bộ Kinh này, gọi là “Kinh Công Đức Các Bổn Nguyện Của
    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”.
    “Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một
    trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của
    Ngài khi Ngài phát tâm Bồ-đề, thời gian trước khi thành Phật quả. Lời nguyện phát
    ra trước khi thành Phật gọi là bổn nguyện.
    “Công Đức” gồm có chữ “công”, chỉ những gì được tạo lập ở bên ngoài;
    chữ “đức” chỉ những gì được tích lũy ở bên trong. Thí dụ, quý vị dựng chùa lập
    miếu, tu sửa cầu đường, mưu cầu hạnh phúc và lợi ích cho mọi người, như vậy gọi
    là tạo lập công. Còn đức là nói về sự tình ở trong tâm, ví dụ như quý vị làm một
    điều gì mà khi trông lên thì không thẹn với trời, trông xuống không hổ với người,
    ngoài không dối người, trong không dối mình. Những hành động như vậy ở bên
    ngoài thì lập nên công, ở bên trong tạo thành đức hạnh, đó gọi là công đức.
    Về đức hạnh chúng ta có câu: “Thiện dục nhân kiến bất thị chân thiện”,
    nghĩa là phàm điều thiện mà lại muốn mọi người trông thấy, thì chẳng phải là chân
    thiện. Quý vị làm một điều thiện, quý vị không cần người ta biết đến, cũng không
    cần phải quảng cáo với ai, chẳng hạn quý vị không cần phải tuyên bố rằng: “Tôi đã
    làm việc thiện này, việc thiện kia” hay nói: “Tôi đã thọ Năm giới, thọ Tám giới, rất
    nhiều giới, tôi đã thọ Bồ-tát giới!” Những điều đó quý vị đã làm nhưng quý vị
    không khoa trương. Đức hạnh thì không ai hay biết, đó mới là đức hạnh. Như
    muốn mọi người hay biết, thì không phải rồi! Cho nên mới có câu:
    Làm thiện muốn người thấy,
    Đó chưa là thật thiện.
    4

    Làm ác sợ người biết,
    Đó mới là đại ác.
    (Thiện dục nhân kiến,
    Bất thị chân thiện.
    Ác khủng nhân tri,
    Tiện thị đại ác.)
    Làm việc thiện mà muốn mọi người hay biết tức không phải là đức hạnh.
    Điều ác mà sợ có người biết thì đó là một tội lỗi lớn. Do đó, đã là người học Phật,
    chúng ta không thể giống như vậy, không nên tranh hơn tranh kém, chẳng hạn như
    nói những câu: “Tôi đã làm nên những chuyện này, chuyện kia! Tôi như vậy đó!
    Tôi bố thí như thế này! Tôi hộ pháp như thế kia!” Có những tư tưởng, hành vi khoa
    trương tự mãn, thì đó không phải là tư cách của người hộ pháp.
    Bởi vậy, nay quý vị học Phật Pháp, nghe giảng kinh, quý vị hãy dụng công ở
    tại điểm này, chớ không phải là để hư trương danh tiếng, mượn dịp này để quảng
    cáo cho mình. Điều ta chú trọng là công phu thực sự, còn cái hư danh thì ta không
    cần biết. Chúng ta là người học Phật thì chính chúng ta phải làm gương, khiến cho
    mọi người phải kính nể phẩm hạnh của tín đồ Phật giáo! Công đức là ở chỗ đó!
    “Kinh” ở đây có nghĩa là kinh thường. Pháp kinh thường nghĩa là pháp
    không biến đổi. Kinh chính là lời của thánh nhân, lời giảng dạy do bậc thánh nói
    ra, một chữ cũng không thể bớt, một chữ cũng không thể thêm vào, ý tứ phong
    phú. Nói tóm lược thì ý nghĩa của chữ Kinh không ngoài bốn nghĩa: quán, nhiếp,
    thường và pháp.
    5

    - Quán tức là xâu qua, xuyên qua, ngụ ý rằng ý nghĩa và đạo lý trong lời
    Phật dạy giống như một cái xâu, nối nhau, thông suốt từ đầu đến cuối.
    - Nhiếp nghĩa là bắt lấy, thâu nhiếp, thích ứng với mọi căn cơ của chúng
    sanh.
    - Thường có nghĩa là không thay đổi, từ cổ chí kim luôn luôn như vậy, có
    tính vượt thời gian.
    - Pháp nghĩa là phép tắc. Chư Phật trong ba đời, quá khứ, hiện tại, vị lai,
    cũng như ba đời các chúng sanh, tất cả đều tuân theo khuôn phép đó. Bởi vậy có
    câu: “Tam thế đồng tuân danh viết pháp”, nghĩa là ba đời cùng tuân theo gọi là
    pháp. Tất cả chúng ta cũng phải tuân thủ phép tắc đó.
    “Kinh” còn được ví như dây mực của người thợ mộc, có khi mang ý nghĩa
    như một dòng suối tuôn. Thật ra chữ kinh còn chứa đựng nhiều ý nghĩa lắm, có
    điều quý vị chỉ cần nhớ lấy mấy ý chính. Kinh là gì? Kinh là kinh thường, là pháp
    không đổi thay, không cải biến, vĩnh viễn nó như vậy. Nay Phật giảng như thế này,
    trong tương lai Phật cũng giảng như thế, quá khứ Phật cũng đã giảng như vậy. Như
    trong câu: “Cổ kim chẳng đổi gọi là thường, ba đời đều tuân theo gọi là pháp”. Vậy
    kinh này, tức “Kinh Công Đức Các Bổn Nguyện Của Dược Sư Lưu Ly Quang Như
    Lai”, nếu giải thích một cách đơn giản thì là thế.
    Nay giảng các chữ trong đề kinh. “Dược” nghĩa là thuốc; “Sư” là thầy. Vị
    Phật đây là một thầy thuốc lớn, có thể trị tất cả mọi bệnh tật của người trong thế
    gian. Bất kể quý vị bị chứng bệnh nan y gì, nếu được Ngài cứu chữa thì chắc chắn
    bệnh sẽ hết. Bệnh gì cũng chữa lành, ở cửa tử mà được hồi sanh, bệnh đáng chết
    mà được cứu sống. Bởi vậy Ngài mới có tên gọi là “Dược Sư”.
    6

    “Lưu Ly” là một chất trong suốt, ở trong có thể nhìn thấu ra ngoài, ở ngoài
    có thể nhìn thấu vào trong. Lưu Ly là tên của quốc độ quả báo (báo độ) của Đức
    Dược Sư, gọi là thế giới Lưu Ly và Ngài là vị giáo chủ. Thân thể của Ngài cũng là
    chất lưu ly, nội ngoại đều sáng trong, tinh khiết. Ngài thông hiểu hết các loại thuốc.
    Ở Trung Hoa đời xưa có vua Thần Nông, và có câu nói: “Thần Nông thường bách
    thảo”, nghĩa là vua Thần Nông đã từng nếm hết thảy các thứ thuốc. Thân thể của
    vua Thần Nông cũng là chất lưu ly. Khi nếm thuốc, nuốt vào bụng rồi, vua có thể
    nhận ra tác dụng của vị thuốc, biết được vị thuốc đó đi vào đường kinh lạc nào
    trong cơ thể. Khi nếm đủ các loại thuốc xong, vua phân tích ra từng tánh chất một
    (dược tánh), vị nào chua, ngọt, đắng, cay, mặn, thứ nào là lạnh, nóng, ấm, trung
    bình, thứ nào độc, thứ nào không độc.
    “Quang” là ánh sáng. Thân thể Đức Dược Sư Như Lai không những trong
    suốt, mà còn tỏa sáng, là một đại quang minh tạng.
    “Như Lai” là một trong mười tên hiệu của Phật: Như Lai, Ứng Cúng,
    Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều
    Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Số là, mỗi vị Phật có mười vạn
    danh hiệu, nhưng kể đủ cả mười vạn danh hiệu ấy thì không ai nhớ được, nên
    người ta rút ngắn lại thành một vạn; tuy nhiên, một vạn kể ra cũng dài, lại rút thêm
    thành một ngàn; sau rút nữa thành một trăm và cuối cùng rút xuống chỉ còn lại
    mười danh hiệu.
    Vị Phật nào cũng có mười danh hiệu đó, chứ chẳng phải vị Phật này có mà
    vị Phật kia thì không. Học Phật Pháp chúng ta phải hiểu điều đó. Tôi nghe những
    kẻ ngoại đạo nói về “Như Lai Phật”. Họ không hiểu Như Lai Phật là vị Phật nào.
    Kỳ thực, vị Phật nào cũng có hiệu là Như Lai. Như Lai nghĩa là “noi theo đạo như
    7

    thực (Chân lý) mà đến và thành Chánh giác” (thừa như thật chi đạo lai thành
    Chánh giác)1.
    “Bổn Nguyện” là nói về các lời phát nguyện trong quá khứ của Ngài. Đây
    không phải là lời phát nguyện trong đời này. Trong kinh điển Phật giáo có các
    danh từ như bổn sự, bổn nguyện, bổn sanh. Bổn sanh là đời hiện tại, bổn nguyện
    lại thuộc đời quá khứ, còn bổn sự cũng là sự việc xẩy ra trong kiếp xưa.
    “Công Đức” và “Kinh”, các danh từ này đã được giảng rồi.
    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai là vị Phật ở phương Đông. Ngài có một
    tên khác nữa là “Phật A Súc”. Phật Dược Sư thuộc Kim Cang Bộ ở phía Đông, và
    Bộ này chú trọng Pháp Hàng Phục. Pháp này chuyên hàng phục thiên ma, ngoại
    đạo. Khi chúng thấy các vị Kim Cang hộ pháp thuộc Bộ Kim Cang là chúng phải
    quy hàng. Giả tỷ như bất cứ ai niệm Chú Lăng Nghiêm thì sẽ được tám vạn bốn
    ngàn Kim Cang Tạng Bồ Tát gia hộ, che chở. Cố nhiên người đó phải thành tâm
    niệm chú mới được!
    Đại khái lược giảng về ý nghĩa của tên kinh là như vậy.
    Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc Già Phạm đi hóa độ các nước, đến
    thành Quảng Nghiêm, Ngài dừng lại dưới gốc cây âm nhạc, cùng tám ngàn đại
    Bí-sô, ba vạn sáu ngàn Bồ-tát Ma-ha-tát, các quốc vương đại thần, các bà-la-
    Như Lai: Phạm, Pali: Tathagatha.
    Cũng gọi Như khứ.
    Tiếng Phạm Tathagata có thể được chia làm 2 là: Tatha-gata (Như khứ) và Tatha-agata (Như lai). Nếu theo cách
    thứ nhất thì có nghĩa là noi theo đạo Chân như mà đến quả Phật Niết bàn, cho nên gọi là Như khứ; còn nếu theo cách
    thứ hai thì có nghĩa là từ chân lý mà đến (như thực mà đến) và thành Chánh giác, cho nên gọi Như lai. Vì đức Phật
    theo Chân lý mà đến và từ Chân như mà hiện thân, nên tôn xưng Ngài là Như Lai.
    (Phật Quang Đại Từ Điển)
    1
    8

    môn, các cư sĩ, Trời Rồng và Tám bộ chúng, người và chẳng phải người, đông
    không kể xiết, cả thảy đều cung kính vây quanh nghe Phật thuyết pháp.
    Như thị ngã văn, nhất thời Bạc-Già-Phạm, du hóa chư quốc, chí
    Quảng Nghiêm thành, trú nhạc âm thụ hạ, dữ đại Bí-sô chúng bát thiên
    nhân câu, Bồ tát Ma-ha-tát tam vạn lục thiên, cập quốc vương, đại thần,
    bà-la-môn, cư sĩ, thiên long bát bộ, nhân, phi nhân đẳng, vô lượng đại
    chúng, cung kính vi nhiễu, nhi vi thuyết pháp.
    “Như thị” nghĩa là “như vầy”. Danh từ này ngụ ý rằng “pháp như vầy” thì
    có thể tin theo, học tập và thực hành. Chúng ta phải phát nguyện tu hành pháp đó,
    y theo lời dạy trong đó mà tu tập.
    “Ngã văn” nghĩa là “tôi nghe”. Đây là lời của Tôn giả A-nan. Tôn giả nói
    như sau: “Các pháp nói trong bộ kinh này là do chính tôi, A-nan, được nghe từ kim
    khẩu của đức Phật nói ra, chớ không phải là do người truyền lại. Chính là tôi đã
    được nghe”.
    Sở dĩ có mấy chữ “Như thị ngã văn” - tôi nghe như vầy - là bởi bốn nguyên
    do sau: Đó là bốn điều Tôn giả A-nan hỏi Phật. Số là khi Phật sắp nhập Niết bàn,
    Tôn giả A-nan rất đỗi bi thương, quên hết mọi sự mà chỉ biết than khóc. Ngày ấy,
    ngài A-nan đã chứng Sơ quả song ngài vẫn chưa đoạn được vấn đề tình cảm, cho
    nên khi biết tin Phật sẽ nhập Niết Bàn, ngài không thể nén được xúc động nên mới
    khóc lóc một cách bi thảm, cơ hồ chỉ biết khóc, chẳng biết chuyện gì khác nữa.
    Lúc đó có một vị tôn giả (Tôn giả A-nậu-lâu-đà) nhắc cho ngài thức tỉnh và nói
    9

    rằng: “Ông vốn có bổn phận ghi nhớ lại các lời Phật dạy, nay Phật sắp vào Niết
    Bàn, ông hãy ráng tỉnh táo mà nghĩ cho kỹ! Ngay bây giờ, ông hãy xét coi có điều
    gì trọng yếu thì phải hỏi Phật đi, đặng Phật chỉ dạy cho. Ông chỉ khóc lóc như vậy
    thì trong tương lai chúng ta sẽ ra sao đây?” Nghe lời nhắc nhở đó, Đức A-nan bèn
    tỉnh ngộ, ngài nói: “Đúng vậy! Có vấn đề gì quan trọng thì chúng ta phải mang ra
    hỏi Phật ngay. Có điều tôi khóc quá nên quên cả mọi thứ. Bây giờ chúng ta phải
    hỏi Phật những điều gì đây? Đầu óc tôi rối như tơ vò, chẳng còn nghĩ ra được vấn
    đề gì cả”.
    Vị tôn giả nói trên nói: “Ông cần hỏi Phật rằng trong tương lai khi kết tập
    kinh tạng, ở mỗi bộ kinh phải lấy những chữ gì để bắt đầu. Đó là câu hỏi thứ nhất.
    Điều thứ hai là khi Phật tại thế thì Ngài là thầy của chúng ta; sau khi Phật nhập
    Niết Bàn thì ai sẽ là thầy? Điều này cũng cần phải hỏi Phật. Thứ ba, ông hỏi Phật
    rằng khi Ngài tại thế thì tất cả các Tỳ-kheo chúng ta ở cùng với Ngài. Vậy khi Ngài
    nhập Niết Bàn rồi, chúng ta sẽ ở với ai? Điều thứ bốn là khi Phật tại thế nếu Tỳ-
    kheo nào có ác tính thì Phật điều phục họ. Sau khi Phật nhập Niết Bàn, ai sẽ điều
    phục họ?”
    Tôn giả A-nan đáp: “Bốn vấn đề vừa nói quả là trọng yếu rất mực, tôi sẽ
    phải đi hỏi Phật ngay.”
    Nói rồi, Tôn giả A-nan đi đến trước Phật, chắp tay, quỳ gối và thưa rằng:
    - Bạch Đức Thế Tôn! Nay Ngài sắp nhập Niết Bàn nên chúng con có những
    vấn đề quan trọng muốn thỉnh Phật chỉ dạy cho chúng con.
    Phật nói:
    - Ông muốn hỏi điều gì thì cứ việc hỏi.
    10

    Tôn giả A-nan thưa:
    - Trong thời gian trụ thế, Thế Tôn đã thuyết pháp 49 năm, nói kinh trong
    hơn ba trăm pháp hội, vậy ngày sau, khi kết tập kinh tạng thì phải lấy những chữ gì
    để khởi đầu cho mỗi bộ kinh?
    Phật đáp:
    - Kinh điển của chúng ta khác với kinh điển của ngoại đạo. Kinh của các đạo
    khác nếu họ chẳng nói về “có”, thì nói về “không”. Phần ghi trên đầu các kinh đều
    chẳng đi ra ngoài hai chữ “có” và “không”. Vậy về điểm này, đối với kinh của
    chúng ta, các ông nên ghi mấy chữ “tôi nghe như vầy”, ngụ ý rằng “Tôi, A-nan,
    chính tôi được nghe như vầy, chớ đó không phải là lời tôi nghe người ta truyền
    lại”.
    A-nan thưa:
    - Xin vâng! Trong tương lai chúng con sẽ ghi mấy chữ “tôi nghe như vầy”.
    Điều thứ hai con muốn thỉnh Phật chỉ dạy là khi Phật còn ở tại thế gian, tất cả các
    Tỳ-kheo chúng con đều tôn Phật là thầy. Vậy sau khi Phật vào Niết Bàn rồi, chúng
    con sẽ tôn ai làm thầy?
    Phật đáp:
    - Sau khi Như Lai nhập Niết Bàn, các ông sẽ lấy “giới” làm thầy. Ba-la-đề-
    mộc-xoa chính là thầy của các ông. Các ông giữ được giới thì chẳng khác gì ta còn
    tại thế. Các ông hãy làm các điều lành và tránh xa các điều ác.
    A-nan hỏi:
    11

    - Điều thứ ba con xin thỉnh Phật chỉ dạy là nay Phật trú ở thế gian, chúng
    con trú cùng một nơi với Phật, thường theo học với Phật. Vậy sau khi Phật nhập
    Niết Bàn thì các Tỳ-kheo chúng con sẽ trú cùng với ai?
    Phật đáp:
    - Sau khi ta nhập Niết Bàn, tất cả Tỳ-kheo các ông phải trú vào Tứ Niệm
    Xứ. Tứ Niệm Xứ, hay bốn lãnh vực quán niệm, gồm có thân, thọ, tâm và pháp. Các
    ông phải an trú vào bốn nơi này để quán niệm.
    Thứ nhất là quán thân bất tịnh, nghĩa là mình tự quán sát thân thể của mình,
    thấy thân thể này chẳng có cái gì gọi là sạch sẽ, tinh khiết, nó chỉ là sự tổng hợp
    của bốn đại: đất, nước, gió, lửa mà thành. Thứ hai là quán thọ là khổ, thứ ba quán
    tâm là vô thường, thứ tư quán pháp là vô ngã.
    A-nan hỏi Phật điều thứ tư:
    - Về những Tỳ-kheo có tánh ác, họ đều được Phật điều phục khi Phật còn tại
    thế. Vậy sau khi Phật nhập Niết Bàn, nếu có Tỳ-kheo có tánh ác, chúng con sẽ phải
    đối xử với họ ra sao?
    Phật đáp:
    - Trong tương lai nếu các ông gặp những Tỳ-kheo này thì nên lặng yên và bỏ
    mặc họ (mặc tẩn).
    Điều này có nghĩa là khi gặp những trường hợp này, ta nên giữ im lặng,
    không nói chuyện với những người ấy. Bỏ mặc tức là bỏ đi nơi khác, không lý tới
    họ, không tranh cãi với họ. Như vậy, ít lâu sau họ sẽ tự cảm thấy rằng họ sai và sẽ
    tự sửa chữa. Đối với những người đó, nếu quý vị lại hỏi han, tranh biện với họ thì
    12

    họ sẽ tự cảm thấy họ có giá trị. Còn như quý vị chẳng hỏi han gì, họ sẽ cảm thấy
    họ chẳng hay ho gì. Thế nào gọi là Tỳ-kheo có tính ác? Nên nhớ rằng chẳng phải
    người xuất gia nào cũng cố gắng tu đạo, chẳng phải bất cứ ai ở đây cũng chịu tu
    hành.
    Ngày trước, tại những ngôi chùa lớn ở Trung Hoa, các vị xuất gia rất đông,
    đủ mọi hạng người. Trong số này, có những kẻ đã từng giết người, đốt nhà, trộm
    cướp, hoặc xưa là thổ phỉ nay cải tà quy chánh, hoặc làm thổ phỉ nhưng mượn danh
    nghĩa của người xuất gia để giả trang đối với nhà chức trách, các hạng người như
    vậy đều có cả, nghĩa là rồng với rắn lẫn lộn, không đồng nhất.
    Đó là tình trạng tại Trung Hoa và tôi tin rằng ở đâu cũng như vậy mà thôi.
    Nói về loại chuyên môn ăn cắp ở Trung Hoa, người ta còn mệnh danh họ là “Thiên
    thủ Quán Âm” - nghĩa là đức Quán Âm ngàn tay - bởi họ có muôn ngàn tay thực.
    Ai có đồ vật gì hay là họ lén lấy ngay, lấy xong mang đi bán, được đồng nào thì
    mua rượu hay ma túy. Bởi vậy quý vị đừng có khờ khạo, chớ có nhắm mắt tin rằng
    ai xuất gia cũng là người tốt cả. Tôi xin nói thẳng với quý vị như vậy, kể cả tôi
    cũng có thể ở trong số đó nữa, không phải ai ai cũng tốt đâu. Có điều tôi đã nguyện
    làm điều lành. Trong quá khứ tôi không biết đã từng làm những việc gì xấu, nay thì
    tôi chỉ ước mong làm sao tu hành cho tốt mà thôi.
    Tỳ kheo ác tính thì rất là ác, họ không biết nghe lẽ phải, quý vị càng tranh
    biện với họ, họ càng thấy họ hay, họ càng làm tới, do đó Phật dạy chúng ta hãy giữ
    im lặng và bỏ mặc họ, không lý tới họ nữa.
    Nói về Tứ Niệm Xứ thì thứ nhất là quán thân bất tịnh. Quý vị có thể nghĩ
    rằng: “Mỗi ngày tôi đều tắm rửa tấm thân này sạch sẽ, sau đó tôi còn tô điểm nó
    cho thêm đẹp đẽ”. Quý vị nói đúng! Quý vị trang điểm thân mình với nhiều thứ
    13

    lắm! Tay thì đeo đồng hồ vàng, trên người có giắt cây bút đắt tiền, đầu đội mũ đẹp,
    thân mặc quần áo sang trọng, sự trang điểm tấm thân của quý vị rất là hào nhoáng.
    Nhưng quý vị có biết như vậy là nghĩa gì không? Có khác gì quý vị mang những
    đồ quý giá, mỹ lệ, dùng bảy loại báu vật để trang hoàng cái cầu tiêu. Có trang
    hoàng thế nào đi nữa thì nó vẫn là nhà xí, nó bốc mùi xú uế, nó là bất tịnh.
    Thân thể chúng ta có chín lỗ thường tiết ra những đồ bất tịnh. Ở hai con mắt
    thì có chất ghèn, ở hai tai có ráy tai, ở hai lỗ mũi có nước mũi, ở miệng thì có đờm,
    dãi. Đó là bảy lỗ. Còn hai lỗ kia dùng cho đại và tiểu tiện. Con người của quý vị
    nếu lâu ngày không tắm rửa cũng thành hôi hám. Quý vị ăn hành thì người quý vị
    sẽ tiết ra mùi hành; ai uống sữa bò thì có mùi sữa bò; ăn thịt bò thì có mùi bò; ăn
    thịt dê, thịt heo, thịt chó thì sẽ tiết ra mùi của các thứ ấy. Quý vị ăn tỏi ư? Người
    quý vị sẽ toàn là mùi tỏi!
    Quý vị bảo rằng: “Mùi phát ra ở miệng. Nếu ăn xong súc miệng, đánh răng
    thì chẳng còn mùi nữa”. Kỳ thực chẳng phải vậy. Ăn thứ gì thì chẳng phải chỉ có
    răng miệng có mùi mà toàn thân thể đều có mùi của thứ đó. Nếu quý vị không tin
    thì hãy thí nghiệm một lần cho biết. Quý vị thử uống thật nhiều sữa, tới khi đổ mồ
    hôi thì sẽ thấy mồ hôi có mùi sữa. Xem ra chín lỗ nói trên thường tiết ra chất bất
    tịnh, vậy chúng còn có gì là hay nữa? Quán sát như vậy gọi là quán thân bất tịnh.
    Thứ hai, hãy quán thọ là khổ. Thọ có nghĩa là hưởng thọ, lãnh thọ. Bất cứ
    quý vị nhận thứ gì của ai, lãnh thọ hay hưởng thọ một thứ gì, cái thọ đó là khổ. Cái
    vui sướng, tức là “lạc,” cũng là nguyên nhân của khổ.
    Thứ ba là quán tâm vô thường. Tâm của chúng ta, niệm niệm đổi thay,
    chẳng bao giờ ngưng nghỉ, nó là vô thường.
    14

    Thứ tư, quán pháp vô ngã. Tất cả các pháp đều không có ngã. Không những
    thế, chúng cũng không có ngã sở.
    Như quán thân bất tịnh, các thứ thọ, tâm, pháp cũng đều bất tịnh. Quán thọ
    là khổ, các thứ thân, tâm và pháp cũng đều là khổ; quán tâm vô thường, các thứ
    thân, thọ, pháp cũng đều vô thường; quán pháp vô ngã, các thứ kia cũng là vô ngã.
    Gọi là Tứ Niệm Xứ, bốn lãnh vực để quán niệm, nhưng một là ba, ba là một; một
    thứ tức là bốn thứ và bốn thứ tức là một thứ.
    Thời gian Phật còn tại thế thì các Tỳ-kheo trú cùng một nơi với Phật và sau
    khi Phật nhập Niết Bàn thì phải trú tại Tứ Niệm Xứ. Đó là di ngôn của Phật, lời
    Ngài phó chúc, dạy các Tỳ-kheo chúng ta phải y theo như vậy.
    Sau khi Phật vào Niết Bàn thì tất cả phải lấy giới làm thầy. Giới là nghĩa
    “không làm các điều ác, luôn làm các điều lành”; cũng có nghĩa là “ngưng ác, ngừa
    quấy” (chỉ ác phòng phi), tức là chấm dứt điều ác, tu mọi điều lành, hay làm các
    điều phải, chấm dứt các điều quấy. Đó là giới luật. Kỳ thực nguyên ủy chẳng có gì
    gọi là luật cả. Nguyên do là khi Phật còn tại thế, số đệ tử rất đông, mà càng đông
    thì phát sinh nhiều vấn đề phức tạp. Có người giữ đúng quy củ, nhưng cũng có kẻ
    không theo phép tắc gì cả. Mỗi khi gặp một nguyên do nào đó, Phật mới đưa ra
    một quy lệ, rồi lâu ngày các quy lệ đó gom lại thành giới luật. Tỳ kheo có 250 điều
    giới, Tỳ kheo ni có 348 điều, Bồ tát thì có 10 giới trọng, 48 giới khinh, Sa di có 10
    giới, cư sĩ tại gia thì hoặc 8 giới, hoặc 5 giới.
    Các giới đó không ngoài chủ ý khuyên mọi người giữ quy củ. Cho nên giữ
    được quy củ thì xã hội sẽ có những phần tử tốt, ưu tú, hiền lương, có thể mang lại
    trật tự an lành cho tất cả, không còn điều gì phiền hà trong cuộc sống. Bởi vậy giới
    15

    luật là nền tảng của một thế giới an bình. Đó là lý do mà các Tỳ-kheo phải lấy giới
    làm thầy.
    “Tôi nghe như vầy”. Vào ngày tôn giả A-nan kết tập kinh điển, lúc tôn giả
    vừa ngồi vào cỗ pháp tọa, tức là chỗ thường ngồi của Phật khi thuyết pháp, người
    ta bỗng thấy hiện ra nhiều tướng tốt lành. Đại chúng chứng kiến lấy làm lạ, trong
    lòng nẩy sinh ba điều nghi hoặc. Thứ nhất người ta nghi rằng vị tôn giả đó chẳng
    phải là A-nan thực, mà là đức Phật Thích-ca sống lại, bởi họ thấy rõ vị tôn giả
    xưng là A-nan cũng có ba mươi hai tướng tốt, cùng tám mươi vẻ đẹp nên nghi rằng
    Phật đã hồi sanh.
    Thứ hai, họ nghi rằng đây là một vị Phật ở cõi khác đến thế giới Ta-bà để
    thuyết pháp. Nếu chẳng vậy thì làm gì có được những hiện tướng tốt lành đó.
    Thứ ba, họ nghi tôn giả A-nan đã chứng Phật quả, ngài đã thành Phật.
    Bởi có những điểm nghi ngờ như vậy nên ai nấy đều bàng hoàng, chưa biết
    rõ sự thể ra sao. Tới khi Tôn giả A-nan cất tiếng: “Như thị ngã văn” - tôi nghe như
    vầy - bốn chữ đó có nghĩa như: “Đây! Pháp như vầy là do chính tôi, A-nan, được
    nghe đức Thích-ca Mâu-ni Phật thuyết giảng”, mọi người mới thức tỉnh và mọi
    nghi ngờ mới tiêu tan.
    Ngay đến hàng A-la-hán, khi nghe thấy ngài A-nan kết tập kinh điển cũng
    khởi lên ba mối nghi như vậy. Nói gì chúng ta ngày nay, nghe tới kinh này, tâm
    chúng ta bèn khởi lên, chẳng phải ba mà có thể tới hàng ngàn hàng vạn mối nghi
    nữa, tỷ như có ý nghĩ rằng: “Kinh này có thiệt hay không?”, “có phải do Phật nói
    ra chăng?”, “lấy gì làm bằng chứng?”. . . Cái máy điện toán trong thân thể này,
    không phải là điện não (computer), mà là nhân não (our brain), một khi mở máy thì
    16

    cả ngàn, cả vạn mối nghi xuất hiện. Xem như vậy thì học Phật Pháp chẳng phải là
    dễ. Chúng ta học Phật mà chẳng có thành tựu gì, chính là do cái tâm nghi ngờ đó.
    Có câu rằng: “Tu đạo cần đừng có tâm nghi”, nghĩa là người tu đạo đừng có
    tâm nghi. Nói thế này, thì quý vị không tin; nói thế kia, quý vị cũng không tin; nói
    điều chân thực cũng không tin; song nói điều hư dối thì quý vị lại tin! Đó là điên
    đảo.
    Câu tiếp theo là: “Tâm nghi vừa khởi lạc đường mê”, nghĩa là một khi quý
    vị khởi tâm nghi tức là quý vị đi ngay vào con đường lầm lạc. Bởi vậy người học
    Phật phải theo đúng châm ngôn “sáng như vậy, chiều cũng vậy” (triêu ư tư, tịch ư
    tư), ngày ngày tu học, từng giờ, từng khắc phải tu học, đinh ninh trong dạ, chớ
    không phải làm cho qua chuyện mà được.
    Tại Vạn Phật Thánh Thành này, bất cứ là người xuất gia hay hàng cư sĩ, nếu
    muốn học Phật thì phải ráng đọc tụng cho thuộc bộ Kinh Lăng Nghiêm. Nhớ và
    thuộc lòng bộ kinh này thì công học Phật sẽ không uổng. Thực vậy, trong kinh này
    Phật giảng đến chỗ tột cùng, rất là chính xác, phơi bày hết cái dở của hàng ngoại
    đạo, lột trần bổn tướng của họ. Bởi vậy nếu chúng ta hiểu thấu kinh Lăng nghiêm,
    thì thiên ma ngoại đạo sẽ phải khiếp sợ đến dựng lông tóc. Nay quý vị muốn thực
    lòng hộ trì Tam Bảo, hoằng dương Phật Pháp, thì phải mau mau nghiên cứu kinh
    Lăng Nghiêm, đọc tụng Lăng Nghiêm, giảng giải Lăng Nghiêm, tối thiểu là như
    vậy.
    Việc học kinh Lăng Nghiêm, nghe kinh, tụng kinh, đòi hỏi một sự nhẫn nại,
    không được sanh lòng chán nản. Quý vị phải biết cái cây kia, mỗi ngày một lớn
    lên, rồi hàng ngày quý vị phải lấy nước tưới lên, thì cây mới nở hoa, mới có mầu
    sắc đẹp đẽ như vậy. Các trẻ nhỏ phải ngày ngày dạy dỗ, lớn lên đi học cũng ngày
    17

    ngày đọc sách. Học Phật Pháp thì cũng phải bỏ chút ít thời gian để hàng ngày
    nghiên cứu, học tập Phật Pháp.
    Quý vị học Phật Pháp còn tốt hơn là mang tiền gửi tại ngân hàng nữa. Về
    phương diện huệ mạng và Pháp thân thì việc học Phật lại càng trọng yếu hơn nữa.
    Chớ nên coi tiền tài trên thế gian này là thật. Học Phật Pháp mang lại pháp tài để
    quý vị sử dụng tại thế gian. Nó là công đức pháp tài cho pháp xuất thế gian. Quý vị
    không thể coi nhẹ vấn đề này, không thể làm một cách qua loa cho xong việc! Bận
    rộn cả ngày mà cũng dành được chút thời gian để nghe kinh, nghiên cứu Phật
    Pháp, vậy là tốt lắm!
    Chớ có nghĩ rằng: “Ồ! Giảng kinh thì ngày nào cũng chỉ từng đó! Nghe hoài
    phát chán!” Vậy chớ, công việc của quý vị bận rộn mà quý vị vẫn phải ăn, vẫn phải
    mặc quần áo, vẫn phải ngủ nghỉ thì sao? Như nghe kinh mà ta cũng coi trọng như
    ăn, mặc, ngủ nghỉ thì hay biết bao!
    “Như vầy” (Như thị), ý nói rằng pháp như vầy. Pháp đó có thể tin được,
    pháp đó có thể tu theo, pháp đó có thể tu thành Phật được. Pháp đó phải tu tập,
    chúng ta phải tin theo, chúng ta phải gắng sức tu một cách chân thành. Từ ngữ
    “Như vầy” (Như thị) là chỉ về pháp, biểu tượng cho ý nghĩa thành tựu của bộ kinh
    về chữ “tín”.
    Phàm là kinh thì phải thỏa mãn sáu điều kiện cần thiết, gọi là sáu thành tựu.
    Thứ nhất là thành tựu về tín. Nếu quý vị tin được có nghĩa là niềm tin đã thành tựu,
    mà tín có thành tựu thì mới có lợi ích. Nếu không tin thì chẳng có lợi gì. Lấy thí dụ
    như cơm mà chúng ta ăn. Chúng ta tin rằng ăn cơm vào thì sẽ được no bụng, bằng
    không ăn thì chẳng no được. Pháp cũng vậy, tuy Pháp đó có thể dẫn tới Phật quả,
    nhưng quý vị không tin, không tu, thì Pháp đó chẳng có hiệu quả gì đối với quý vị
    18

    cả. Pháp chẳng phải nói suông, thực hành Pháp mới là đạo. Quý vị phải thực sự tu
    hành, y theo Pháp mà tu tập, có như vậy mới có lợi lạc. Quý vị có tin thì mới có sự
    thành tựu. Có được niềm tin thực ra cũng do nhiều nhân duyên khác hỗ trợ.
    “Tôi nghe”: Từ ngữ này nói lên điều kiện cần thiết thứ hai, đó là sự nghe,
    hay nói cách khác là thành tựu về nghe. “Tôi nghe” thì chữ “tôi” chỉ Tôn giả A-
    nan. Ngài tự xưng mình là “tôi”, nhưng chữ “tôi” ở đây có tính cách vô ngã, không
    hề có sự chấp trước, cái “tôi” viên dung, không bị trở ngại; nó thấu suốt cả vạn sự
    vạn vật mà lại buông bỏ hết; bởi vậy nó mới đích thực là chân ngã của tự tánh. Cái
    “tôi” này không mang ý nghĩa đối ngoại, như nói tôi và người khác. Nó là đối nội,
    đối với chính tâm sở của mình. Đây là cái “tôi” có trí huệ, cái “tôi” không điên
    đảo, cái “tôi” trong sự trạch pháp. Bởi có con mắt trạch pháp nên mới tới được
    trình độ “thâm nhập kinh tạng, trí huệ như biển”. Làm sao có được con mắt trạch
    pháp? Chính là phải có thành tựu về tín và thành tựu về văn (nghe).
    “Một thời”: Nay đã có hai sự thành tựu, có lòng tin, có ý muốn nghe,
    nhưng lại phải có một thời điểm để nghe, tức thời gian nghe bộ kinh Công Đức
    Bổn Nguyện của Đức Phật Dược Sư, mà cũng chỉ cả thời gian Tôn giả A-nan kết
    tập kinh tạng. Từ ngữ “một thời” chính là sự thành tựu về thời gian. Có thể quý vị
    sẵn lòng tin, lại muốn nghe, nhưng thời gian không ăn khớp chẳng hạn, đại khái
    quý vị không có dịp đến Kim Luân Thánh Tự để tham gia pháp hội giảng kinh
    thuyết pháp, mà lại nằm ở nhà, thì dầu có tin và muốn nghe cũng không nghe
    được. Đó là vần đề thành tựu về “thời”, một trong những điều kiện cần thiết để
    nghe kinh.
    “Bạc Già Phạm” (Bhagavan) là một tên khác của đức Phật. Từ ngữ này có
    sáu ý nghĩa. Quý vị muốn tìm hiểu kỹ càng về từ ngữ này thì có thể tra từ điển Phật
    19

    học. Nếu không, thì chỉ cần nhớ rằng đây là tiếng Phạn và tiếng đó chỉ đức Phật.
    Từ ngữ “Bạc Già Phạm” biểu tượng cho sự thành tựu về chủ thể.
    Nay các điều kiện về tín, nghe và thời đã được thỏa mãn, nhưng nếu không
    ai giảng kinh thì quý vị đâu có nghe được gì. Các thành tựu trên đều vô dụng nếu
    không có sự thành tựu về chủ thể, tức là người chủ thuyết pháp.
    Bây giờ tôi hỏi quý vị: Có ai nhớ sáu ý nghĩa của chữ “Bạc-Già-Phạm” này
    không?
    Một đệ tử thưa: Đệ tử chỉ nhớ được bốn ý nghĩa.
    Thượng Nhân: Cứ nói ra cho mọi người nghe đi! Còn hai nghĩa kia để
    người khác nói.
    Đệ tử: Một nghĩa là tự tại, ngụ ý rằng đức Phật ở nơi nào cũng thoải mái,
    không có phiền não.
    Thượng Nhân: Tự tại giống như ông chăng?
    Đệ tử: Hoàn toàn khác.
    Thượng Nhân: A! Ông làm gì mà không tự tại? Ông chạy đi đâu mà không
    “ở đây” (tự tại)?
    Đệ tử: Thường thường là hướng ngoại, truy cầu bên ngoài.
    Thượng Nhân: Okay! Nghĩa thứ hai là gì?
    Đệ tử: Bạc Già Phạm còn nghĩa là danh xưng, ý nói rằng ai ai cũng biết tên
    của đức Phật; công đức, hạnh nguyện và lòng từ bi của Ngài, tất cả mọi người đều
    20

    hay biết. Nghĩa thứ ba là đoan nghiêm, tức là sự đoan chính, không có chút gì gọi
    là tà, không có vọng tưởng, tóm lại là rất trang nghiêm, rất chánh. Nghĩa thứ tư là
    xí thịnh, ý nói rằng công đức của Ngài rất trang nghiêm, thật là viên mãn, có tính
    cách sáng rực như một ngọn lửa phát ra ánh sáng, vô cùng mỹ lệ, rất hay, ai ai
    cũng muốn xem, muốn ngắm nhìn ánh sáng của ngọn lửa.
    Thượng Nhân: Trong số quý vị đây, có ai biết được ông ấy nói đúng hay sai
    chăng? Bốn danh xưng về đức Phật vừa nói có nằm trong sáu ý nghĩa của chữ Bạc
    Già Phạm không? Ai biết ông ấy nói sai? Mau nói thử coi! Ông ấy nói đúng ư?
    Cũng lên tiếng cho biết đi! Chữ đó còn hai ý nghĩa nữa, tôi không cần gọi tên ai
    cả, người nào biết thì hãy mau mau nói ra. Nếu chẳng ai nói cả thì chứng tỏ rằng
    quý vị đã quên, không một người nào ghi nhớ hết.
    Quả Huệ thì sao? Biết không?
    Quả Huệ: Có một nghĩa là cát tường.
    Thượng Nhân: Còn gì nữa? Quả Nhã có biết không?
    Quả Nhã: Có một nghĩa là tôn quý.
    Thượng nhân: Còn bốn ý nghĩa mà vừa rồi người ta đã giảng thì có đúng
    không?
    Quả Nhã: Một ý nghĩa gọi là trang nghiêm, nhưng (huynh ấy) nói thành chữ
    đoan chính.
    “Cát tường”! Người Trung Hoa thích chữ cát tường lắm! Nhất là người
    Quảng Đông, cứ mỗi lần sang năm mới, người ta chỉ nói : “Như ý cát tường! Như
    ý cát tường!” Muốn cát tường mà không chịu niệm Phật! Chỉ đi kiếm nơi đánh
    21

    “mạc chược”, hoặc đến chỗ khiêu vũ! Quý vị muốn được cát tường thì quý vị phải
    niệm Phật, sống trong quy củ theo đúng phép tắc. Đánh mạc chược ư? Cát tường
    làm sao được? Chỉ có thua bạc thôi! Thua tới thua lui, thua đến mất luôn cả cái
    quần này. Quý vị bảo như vậy là cát tường ư?
    “Tôn quý”! Phật là tôn quý nhất! Do đó muốn được tôn quý, chúng ta phải
    theo gương Phật, học tập tấm gương rất tôn quý, rất hoàn chỉnh của Ngài, một tấm
    gương trong, không còn tập khí, không còn vọng tưởng tạp niệm, hoàn toàn vượt
    xa cảnh giới A-la-hán.
    A-la-hán, như trong kinh Pháp Hoa mở đầu như sau:
    “Tôi nghe như vầy: Một thời Phật tại núi Kỳ-Xà-Quật, thuộc thành Vương
    Xá, cùng các vị đại tỳ-kheo, một vạn hai ngàn người, đều là A-la-hán . . .”
    A-la-hán là những vị đó. Họ là những người đã dứt sạch lậu hoặc - chư lậu
    dĩ tận - dứt hết các điều xấu, các tập khí, lìa mọi vọng tưởng, thoát khỏi vòng sanh
    tử. Các ngài đã làm xong mọi việc mà họ phải làm - sở tác dĩ biện - hoàn thành
    mọi thứ, không còn hướng ra ngoài để mong cầu điều gì. Bởi không rong ruổi tìm
    kiếm bên ngoài nữa nên mới dứt sạch các lậu hoặc.
    Lậu là thế nào? Như ham nói chẳng hạn, đó là lậu. Thích nghe thanh âm
    cũng là lậu. Có người bảo: “Tôi không nghe, tôi không nhìn, đâu có thể như vậy
    được? Học Phật Pháp để đi tới chỗ không nghe, không nhìn thì tôi không thể làm
    được”. Bởi không làm được như vậy nên cho đến nay quý vị vẫn chưa thành Phật,
    vẫn còn hướng ra ngoài để tìm kiếm, không biết trở về, không thể hồi quang phản
    chiếu.
    22

    Một khi đã dứt hết các thứ lậu thì lúc đó quý vị chẳng còn tham, chẳng
    tranh, chẳng cầu, chẳng ích kỷ, chẳng tự lợi. Chừng nào quý vị còn tham, là còn
    bệnh; còn tranh, cầu, ích kỷ, tự lợi, là còn bệnh. Tình ái cũng là bệnh và bệnh nặng
    nhất chính là dục niệm. Khi dứt sạch lậu thì hết dục niệm, hết các ý nghĩ dâm dục,
    hết sự khát khao, vọng tưởng, niệm gì cũng không còn.
    Bậc A-la-hán thì không có phiền não - vô phục phiền não - vì phiền não đã
    hết. Bậc A-la-hán đã tìm được lợi lạc cho chính mình - đãi đắc kỷ lợi - đã có trí huệ
    chân chánh, tức coi như đã gặt hái được cái kết quả chân chánh của việc tu học
    Phật. Như tôi đã từng nói với quý vị, Phật chính là một vị đại trí huệ. Ai có trí huệ
    thì người đó sẽ không điên đảo và người đó là Phật. Chừng nào quý vị còn điên
    đảo, tâm còn tham không biết chán, không bao giờ vừa lòng, luôn luôn tranh đua
    với người khác, chỉ biết ích kỷ, tự lợi, thì quý vị không thể nói tới sự lợi ích của
    Phật Pháp được. Chỉ khi nào quý vị dứt hẳn lòng ham muốn ngoại vật, như tiền
    bạc, đồ châu báu, rồi các thứ về sắc, thanh, hương, vị, xúc, tất cả các cảnh giới này
    đều không lay chuyển được mình, lúc đó quý vị mới thật sự hưởng lợi của chính
    mình, đãi đắc kỷ lợi.
    A-la-hán đã thoát hết mọi thứ ràng buộc, tức là “tận chư hữu kết”. Lúc này
    các tập khí đã hết, các thứ dây trói buộc không còn nữa nên hoàn toàn tự do. Trong
    cảnh giới này, tâm mới thực sự tự tại.
    Còn Phật thì sao? Địa vị của Phật còn siêu việt hơn nhiều lắm, bởi vậy Phật
    mới là tôn quý bậc nhất.
    Nếu chúng ta muốn học theo Phật thì bước đầu phải học tính cách không
    tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi. Chẳng phải là cứ nói :
    “Tôi không cái này, tôi không cái kia”, nhưng đồng thời lại muốn lấy những thứ
    23

    của người khác. Đó là quý vị đã dối người, dối mình. Quý vị thực sự không có tâm
    tranh ư? Quý vị sẽ để cho mọi sự diễn tiến một cách tự nhiên. Quý vị không tham
    ư? Quý vị cũng sẽ giữ một thái độ như vậy. Đến tình trạng không cầu thì có câu
    nói: “Đáo vô sở cầu xứ tiện vô ưu”, nghĩa là còn mong cầu thì còn ưu sầu, hết
    mong cầu thì chẳng còn gì phải ưu sầu nữa. Quý vị còn phải dứt bỏ tâm ích kỷ (tự
    tư), tức là không nghĩ riêng cho mình. Chuyện phiền phức trên thế gian này là do
    mọi người có tâm ích kỷ, mà ích kỷ phát sinh là vì dục niệm. Không ích kỷ còn bao
    gồm cả lòng không mong cầu và không còn vướng vào vòng yêu thương nữa.
    Không tự lợi là không tìm cái lợi riêng cho mình, không tìm cái khoái cảm riêng
    cho mình, các thứ đó phải dứt bỏ hết! Nếu loại được hết các lỗi lầm kể trên thì quý
    vị sẽ thành Phật.
    Sáu ý nghĩa của từ Bạc Già Phạm quan trọng như vậy. Chúng ta là người
    học Phật, phải nhớ cho kỹ. Bằng không thì cũng như không nhận biết được Phật.
    Như quý vị quen biết một người nào, quý vị nhận biết diện mạo, hình dáng bên
    ngoài của người đó, còn nhận biết cả giọng nói. Như vậy mới gọi là quen biết thực
    sự. Quý vị chẳng cần phải nhìn thấy tận mặt, chỉ cần nghe giọng nói của người đó
    là đã nhận ra ngay người quen. Nhận biết Phật cũng cùng một ý nghĩa như vậy.
    Nếu quý vị học Phật mà không ghi nhớ hết các nghĩa của danh từ Bạc-Già-Phạm
    thì quý vị quả là kẻ học Phật hồ đồ.
    Bởi vậy quý vị phải nhớ điều này đặng lần sau, khi được hỏi đến thì có thể
    trả lời được. Quý vị xem! Tôi đã mất nhiều hơi sức giảng cho quý vị mà quý vị lại
    quên hết, như gió thoảng qua tai, thật là đáng tiếc biết bao! Bây giờ tôi giảng được
    chừng nào, quý vị phải cố gắng ghi nhớ, lần sau nhất định tôi sẽ hỏi lại, ai không
    trả lời được tức là kẻ đó đã ngồi ngủ gục.
    24

    “Phật đi hóa độ các nước, đến thành Quảng Nghiêm, Ngài dừng lại dưới
    gốc cây âm nhạc”: Phật giáo hóa các chúng sanh không phải chỉ giới hạn trong
    một nước mà tại hết thảy các nước có duyên với Phật Pháp, cũng như những chúng
    sanh ở một nước nào hữu duyên thì Ngài cũng tới đó để giáo hóa. Bởi vậy mới nói
    là “du hóa chư quốc”. Trên đường du hóa, Phật đi tới một thành phố lớn tên gọi là
    Quảng Nghiêm (Vaisali). Ngài dừng lại tại một gốc cây âm nhạc, ngồi xuống trong
    thế kiết già và thuyết pháp cho đại chúng.
    Các từ ngữ “thành Quảng Nghiêm, dưới gốc cây âm nhạc” nói lên ý nghĩa
    của “xứ thành tựu”. Phần trên chúng ta đã thấy những sự thành tựu về tín, văn, thời
    và chủ. Thành tựu về chủ tức là nói về chủ thể của sự giảng kinh. Tuy nhiên, đã có
    người giảng kinh rồi thì lại cần phải có địa điểm giảng nữa. Cũng giống như nay
    giảng Kinh Dược Sư mà không có giảng đường thì giảng làm sao được? Bởi vậy
    phải có yếu tố địa điểm, tức là nói về xứ thành tựu.
    Đoạn sau kinh văn nói đến các Tỳ-kheo và Bồ tát, tức đề cập tới chúng
    thành tựu. Vậy là đã có chủ thể giảng kinh, có địa điểm, nay lại có người nghe
    kinh. Phật thuyết pháp mà nếu chẳng có ai nghe, Phật thuyết cho Phật nghe thì
    chẳng còn ý nghĩa gì. Tất phải có sự hiện diện của chúng sanh thì Phật mới có đối
    tượng thuyết pháp.
    Chúng sanh trong các pháp hội đều là những người có duyên với Phật Pháp.
    Như quý vị tới đây nghe kinh, chính là đã có sẵn nhân duyên rồi. Không có duyên
    thì dầu muốn tới cũng không tới được. Đừng tưởng đây là chuyện bình thường. Kỳ
    thực nó không đơn giản như vậy. Chính quý vị đã từng gieo trồng căn lành từ bao
    nhiêu kiếp trước, nên nay mới có cơ hội mỗi ngày đến đây nghe kinh. Có điều
    chúng ta không nhận biết được điều đó mà thôi. Bởi không hiểu duyên lành này
    nên có lúc quý vị sanh tâm lười biếng, rồi lấy cớ rằng: “A! Sư Phụ chưa tới, ta có
    25

    thể chạy đi tiêu khiển chút xíu”. Rồi thì, từ đó chạy đi xem kịch, coi phim, đi nhảy,
    đi uống rượu, mở “party”, nghĩa là mang sức lực phung phí vào những chuyện vô
    ích.
    Mỗi lần đến đây nghe kinh, một là quý vị được nghe pháp âm, đủ khiến cho
    lòng vơi bớt những phiền não trần lao của thế tục, hai là quý vị được thêm trí huệ
    vì những gì kinh điển nói ra đều là trí huệ, đều là pháp bát-nhã.
    Có người bảo rằng: “Tôi hiểu kinh cũng khá lắm rồi!” Vậy hiểu thêm nữa
    không tốt hay sao? Quý vị sợ quá nhiều ư? Quý vị đến ngân hàng gửi tiền, có khi
    nào quý vị thốt ra câu: “Trương mục của tôi quá nhiều tiền, nhiều quá thôi! Nhiều
    quá thôi!”? Nhiều bao nhiêu đi nữa cũng chẳng ngại, càng nhiều càng tốt mà! Vậy
    có thêm trí huệ, biết thêm Phật Pháp chân chánh mà cũng ngại ư? Chẳng phải như
    vậy là điên đảo hay sao? Chẳng qua quý vị không biết suy tính, nên mới bỏ gốc mà
    tìm ngọn, bỏ cái trước mắt mà tìm cái xa vời, bỏ lỡ việc học hỏi Phật Pháp, để
    uổng phí hết thời gian!
    “Cùng với các đại bí-sô, đủ tám ngàn vị”: Đại bí-sô hay Tỳ-kheo là chỉ
    các bậc xuất gia. Chữ “đại” ngụ ý rằng các vị này đều là bậc trưởng lão, là những
    Tỳ-kheo đã xuất gia từ trên hai mươi tới ba mươi năm. Không gọi bằng chữ “lão”
    là già mà gọi bằng chữ “đại” vì họ là những bậc Tỳ-kheo lớn, đầy đủ đức hạnh, trí
    huệ viên mãn, phẩm cách tuyệt vời.
    “Tỳ kheo” nguyên là tiếng Phạn, bao hàm ba nghĩa. Vị nào hay nghe kinh,
    ắt đã được nghe nhiều lần ý nghĩa này: thứ nhất là nghĩa “khất sĩ”, thứ hai là “bố
    ma”, thứ ba là “phá ác”.
    1. Khất sĩ, chỉ người đi xin ăn. Những người đi đến từng nhà để xin cơm ăn
    còn gọi là kẻ ăn mày, nhưng khất sĩ thì không phải là hạng ăn mày bình thường, đi
    26

    xin với một tâm hồn phân biệt, không bình đẳng—hễ được cho nhiều thì vui thích,
    cho ít thì buồn phiền. Đối với khất sĩ thì khác—cho đồ ngon hay không ngon, họ
    cũng chẳng chú ý, hoặc cho nhiều cho ít, họ cũng không quan tâm, họ chỉ biết
    mang cơ duyên đến để mọi người được gieo phước, ai cho thì người đó gieo nhân
    và gieo nhiều nhân lành thì gặt hái nhiều phước, họ chẳng khởi phiền não, vô
    minh.
    Trên đường đi khất thực, mắt vị Tỳ kheo không nhìn ngang nhìn ngửa hoặc
    quay đầu ngắm nghía, mà luôn giữ thái độ nghiêm chỉnh uy nghi, theo đúng pháp
    túc cung trai. Đã là người xuất gia, mỗi khi đi ra đường cũng không thể ngó ngang
    ngó dọc, luôn luôn giữ cặp mắt nhìn xuống mũi, mũi chiếu xuống miệng, miệng thì
    quán tâm. Phàm thứ gì không đúng với lễ nghi, thì mắt không nhìn, tai không nghe,
    miệng không nói, thân không vọng động.
    Khất sĩ đi khất thực trong sự yên lặng, không nói năng, chớ không giống như
    người ăn mày đến trước cửa nhà người ta thì nói những câu: “Thưa ông! Thưa bà!
    Phát tài, phát phúc!” toàn là những từ ngữ tán dương, khách sáo. Tỳ kheo đi khất
    thực thì không nói gì cả, ai bố thí thứ gì thì mang đi, không bố thí cũng vậy, trong
    tâm không có phiền não.
    2. Bố ma là ý nghĩa thứ hai của chữ “Tỳ-kheo”. Vì Tỳ kheo đoan nghiêm có
    chánh khí nên thiên ma trông thấy thì kinh hãi, các loại tà ma quỷ quái thì phải
    lánh xa. Tại sao vậy? Bởi vì chánh có thể hàng tà.
    3. Phá ác là ý nghĩa thứ ba. Người thường rất khó phá trừ các tập khí xấu,
    không giống như các Tỳ-kheo là những người chuyên trị việc phá trừ tập khí,
    chuyên sửa các lỗi lầm của mình, cải sửa điều ác thành điều thiện, do đó họ được
    gọi là phá ác.
    27

    Số đại Tỳ-kheo này tổng cộng là bao nhiêu? Trong pháp hội có tất cả tám
    ngàn vị.
    “Ba vạn sáu ngàn đại Bồ-tát”: Danh từ “Bồ-tát” cũng là tiếng Phạn và rất
    phổ biến tại Trung Hoa. Hai chữ này ai ai cũng quen thuộc, nhưng hỏi mọi người,
    kể cả trong hàng Phật tử, Bồ tát là gì thì họ chẳng biết nói ra sao.
    Chúng ta phải nhớ rằng hai chữ “Bồ tát” chính là chỉ một vị thánh trong Phật
    giáo Đại thừa. Nói cho đủ thì đó là danh từ “Bồ-đề tát-đỏa”, còn tiếng Anh là
    Bodhisattva, dịch nghĩa ra tức là “giác hữu tình”. Chữ hữu tình là chỉ chúng sanh
    và Bồ tát là một chúng sanh trong chín Pháp giới, là một thánh nhân trong bốn
    Pháp giới thánh.
    Giác hữu tình là ý nghĩa gì? Đó là ngụ ý rằng các vị này sử dụng trí huệ giác
    ngộ của mình để độ thoát các chúng sanh hữu tình. Phàm loại gì có khí huyết thì
    gọi là hữu tình, không có khí huyết thì gọi là vô tình. Như các giống thực vật, tuy
    thuộc loại vô tình, nhưng chúng lại có “tánh” (bổn tánh) và chúng đều sanh ra và
    được nuôi dưỡng trong đại quang minh tạng của Phật.
    Bồ tát gọi là “giác hữu tình” nhưng cũng là một “hữu tình giác”. Tại sao nói
    vậy? Bởi Bồ tát cũng là người như chúng ta, cũng là một chúng sanh, chỉ khác là
    Bồ tát đã giác ngộ. Giác ngộ điều gì? Giác ngộ ý nghĩa “chư ác bất tác, chúng thiện
    phụng hành” (các việc ác không làm, các việc lành thì làm). Một khi đã giác ngộ
    thì dụng công phá trừ tập khí, tu tập trí huệ vô thượng. Như vậy đây là một vị giác
    ngộ trong giới hữu tình. “Giác” là đối nghịch với “mê”, nên Bồ tát là một chúng
    sanh không mê; vì bởi không mê nên trong hành động không còn vô minh nữa.
    Chúng ta bây giờ phàm làm việc gì cũng là hành động trong sự vô minh, bởi
    lý do chúng ta không có trí huệ chân chánh. Gặp việc là chúng ta không biết xử trí
    28

    cách nào cho đúng, tiến chẳng biết tiến, thoái chẳng biết thoái. Chúng ta không
    phải là kẻ đã tự giác, còn hàng Nhị thừa thì đã tự giác rồi, hành động không còn hồ
    đồ nữa, nhưng họ không dùng các pháp môn giác ngộ đó nói cho mọi người biết để
    tất cả đều được giác ngộ. Bồ tát thì không những đã được tự giác, lại còn truyền bá
    trí huệ giác ngộ đó cho hết thảy mọi người, khiến cho những ai thực lòng mong
    ước giác ngộ, đều có thể theo phương pháp đó mà đạt được kết quả. Vậy là Bồ tát
    đã tự giác lại còn đi giác ngộ người khác, tức là tự giác, giác tha. Tuy nhiên sự giác
    ngộ của Bồ tát vẫn chưa tới chỗ viên mãn.
    Phật thì sao? Phật thì tự giác, giác ngộ chúng sanh, sự giác ngộ của Phật lại
    đạt tới độ viên mãn, ba hạnh giác ngộ đều viên mãn, do đó có câu: “tam giác viên,
    vạn đức cụ”, cả vạn đức hạnh đều toàn vẹn, như vậy mới gọi là Phật.
    Chỗ này đương nói về Bồ tát. Vậy nếu Bồ tát vẫn giữ bước tiến tu thì cũng
    sẽ chứng được quả Bồ tát Đẳng giác, chỉ thua Phật một bậc. Hàng Bồ tát cũng có
    nhiều bậc, có Bồ tát Sơ địa, Bồ tát Nhị địa, Tam địa, Tứ địa, cho đến Bồ tát Thập
    địa. Bồ tát Thập địa gọi là Bồ tát Đẳng giác. “Đẳng” là ngang hàng, ý nói ngang
    với độ giác ngộ của Phật, nhưng so địa vị thì không bằng Phật.
    Trong pháp hội của đức Phật Dược Sư có các hàng Bồ tát như trên, gọi là đại
    Bồ tát hay ma-ha-tát. Gọi là “đại” tức chỉ nguyện lực lớn, trí huệ lớn, công phu tu
    hành và đạo nghiệp đều lớn. Số Bồ tát đó trong pháp hội là ba vạn sáu ngàn vị.
    “Các quốc vương, đại thần”: Một số quốc vương cũng có mặt trong Pháp
    hội. Họ là vua một nước, lo việc trị vì để mang lại hạnh phúc cho toàn dân. Bên
    cạnh có các vị đại thần, họ là những người phụ tá của vua để lo việc trị nước.
    “Bà-la-môn”: Bà-la-môn là một giai cấp quý tộc ở Ấn. Nước Ấn độ có bốn
    giai cấp, hai giai cấp tôn quý và hai giai cấp hạ tiện. Bà-la-môn theo pháp tu khổ
    29

    hạnh, ăn chay, nhưng họ cầu sanh về cõi trời, tâm tham hãy còn, tâm sân chưa hết,
    tâm si và vọng tưởng cũng chưa hàng phục được. Họ chỉ là những người tu khổ
    hạnh thanh tịnh, đại loại giống như hàng đạo sĩ ở Trung Hoa, tuy hình tướng chẳng
    giống nhau, nhưng tôn chỉ tu hành chẳng sai khác. Bà-la-môn chính là những
    người tu ngoại đạo tại Ấn độ. Trong hàng Bà-la-môn cũng đã có khá nhiều người
    đạt được công phu đáng kể.
    “Cư sĩ”: Đây là một danh xưng, dùng trong việc xưng hô. Người khác xưng
    hô mình như vậy chớ không phải chính mình tự xưng là “cư sĩ”. Tôi thấy có một số
    người, dĩ nhiên không phải hàng xuất gia, nhận mình là cư sĩ, rồi cho in lên tấm
    danh thiếp tên của mình với danh xưng cư sĩ; nói chuyện với ai cũng tự xưng tôi là
    cư sĩ tên này, cư sĩ tên kia chẳng hạn. Như vậy là kém hiểu biết.
    Lối xưng hô phổ thông tại Trung Hoa là dùng hai chữ “tiên sinh”. Người
    khác có thể dùng hai chữ đó để xưng hô ta, chớ ta không thể tự xưng là tiên sinh
    được. Thí dụ tôi hỏi: “Ông là ai?” Anh trả lời: “Tôi là Triệu tiên sinh, là Lý tiên
    sinh, hoặc Tiền tiên sinh v.v..” Trả lời như vậy tức là chẳng biết tiếng Trung Hoa.
    Chữ “tiên sinh” thường dùng để xưng hô đối với những vị có học vấn, hoặc
    lớn tuổi và có đức hạnh, hoặc những người lịch lãm. Chữ “cư sĩ” là dành cho
    những ai đủ mười loại mỹ đức. Nếu quý vị chẳng được như vậy thì không xứng
    đáng với danh xưng này. Lại nói đến mấy chữ “Pháp sư” nữa, phải để cho người
    khác gọi ta, chớ ta không thể tự xưng mình là Pháp sư được, bởi như vậy có khác
    gì tự mình tán tụng mình, tự mình xưng mình là hoàng đế? Chữ hoàng đế cũng
    phải để người khác tung hô, đại khái như tung hô: “Hoàng đế vạn tuế!” Tự mình
    không thể xưng hô như vậy! Dùng chữ cư sĩ để xưng hô là có ý cung kính, cung
    kính người khác, chớ không phải cung kính chính mình. Anh đối với chính anh,
    trong lòng cung kính, điều này nên lắm, nhưng không cần biểu lộ ra ngoài. Về văn
    30

    hóa Trung Hoa, vấn đề học vấn là vô cùng tận. Sai một ly đi một dặm. Trên đây
    chỉ là những điều thường thức, chẳng có gì là thâm sâu, chúng ta phải lưu ý.
    “Trời, Rồng và Tám bộ chúng (Thiên Long Bát bộ)”: Đạo tràng của chúng
    ta hiện nay đều có các vị thiên long che chở. Chắc mọi người còn nhớ thời gian
    Kim Luân Thánh Tự mới dọn tới và khi bắt đầu tu sửa, ở lưng trời người ta thấy có
    đức Bồ tát Quán Âm hiện ra. Ngài đặt chân trên lưng con rùa và thị hiện ở không
    trung.
    Một chuyện khác là hồi đó, có người cho tôi hay rằng ngay tại góc đường
    phía đông của khu này có một quán rượu. Trong quán có đủ thứ trò quỷ quái, nào
    ma túy, nào rượu, nào thoát y vũ, đi vào đi ra toàn là hạng ăn chơi trụy lạc. Đương
    lúc chúng ta sửa soạn để khai quang cho đạo tràng thì quán rượu này bị cảnh sát ra
    lệnh đóng cửa. Khu này ngày trước uế tạp nay trở thành khang trang sạch sẽ. Đó
    chính là nhờ tám bộ Thiên long ủng hộ cho đạo tràng nên mới có sự cảm ứng như
    vậy.
    Chỗ đạo tràng này nguyên là một Giáo đường (nhà thờ) cũ. Cư dân đến ở đa
    số là hỗn tạp, họ ăn ở thiếu sạch sẽ, khi ăn khi uống tùy tiện xả rác, thành thử loài
    chuột kéo đến rất đông. Chúng ta đến đây để hoằng dương Phật Pháp, nên bổn
    phận của bát bộ thiên long tất phải hộ trì đạo tràng, từ đó họ phải đuổi hết các loài
    chuột đi nơi khác. Thực ra, tôi chẳng có vấn đề gì với loài chuột, nhưng có chuột
    thì thiếu vệ sinh, khiến cho những ai đến đây đều có cảm tưởng chỗ này là dơ bẩn.
    Bởi vậy chúng ta phải cầu sự giúp đỡ của thiên long bát bộ, xin các vị ấy hãy làm
    nhiệm vụ ủng hộ đạo tràng, bằng cách xua đuổi chuột cùng các thành phần bất hảo
    ra khỏi nơi này.
    31

    Bát bộ là chỉ trời, rồng, dạ xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-
    già, ca-lâu-la. Các vị này đều hộ trì đạo tràng. Hôm nay, nhân dịp tôi giảng tới chỗ
    này mà nhắc tới các vị thiên long. Vậy xin các vị hãy làm nhiệm vụ của mình, nhất
    định sẽ ra tay hộ trì cho đạo tràng của Phật.
    Các chư Thiên ở trên trời trong quá khứ đã từng phát nguyện ủng hộ đạo
    tràng của Phật.
    Long là rồng, thuộc loài linh vật, cũng là một chúng sanh. Tại sao lại làm
    thân rồng? Trong quá khứ họ đã tu đạo, nhưng tu theo kiểu “thừa cấp giới hoãn”,
    nghĩa là tu các thừa thì gấp gáp, mà trì giới thì trễ nãi. Chữ “thừa” ở đây là chỉ
    Tiểu thừa, Đại thừa. Họ nguyện tu các pháp Đại thừa, nguyện tinh tấn, dũng mãnh,
    nhưng lại muốn đi đường tắt cho mau, muốn được thần thông. Do đó họ đi khắp
    nơi tìm Phật Pháp, kiếm Mật tông và chuyên tu theo tông này. Cách thức họ tu như
    thế nào? Họ không chú trọng giới luật, không giữ giới. Những người giữ giới phải
    luôn luôn theo đúng câu: “Việc ác thì tránh, việc lành thì làm”, trong khi đó, họ ăn
    cắp đầu lâu của xác chết để luyện công, niệm chú. Có khi họ ăn cắp bài vị tổ tiên
    của các nhà rồi biến các vong linh đó làm quỷ để sai khiến. Chữ “thừa cấp” là nói
    về sự tinh tấn, dũng mãnh của họ để luyện công, đặng có thể tiến mau như hỏa tiễn
    vậy. “Giới hoãn” là nói họ không coi trọng giới luật, mặc sức hành động, kể cả các
    loại giới như giết hại, ăn cắp, dâm dục, họ không tuân thủ. Vậy thì còn nói gì nữa!
    Quý vị coi! Họ ăn cắp đầu lâu, ăn cắp bài vị tổ tiên nhà người ta, lấy cả mấy cây
    trồng trên mộ phần để luyện pháp, với tâm tham như vậy để tu pháp, do đó mới có
    câu “thừa cấp, giới hoãn”.
    Vì thế mà phải đọa mang thân rồng, tuy có thần thông, nhưng vẫn là loài súc
    sinh. Tuy nhiên, rồng cũng là loại linh vật, có thể thu nhỏ, có thể hiện lớn, khi ẩn
    khi hiện vô chừng. Có điều chúng rất sợ ánh sáng mặt trời, bởi một khi có ánh sáng
    32

    chiếu tới chúng cảm thấy khổ sở như bị lửa đốt thân, khiến chúng phải đổ mưa
    xuống, giống như người ta tắm gội vậy.
    Dạ xoa còn gọi là “tốc tật quỷ”, nghĩa là con quỷ chạy mau. Có loại chạy
    trên không, gọi là không hành, có loại chạy dưới đất gọi là địa hành, cũng có loại
    đi dưới nước gọi là thủy hành. Chúng chạy nhanh hơn xe hơi, hơn cả máy bay, có
    thể so với hỏa tiễn, nhưng hỏa tiễn cũng không thể thần tốc bằng dạ xoa, chỉ cần
    một niệm là ngàn dặm, vạn dặm cũng tới được.
    Dạ xoa cũng có nhiều chủng loại, kể cả ngàn vạn thứ khác nhau, giống như
    các loại chư thiên và rồng, không thể kể hết được. Loài người chúng ta cũng có
    loài da trắng, da đen, da vàng chẳng hạn, rồi trong số này lại phân chia thành quý
    vị ở bắc, tôi ở nam, người này ở đông, kẻ kia ở tây. Trong số rồng thì có rồng
    xanh, rồng vàng, rồng lửa, rồng trắng, rồng đen v.v.. Mỗi loài chúng sanh đều chia
    thành nhiều hạng. Trên thế giới này có biết bao nhiêu loại chúng sanh, rồi mỗi loại
    lại phân thành ngàn vạn giống có hình tướng khác nhau, đa dạng vô cùng, đó chính
    là điều kỳ diệu của thế gian.
    Không ai hiểu được sự bí mật của tạo hóa. Có người bảo rằng: “Ngày nay
    người ta đã lên tới cung trăng, vậy chuyện gì con người cũng sẽ làm được cả,
    chẳng có gì là không biết được”. Quý vị nên nhớ rằng dẫu từ địa cầu này quý vị có
    thể lên tới các tinh cầu khác, nhưng có biết đâu, chỉ cần một trái bom nguyên tử
    hay bom khinh khí nổ tung, một trận động đất hay núi lửa bộc phát, dù đó là thiên
    tai hay do con người tác động, thì nguy cơ hủy diệt nhân loại vẫn có thể xảy ra
    được. Càng ngày bí mật của thế giới càng được khám phá, các vấn đề lần lượt
    được sáng tỏ, nhưng khi sáng tỏ đến cực điểm thì màn hắc ám lại trở lại. Tôi nói
    một tỷ dụ: buổi ban mai chúng ta thức dậy, trời rạng sáng, rồi tới khi sáng đến cực
    điểm thì dần dần về chiều; trời tối, chúng ta đi ngủ và nhắm mắt đi vào giấc mơ với
    33

    đầu óc mù mờ. Trong thế gian này, chuyện lớn chuyện nhỏ tất cả đều đi theo cái
    vòng tuần hoàn này cả.
    Càn-thát-bà là loại biết âm nhạc, tấu nhạc hay vô cùng. Mỗi khi chúng cử
    nhạc thì tất cả chư thiên thượng giới đều chú ý lắng nghe đến say mê túy lúy như
    người uống rượu, không còn biết đến chuyện gì chung quanh. Tuy nhiên không dễ
    gì bảo chúng đánh nhạc cho chúng ta nghe. Chúng có một nhược điểm là ưa ngửi
    mùi hương. Ở đâu có mùi hương thì dầu xa xôi cả ngàn vạn dặm chúng cũng tới
    ngay được để thưởng thức hương thơm. Vua trời có một thứ hương, chuyên dùng
    để chiêu dụ càn-thát-bà. Có mùi hương thì càn-thát-bà liền tới, rồi ở đấy nhẩy múa,
    ca hát, tấu nhạc, nên càn-thát-bà còn gọi là “khứu hương thần”, nghĩa là thần ngửi
    hương. Ở trên đã nói qua về loài rồng. Vậy trong loài rồng có tám vị long vương
    (vua rồng), loài càn-thát-bà thì có bốn càn-thát-bà vương,
    A-tu-la là loài hay nổi giận. Người nào hay tức giận đều ít nhiều có hạt
    giống a-tu-la. Tại thiên giới, a-tu-la được gọi là loài không có rượu (vô tửu), bởi
    chúng không có rượu để uống. Chúng còn được gọi là loại phi thiên, tức không
    phải là dân thuộc thiên giới. Tại chốn này chúng chỉ là kẻ cư ngụ bất hợp pháp, tuy
    rằng a-tu-la cũng được xếp vào hàng chúng sanh của một cõi lành (thiện đạo) trong
    sáu cõi của dục giới. Tại thiên giới chúng thường giao tranh với các thiên tướng,
    thiên binh, để lật đổ ngôi vua trời đặng có thể trở thành Thích-đề-hoàn-nhân (Đế
    thích).
    A-tu-la cũng có bốn loại. Chúng có thiên phước mà không có thiên quyền,
    nghĩa là chúng ở trên thiên giới và được hưởng phước nơi đây, nhưng lại chẳng có
    quyền hành như chư thiên, đại loại như các cư dân sống bất hợp lệ ở nước Mỹ,
    được hưởng các tiện nghi của nước Mỹ, đó là phước báo của họ, nhưng họ không
    có quyền tham gia vào việc điều hành của quốc gia này.
    34

    Ca-lâu-la là giống chim đại bàng cánh vàng, có thể biến thành lớn, thành
    nhỏ, khi ẩn, khi hiện. Cánh chim trải rộng ra có thể tới ba trăm ba mươi do-tuần.
    Mỗi do-tuần dài chừng 40 miles (dặm), vậy ba trăm ba mươi do-tuần thì quý vị
    tưởng tượng nó xa tới đâu! Mỗi khi chim bằng vỗ cánh, nước biển bị quạt hết thì
    cung điện loài rồng đâu còn nữa! Rồng lớn, rồng nhỏ đều bị nuốt hết. Quý vị bảo:
    “Ghê gớm như vậy ư!”. Cũng chưa ghê gớm lắm đâu!
    Ca-lâu-la thần thông quảng đại, nên loài rồng rất sợ ca-lâu-la. May là chúng
    đã quy y Phật, sống hòa bình không còn tàn sát các giống khác. Ca-lâu-la cũng có
    bốn loại, muốn biết thêm chúng có những tên gì, thì hãy xem trong “Phẩm Tựa”
    của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ở đấy nói rất rõ ràng.
    Thần thông biến hóa của loại đại bàng cánh vàng này thật là không thể nghĩ
    bàn. Vỗ cánh một cái thì nước biển bị quét sạch, vỗ cánh hai cái là núi bị bạt đi lấp
    bằng đáy biển. Đó là thần thông dời núi lấp biển của ca-lâu-la.
    Khẩn-na-la thì như thế nào? Chúng cũng biết âm nhạc, còn có tên gọi là
    “nghi thần” bởi vì hình dáng giống người, ngoại trừ trên đầu có một cái sừng.
    Chúng chơi âm nhạc rất giỏi.
    Ma-hầu-la-già là một loại trăn lớn.
    Nói chung thiên long tám bộ đều xuất thân từ các hạng yêu ma quỷ quái, rồi
    về sau cải tà quy chánh, theo về Phật, trở thành một giới hộ pháp. Ngẫm lại, người
    bạc ác mà biết hồi đầu, đều biết làm các điều thiện, cho nên có câu nói: “Bể khổ
    không bờ, quay đầu là bến”. Phạm những tội thập ác, ngũ nghịch, nhưng biết sửa
    lỗi lầm thì vẫn có thể trở thành người tốt.
    35

    Tám bộ quỷ thần này tự cảm thấy nhiều lỗi lầm trong quá khứ, bởi đã phá
    hoại pháp Phật, làm tổn thương Phật giáo. Tới khi lương tâm nhận ra điều này,
    chúng đã phát nguyện làm hộ pháp.
    “Nhân phi nhân đẳng”: “Nhân” là chỉ những người phát tâm đến hộ trì
    Phật giáo. “Phi nhân” tức là không phải loài người, chỉ các loài chúng sanh khác
    cũng phát tâm hộ trì Tam Bảo.
    “Vô lượng đại chúng, cung kính vi nhiễu, nhi vi thuyết pháp”: Đông
    không kể xiết, cả thảy đều cung kính vây quanh nghe Phật thuyết pháp.
    Lúc đó đại chúng trong pháp hội rất đông, không thể kể gồm bao nhiêu
    người, tất cả cung kính vây kín xung quanh đức Bạc-già-phạm, và Ngài thuyết
    pháp cho các chúng sanh trong pháp hội cũng như các chúng sanh trong đời vị lai.
    Bấy giờ, con của đấng Pháp Vương là ngài Mạn-Thù-Thất-Lợi, nhờ oai
    thần của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, hở một vai áo, đầu gối bên hữu quỳ sát
    đất, hướng về Bạc-Già-Phạm, cúi mình chắp tay, bạch rằng: “Thế Tôn! Xin
    Ngài diễn thuyết tướng loại như thế, diễn bày những danh hiệu và những bổn
    nguyện rộng lớn cùng những công đức thù thắng của chư Phật, cho những
    người nghe đều hết nghiệp chướng, vì sự lợi lạc của các hữu tình khi Tượng
    Pháp chuyển”.
    Nhĩ thời Mạn Thù Thất Lợi Pháp vương tử, thừa Phật uy thần, tòng
    tòa nhi khởi, thiên đản nhất kiên, hữu tất trước địa, hướng Bạc Già Phạm,
    36

    cung khúc hợp chưởng, bạch ngôn: “Thế tôn! Duy nguyện diễn thuyết, như
    thị tướng loại chư Phật danh hiệu, cập bổn đại nguyện thù thắng công đức,
    linh chư văn giả, nghiệp chướng tiêu trừ, vi dục lợi lạc, Tượng pháp chuyển
    thời, chư hữu tình cố”.
    Ngài Mạn Thù Thất Lợi hay Văn Thù Sư Lợi, còn được gọi là Pháp Vương
    tử, nghĩa là con của đấng Pháp Vương. Phật là Pháp Vương, các Bồ tát là con của
    Pháp Vương, nhất là Ngài Văn Thù Sư Lợi lại là một vị Bồ tát Đẳng giác, sắp sửa
    thành Phật.
    “Lúc bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi, nhờ oai thần của chư Phật mười
    phương, từ chỗ ngồi đứng dậy, để lộ một bên vai”: Bên vai nào? Chính là vai
    bên phải. Để lộ bên vai phải là có ý nghĩa gì? Thứ nhất, theo phong tục của người
    Ấn, khi khí trời nóng nực, họ trật một bên vai áo để hơi nóng ở trong mình thoát ra.
    Thứ hai, hở vai bên phải là cách thức tỏ bày sự cung kính, cung kính bằng cả thân
    và tâm. Một bên là tùy thuận thế tục, một bên là cầu pháp xuất thế nên biểu thị sự
    cung kính. Chân nhưng không ly tục, tục chẳng ly chân, hai thứ chẳng chướng ngại
    nhau.
    Ngài “quỳ xuống”, đầu gối “sát đất, hướng về Bạc Già Phạm” hướng tới
    Phật, rồi cúi mình xuống “chắp tay”, biểu thị thân tâm đều cung kính, ba nghiệp
    thanh tịnh, và “thưa với Phật:”
    “Thế Tôn! Xin Ngài diễn thuyết tướng loại như thế (như thị tướng
    loại)”: ý nói rằng chúng con tất cả chỉ có một nguyện ước, là được nghe Phật nói
    cho biết những tướng như thế, những loại như thế. Tướng loại gì? Chính là “diễn
    bày những danh hiệu và những bổn nguyện rộng lớn cùng những công đức
    37

    thù thắng của chư Phật”. Bổn nguyện là chỉ các nguyện lớn trong đời quá khứ,
    trong thời gian Ngài hành đạo Bồ tát, công đức tích lũy như thế nào mà được thù
    thắng.
    “Cho những người nghe đều hết nghiệp chướng”: nghĩa là khiến cho
    những ai nghe đến nguyện lực, công đức vô lượng đó đều có thể giải trừ nghiệp
    chướng mà được thanh tịnh.
    “Vì sự lợi lạc của các hữu tình khi Tượng Pháp chuyển”: đây lại còn vì
    lợi ích của cả các loài hữu tình vào thời Tượng Pháp trong tương lai. Trong thời
    Tượng Pháp, mọi người chú trọng xây chùa, mà không chú trọng việc tu tập. Chùa
    miếu chẳng qua là một nơi có tượng của Phật, còn người tu chân chính thì rất là ít.
    Nói chúng sanh hữu tình là nói loài có khí, có huyết, còn như không có khí và
    huyết thì gọi là chúng sanh vô tình, tức các loài thảo mộc.
    Bấy giờ Thế Tôn tán thán đồng tử Mạn Thù Thất Lợi rằng: “Hay lắm!
    Hay lắm! Ông Mạn Thù Thất Lợi! Ông lấy lòng đại bi, khuyên mời Ta nói về
    danh hiệu và công đức bổn nguyện của chư Phật, để dẹp cho hết nghiệp
    chướng ràng buộc loài hữu tình, để cho lợi ích an lạc các loài hữu tình khi
    Tượng Pháp chuyển. Các ông hãy nghe kỹ, tư duy cho khéo, nay Ta sẽ nói
    cho các ông nghe”.
    Mạn Thù Thất Lợi bạch rằng: “Xin vâng! Xin Thế Tôn nói, chúng con
    rất thích nghe”.
    38

    Nhĩ thời Thế Tôn tán Mạn Thù Thất Lợi đồng tử ngôn: “Thiện tai!
    Thiện tai! Mạn Thù Thất Lợi! Nhữ dĩ đại bi, khuyến thỉnh ngã thuyết chư
    Phật danh hiệu, bổn nguyện công đức, vi bạt nghiệp chướng sở triền hữu
    tình, lợi ích an lạc, Tượng Pháp chuyển thời, chư hữu tình cố. Nhữ kim đế
    thính, cực thiện tư duy, đương vi nhữ thuyết”.
    Mạn Thù Thất Lợi ngôn: “Duy nhiên! Nguyện thuyết, ngã đẳng nhạo
    văn”.
    “Bấy giờ Thế Tôn tán thán đồng tử Mạn Thù Thất Lợi rằng”: Lúc bấy
    giờ, Phật khen ngợi đồng tử Văn Thù Sư Lợi. Gọi là “đồng tử” là vì Ngài nhập đạo
    lúc còn là trẻ thơ, sau đó tu hành đạo Bồ tát, để rồi thành bậc thượng thủ trong
    hàng Bồ tát. Phật khen như thế nào? “Thiện tai! Thiện tai! Mạn Thù Thất Lợi!”
    Đức Phật khen Ngài rằng: “Hay lắm! Hay lắm! Ông thực là một vị Bồ tát tốt!”
    Vì lẽ gì mà Phật đưa ra những lời khen tụng như vậy?
    Bởi vì “Ông lấy lòng đại bi, khuyên mời Ta nói về danh hiệu và công
    đức bổn nguyện của chư Phật”. Phật nói: “Ông đã vận dụng một tâm lượng đại
    bi rộng lớn, hướng tới hết thảy mọi chúng sanh, dầu họ có duyên hay không có
    duyên với Phật Pháp, và đã thỉnh Ta nói về danh hiệu của chư Phật cùng những
    công đức bổn nguyện của các Ngài”.
    “Để dẹp cho hết nghiệp chướng ràng buộc loài hữu tình, để cho lợi ích
    an lạc các loài hữu tình khi Tượng Pháp chuyển.”, nghĩa là nhằm dẹp bỏ các
    nghiệp chướng đương trói buộc các loài hữu tình, những nghiệp chướng đã đưa họ
    39

    vào ba đường ác, đầy họ vào bể khổ; vì sự lợi ích cứu độ các hữu tình trong thời
    Tượng pháp, mang cho họ sự tự do, an lạc, hết phiền não.
    Các ông hãy nghe kỹ, tư duy cho khéo, nay Ta sẽ nói cho các ông
    nghe”.
    Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: “Xin vâng! Chúng con ước mong Phật nói,
    chúng con rất thích nghe”.
    Phật bảo Ngài Mạn Thù Thất Lợi: “Về phía đông kia, cách đây nhiều
    Phật độ bằng mười lần số cát sông Căng-già, có một thế giới tên là Tịnh Lưu
    Ly, đức Phật cõi ấy danh hiệu là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng
    Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
    Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Bạc Già Phạm.
    Ông Mạn Thù Thất Lợi! Khi đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như
    Lai, còn đương hành đạo Bồ tát, Ngài đã phát ra mười hai nguyện lớn, khiến
    cho hữu tình cầu gì cũng được”.
    Phật cáo Mạn Thù Thất Lợi: “Đông phương khứ thử quá thập Căng
    Già sa đẳng Phật độ, hữu thế giới danh Tịnh Lưu Ly, Phật hiệu Dược Sư
    Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện
    Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư,
    Phật, Bạc Già Phạm.
    40

    Mạn Thù Thất Lợi! Bỉ Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, bổn
    hành Bồ tát đạo thời, phát thập nhị đại nguyện, linh chư hữu tình, sở cầu
    giai đắc”.
    Đức Phật nói với Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng ở phía đông, cách thế giới Ta-
    bà một số Phật độ bằng mười lần số cát sông Căng Già, có một thế giới gọi là
    Tịnh Lưu Ly. Căng Già (Ganga) tức là Hằng hà, Phật độ tức là Phật quốc, thế giới
    Tịnh Lưu Ly là ngụ ý một thế giới thanh tịnh trong suốt như lưu ly.
    Vị Phật ở nơi này có danh hiệu là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.
    Ngoài ra, giống như các đức Phật khác, Ngài cũng có mười danh hiệu, kể ra là:
    Như Lai; Ứng Chánh Đẳng Giác (có nghĩa là Chánh Đẳng Chánh Giác); Minh
    Hạnh Viên Mãn (tức sự tu hành và trí huệ của Ngài đạt tới chỗ viên mãn); Thiện
    Thệ Thế Gian Giải (trí huệ cao vời và hiểu biết hết mọi sự của thế gian); Vô
    Thượng Sĩ; Điều Ngự Trượng Phu; Thiên Nhân Sư (thầy của trời và người);
    Phật; Bạc Già Phạm (hay Thế Tôn).
    Theo lời Phật nói với Ngài Văn Thù Sư Lợi thì trong thời gian chưa thành
    Phật, tức thời kỳ nhân địa, đang tu đạo Bồ tát, đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly
    Quang Như Lai đã phát ra mười hai lời nguyện lớn. Phàm người tu hành đều
    cần phải phát nguyện, phát những lời nguyện chân chánh, phát xuất từ trong tâm,
    rồi theo đó mà thực hành.
    Đức Thế Tôn Dược Sư phát nguyện là để tất cả “các loài hữu tình cầu gì
    cũng được”. Ngày nay chúng ta tu hành tương đối dễ dàng hơn so với đức Thích
    Ca, vì Ngài đã phải trải qua ba kiếp lớn a-tăng-kỳ, nghĩa là một số vô lượng kiếp,
    tu hành mới thành được quả Phật. Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
    41

    cũng vậy. Còn như chúng ta hiện nay chỉ cần nương nhờ vào nguyện lực của các
    Ngài và di sản của các Ngài để lại cho chúng ta, ý nói đó là Phật Pháp chứa đựng
    trong Ba tạng mười hai phần kinh.
    Liệu chúng ta có thể nhận di sản này để thừa hưởng chăng? Điều đó còn
    phải hỏi lại, xét xem chúng ta có phải là Phật tử chân chánh hay không? Giả tỷ
    công đức của chúng ta chưa đủ, chúng ta chưa thực tâm muốn thành Phật tử chân
    chánh thì chẳng thể nào thừa hưởng được di sản của Phật, loại Pháp bảo vô thượng
    này.
    Nay Phật Lưu Ly Quang đã phát mười hai điều nguyện lớn, nên hết thảy mọi
    chúng sanh hữu tình có thể cầu thứ gì được thứ ấy. Quý vị căn cứ vào câu kinh “sở
    cầu giai đắc” (cầu gì cũng được), thì sẽ thấy bất luận điều gì mà quý vị mong cầu,
    quý vị sẽ được toại lòng xứng ý, quý vị sẽ chóng thành Phật. Các vị Phật trong quá
    khứ đã từng phát nguyện như vậy và, nhờ vào nguyện lực đó, chúng ta dụng công
    ít mà thành tựu nhiều, chúng ta đạt quả vị cao mà công sức không nhiều lắm. Do
    đó gặp được pháp này, chúng ta phải hết sức tinh tấn, sanh tâm hoan hỷ lớn và đạt
    được niềm pháp hỷ sung mãn.
    Nguyện lớn thứ nhất: Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo A-nậu-đa-la
    tam-miệu tam-bồ-đề thì tự thân ta sáng trưng rực rỡ, chiếu soi tất cả vô lượng
    vô số vô biên thế giới, có đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ
    tùy hình, trang nghiêm thân ta, khiến cho các loài hữu tình đều được như ta
    không khác.
    42

    Đệ nhất đại nguyện: Nguyện ngã lai thế, đắc A-nậu-đa-la tam-miệu
    tam-bồ-đề thời, tự thân quang minh, xí nhiên chiếu diệu, vô lượng vô số vô
    biên thế giới, dĩ tam thập nhị đại trượng phu tướng, bát thập tùy hình,
    trang nghiêm kỳ thân, linh nhất thiết hữu tình, như ngã vô dị.
    Chư Phật và chư Bồ tát trong quá khứ đã từng lập vô lượng vô biên nguyện
    lớn để lợi ích cho chúng sanh, tới khi các ngài thành Phật thì các nguyện lực đó
    đều thành hiện thực, do đó hết thảy chúng sanh trong mười phương đều được thâu
    nhiếp. Nguyện lực có thể ví như cục đá nam châm, còn chúng sanh ví như chất sắt.
    Nguyện lực lớn thì sức hút mạnh, khiến cho bao nhiêu chúng sanh trong khắp
    mười phương, dầu nghiệp chướng nặng nề đến chừng nào, cũng đều bị nguyện lực
    thâu hút.
    Do nguyện ý của Ngài là muốn giúp đỡ các chúng sanh, nên giữa hai đàng
    có nhân duyên đặc biệt với nhau. Bởi vậy, tuy chúng sanh bị vô minh che lấp,
    nhưng linh tri và linh giác của họ có thể cảm nhận được nhân duyên này.
    Lúc xưa, Dược Vương Bồ tát đã từng tự thiêu để cúng dường Phật, hy sinh
    thân mình như vậy, còn chúng ta ngày nay, đừng nói tự thiêu toàn thân, ngay đến
    thiêu một ngón tay cũng chưa dám thực hiện.
    “Nguyện lớn thứ nhất”: Dược sư Lưu Ly Quang có lời nguyện đầu tiên
    như thế nào?
    “Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề
    thì...”. Ngài nói Ngài hy vọng rằng trong đời tương lai, khi Ngài chứng được Vô
    thượng Chánh đẳng Chánh giác, tức là thành quả vị Phật, lúc đó:
    43

    “Tự thân ta sáng trưng rực rỡ, chiếu soi tất cả vô lượng vô số vô biên
    thế giới”, thân Ngài sẽ sáng chói, rực rỡ, chiếu soi tới tận vô lượng, vô số, vô biên
    thế giới,
    “Có đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ tùy hình, trang
    nghiêm thân ta”, có đủ cả ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp,
    trang nghiêm trên thân Ngài,
    “Khiến cho các loài hữu tình đều được như ta không khác” khiến cho
    hết thảy các loài hữu tình cũng được như ta, không khác, tức là thân hình cũng đủ
    các tướng trang nghiêm như ta và cũng sáng trưng chiếu khắp vô lượng, vô số, vô
    biên thế giới. Nguyện lực của ta là như vậy đó, ta không muốn chỉ riêng mình
    thành Phật, riêng mình sáng trưng, mà muốn rằng các chúng sanh được ta chiếu soi
    tới cũng sẽ có được thân thể giống như ta.
    Nhân vì Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang đã có lời phát nguyện đó, cho
    nên ngày nay khi nghe tới công đức bản nguyện này, chúng ta thấy được cơ hội có
    thể được một tấm thân sáng trưng như Ngài. Chúng ta không nên tự coi thường
    mình. Quý vị bảo rằng quý vị chẳng cần có thân thể sáng chói, sáng hay không
    sáng cũng chẳng có ích lợi gì. Vậy chớ thân hình không sáng thì có ích lợi hay
    sao?
    Nguyện lớn thứ hai: Nguyện đời sau này khi ta đắc đạo Bồ-đề, thân ta
    như ngọc lưu ly, trong ngoài sáng suốt, sạch không vết nhơ, sáng sủa rộng lớn,
    công đức cao vời, thân khéo an trú, lưới sáng trang nghiêm, sáng hơn cả mặt
    trời và mặt trăng. Chúng sanh ở nơi tối tăm, đều được sáng bừng, đâu cũng
    làm được, mọi sự như ý.
    44

    Đệ nhị đại nguyện: Nguyện ngã lai thế, đắc Bồ-đề thời, thân như lưu
    ly, nội ngoại minh triệt, tịnh vô hà uế, quang minh quảng đại, công đức
    nguy nguy, thân thiện an trú, diệm võng trang nghiêm, quá ư nhật nguyệt,
    u minh chúng sanh, tất mông khai hiểu, tùy ý sở thú, tác chư sự nghiệp.
    “Nguyện lớn thứ hai: guyện đời sau này khi ta đắc đạo Bồ-đề, thân ta
    như ngọc lưu ly” Nguyện lớn thứ hai là khi ta thành Phật, thân ta sẽ giống như lưu
    ly. “trong ngoài sáng suốt”, nghĩa là trong suốt từ trong ra ngoài; “sạch không
    vết nhơ”, bên trong không có vết, không có chỗ nhơ, bên ngoài cũng vậy, hoàn
    toàn trong sạch; “sáng sủa rộng lớn”, không thể nói là sáng rực tới độ nào, chỉ
    biết là sáng sủa rộng lớn; “công đức cao vời”, công đức thì cao vời; “thân khéo
    an trú (thân thiện an trú)”, thân thể của ta an ổn, không một bệnh tật gì; “lưới
    sáng trang nghiêm”, trang nghiêm bằng một thứ lưới sáng rực; “sáng hơn cả mặt
    trời và mặt trăng”, sáng hơn cả mặt trời, mặt trăng. “Chúng sanh ở nơi tối
    tăm”, các chúng sanh ở nơi tối tăm; “đều được sáng bừng”, đều được sáng rực
    như vậy; “đâu cũng làm được”, tùy ý muốn đến chỗ nào thì được chỗ ấy; “mọi sự
    như ý”, việc gì cũng thành tựu, mọi sự như ý nguyện.
    Chúng ta thấy quả là Phật hết sức thông cảm cho các chúng sanh, dầu một
    chi tiết nhỏ có thể lợi ích cho chúng sanh Phật cũng không bỏ sót. Không ai quan
    tâm và thân thiết với chúng ta bằng Phật.
    45

    Nguyện lớn thứ ba: Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo Bồ-đề, ta dùng
    vô lượng vô biên phương tiện trí tuệ, khiến cho chư hữu tình đều được mọi
    vật thọ dụng vô cùng, chẳng để chúng sanh có chỗ thiếu sót.
    Đệ tam đại nguyện: Nguyện ngã lai thế, đắc Bồ-đề thời, dĩ vô lượng
    vô biên trí huệ phương tiện, linh chư hữu tình, giai đắc vô tận sở thọ dụng
    vật, mạc linh chúng sanh hữu sở phạp thiểu.
    “Nguyện lớn thứ ba”: Đức Dược Sư phát lời nguyện lớn này khi Ngài còn
    là một Tỳ-kheo trong đời quá khứ. Thuở ấy, Ngài cũng giống như quý vị, như tôi
    hay các chúng sanh khác, chỉ không giống là ở chỗ Ngài tự phát ra lời nguyện lớn,
    nên chi Ngài đã sớm thành Phật. Còn như chúng ta, thì quả là ích kỷ, tự lợi, tham
    lam, truy cầu, tranh chấp nhau, không muốn lập nguyện lớn. Bởi vậy, cho đến nay
    chúng ta chưa thành Phật được.
    Ngài nói: “Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo Bồ-đề, ta dùng vô lượng
    vô biên phương tiện trí tuệ”: Ta nguyện đời sau, khi ta thành Phật, ta sẽ lấy
    những phương tiện trí huệ, vô số kể và vô bờ bến - đây là phương tiện trí huệ,
    chẳng phải là phương tiện ngu si. Phương tiện trí tuệ là thế nào? Là những pháp có
    lợi ích cho người, pháp đó chẳng nhất thiết lợi ích cho ta, cứ loại nào có lợi ích cho
    người thì mang ra để giáo hóa. Còn phương tiện ngu si thì sao? Đó là những loại
    không hợp với thiện pháp, trái với thiện pháp, mà hợp với ác pháp, tương ưng với
    ác pháp.
    46

    Tương ưng với ác pháp là như thế này: ta lấy thí dụ khi bị muỗi cắn, ta vô ý
    đập chết con muỗi, rồi tự bào chữa rằng đó là “phương tiện”, không đáng kể,
    không phạm sát giới, không phải là phá giới. Cũng như trường hợp mỗi khi thấy ai
    có thứ gì hay, động lòng tham, đến khi người ta không chú ý bèn lấy cắp mang đi,
    rồi lại tự bảo rằng: “Đây không phải là ăn cắp, phương tiện mà! Người khác dùng
    cũng như ta dùng, có gì đâu mà phân biệt?” Kỳ thực, lấy trộm của người là không
    hợp pháp, tương ưng với ác pháp, vậy mà còn bảo là “phương tiện”, không có gì là
    quan trọng!
    Về tà dâm chẳng hạn, ai cũng biết vợ chồng một khi đã kết hôn chính thức
    với nhau thì sự tư tình của chồng sẽ làm cho vợ không vui. Khi đã phạm điều tà
    dâm rồi lại còn cho rằng chuyện đó chẳng can hệ gì, chỉ là “phương tiện” thôi! Biết
    rõ thế nào là tà dâm nhưng vẫn cố bao che, viện hết lý lẽ để bênh vực mình, cứ một
    mực nghĩ rằng: “Có gì là can hệ lắm đâu? Ai mà biết được!”
    Quý vị thử nghĩ coi! Nói dối, uống rượu cũng lý luận tương tự như vậy đó!
    - “Ồ! Uống chút xíu rượu, uống chơi cho vui thôi! Có gì là quan trọng đâu,
    tôi đâu có say!”
    - “Nói dối như vậy thì có gì đâu mà sợ! Có chết ai đâu mà nghiêm trọng quá
    vậy!”
    Đây chỉ là cách tự giành lẽ phải cho mình, đó gọi là những phương tiện ác,
    phương tiện ngu si. Trở về kinh văn, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai nói Ngài
    dùng phương tiện trí huệ.
    “Khiến cho chư hữu tình đều được mọi vật thọ dụng vô cùng,”, nghĩa là
    khiến cho hết thảy các loài hữu tình đều được mọi vật thọ dụng, bất cứ thứ gì, cần
    47

    gì được nấy. Chúng ta thấy Phật có tâm bố thí rất mực rộng lớn, Ngài dùng nguyện
    lực này để thỏa mãn các ước ao của chúng sanh, những gì chúng sanh mong cầu,
    khiến cho “chẳng để chúng sanh có chỗ thiếu sót”, không để cho chúng sanh
    thiếu thốn một thứ gì, cái gì cũng đầy đủ hết, khiến ai nấy đều xứng ý thỏa lòng,
    mọi sự tốt đẹp.
    Nếu quý vị muốn mọi mong cầu của mình được thành tựu thì hãy mau mau
    niệm danh hiệu của Ngài hay tụng Kinh Công Đức Bổn Nguyện Của Dược Sư Lưu
    Ly Quang Như Lai, quý vị sẽ được toại nguyện.
    Có người nói rằng: “Tôi biết rồi! Tôi niệm danh hiệu Dược Sư Lưu Ly
    Quang Như Lai rồi tôi đến sòng bạc tại Reno. Tôi mà ăn được một triệu đồng thì
    về sau tôi không đánh bạc nữa. Tôi cầu như vậy”. Nếu quý vị thực lòng thì rất có
    thể quý vị sẽ được toại nguyện. Nhưng nếu quý vị nửa tin, nửa ngờ, thì quý vị sẽ
    không thể dối gạt được Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.
    Nguyện lớn thứ tư: Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo Bồ-đề, nếu có
    những hữu tình tu hành tà đạo thì ta sẽ khiến họ an trú trong đạo Bồ-đề, còn
    nếu tu hành hạnh Thanh văn, Độc giác thì đều an lập nơi pháp Đại thừa.
    Đệ tứ đại nguyện: Nguyện ngã lai thế, đắc Bồ-đề thời, nhược chư
    hữu tình, hành tà đạo giả, tất linh an trú Bồ-đề đạo trung, nhược hành
    Thanh văn, Độc giác thừa giả, giai dĩ Đại thừa nhi an lập chi.
    48

    “Nguyện lớn thứ tư”: Trong điều nguyện thứ tư này, Ngài nguyện cho hết
    thảy các loài hữu tình đều bỏ tà quy chánh, bỏ mê về giác, lìa khổ hưởng vui;
    nguyện cho ai tu Tiểu thừa đều hướng về Đại thừa, phát tâm Bồ-đề chân chánh, để
    tương lai thành tựu quả Phật.
    Ngài nguyện rằng: “Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo Bồ-đề”, tức là khi
    phát nguyện thì Ngài chưa thành Phật; Ngài nói về đời sau này, khi Ngài chứng
    quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác. “Nếu có những hữu tình” đây là bao quát hết
    thảy các chúng sanh. Nói chung, trong số các chúng sanh, kẻ có chánh tri chánh
    kiến thì rất ít, mà kẻ có tà tri tà kiến thì lại rất nhiều: nói đến chánh pháp, ít người
    thông hiểu, chịu tiếp thu và thực hành. Ngược lại, nói tới tà pháp, loại bàng môn tả
    đạo, hoặc thứ gì có vẻ huyền bí, có vẻ dễ dàng thì tức khắc người ta đổ xô tới để
    theo. Bởi vậy mới nói: “tu hành tà đạo”, tức ám chỉ người tu pháp ngoại đạo,
    không cầu chánh pháp. Nói đến các loại như bùa ếm, đầu độc, cầu cơ, đồng bóng
    v.v.. thì người ta tin ngay, còn giảng kinh, nói pháp thì họ chẳng thấy hay ho gì.
    Nếu bảo họ rằng: “Anh sẽ gặp tai nạn như thế này. Muốn tránh được, anh phải làm
    việc này, việc kia”, nói vậy là họ tin ngay, còn giảng cho họ Phật Pháp thì chẳng ai
    muốn nghe.
    “Thì ta sẽ khiến họ an trú trong đạo Bồ-đề”. Tuy họ tu theo tà đạo, nhưng
    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai cũng cố gắng dùng các pháp phương tiện, khiến
    họ bỏ đường mê để quay về lối giác, bỏ tà quy chánh, dứt đường sanh tử, phát tâm
    Bồ-đề rộng lớn, an trú trong đạo Bồ-đề. An trú ở đây có nghĩa là bỏ tà quy chánh,
    không còn trở lại đường tà để an ổn trú nơi đường giác. Đường giác là đường trí
    huệ. Quý vị có trí huệ, quý vị sẽ đi con đường chánh pháp; quý vị không có trí huệ
    - ngu si - quý vị sẽ đi vào con đường nhỏ, con đường của loại bàng môn, ngoại
    đạo. Nay, kẻ bàng môn ngoại đạo được Phật Dược Sư Lưu Ly Quang dùng phương
    tiện để quay về đường chân chánh của Phật giáo.
    49

    “Còn nếu tu hành hạnh Thanh văn, Độc giác”. Thanh văn là những pháp
    Tứ đế, gồm các món Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Còn Độc giác là chỉ về pháp tu Thập nhị
    nhân duyên; pháp đó tóm tắt như sau: vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức
    duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ
    duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử. Hết thẩy
    các chúng sanh đều do mười hai nhân duyên này mà sanh, do mười hai nhân duyên
    này mà diệt; như trong câu: “các hành là vô thường, đó là pháp sanh diệt; sanh diệt
    diệt rồi, tịch diệt là vui” (chư hành vô thường, thị sanh diệt pháp; sanh diệt diệt dĩ,
    tịch diệt vi lạc). Nếu chứng ngộ được pháp tu Mười hai nhân duyên, tức bỏ mê
    quay về giác, rồi sau đó bỏ tiểu mà hướng tới đại. Bỏ tiểu hướng tới đại chính là tu
    pháp môn Lục độ.
    Thập nhị nhân duyên:
    Do vô minh mà chúng ta sanh ra đời, tức là từ cái chỗ mê mờ mà sanh ra. Vô
    minh là gốc của phiền não, gốc của sanh tử, cũng là gốc của mọi sự phiền hà, hết
    thảy mọi vấn đề rắc rối. Tu là tu cái gì? Tu chính là phá vô minh. Vô minh làm cho
    quý vị mờ tối, không hiểu rõ việc mình làm. Hành động trong sự hồ đồ; hành động
    mà không hiểu, không hiểu mà vẫn hành động, đó gọi là vô minh. Vô minh chi
    phối hành động của quý vị, khiến quý vị thành điên đảo, mơ hồ, sống trong mơ,
    chết trong mộng, tham đắm các thứ như tiền của, sắc dục, danh vọng, ăn uống và
    ngủ nghỉ (tài, sắc, danh, thực, thùy).
    Khi đã có vô minh thì nó thể hiện bằng hành vi. Hành vi gì? Tức là làm cái
    điều mà không hiểu rõ, chỉ hiểu một chút mà không hiểu tất cả ngành ngọn. Đã có
    hành vi thì sẽ có dấu vết, sẽ có hình tướng lưu lại. Có hành động, tức có sự tướng,
    có sự tướng tất có cái tên.
    50

    Khi đương hành động thì tâm chưa khởi lên sự phân biệt. Hành động xong
    rồi, mới có thức, tức là tâm phân biệt, gọi là cái biết, cái tri thức. Đã biết phân biệt
    rồi thì sẽ có ngay bốn thứ tướng: nhân tướng, ngã tướng, chúng sanh tướng, thọ giả
    tướng. Thức này là ý thức và tác dụng của nó mang lại danh và sắc, tức là nói tới
    vật thể. Vật thể thành hình hài gồm có lục nhập (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý).
    Bằng lục nhập, hình hài tiếp xúc với ngoại giới; lúc đó xúc sẽ mang lại thọ
    (sự cảm thọ); nhờ có tâm phân biệt mà xúc đưa tới cảm thọ dễ chịu hay khó chịu,
    khoái cảm hay không khoái cảm, từ đó tâm ái, cái tham ái xuất hiện. Bởi vậy mới
    nói là: “xúc duyên thọ, thọ duyên ái”, một tiến trình đi theo thứ tự đó.
    Khi đã có ái, tức có ngay hữu, ý muốn chấp hữu, hướng về tự kỷ, cái ta, do
    đó mà dẫn tới đời sau (sinh); rồi, theo trình tự, tiến tới già và chết (lão tử).
    Mười hai nhân duyên nói trên đã kể ra đủ hết tiến trình của hết thảy mọi
    chúng sanh trong sự luân hồi sanh tử.
    Độc giác là những người ngộ lý nhân duyên này. Họ thấy các nhân duyên
    nối kết với nhau thành một vòng, không có đầu mối, không có chỗ đứt đoạn, do đó
    họ tu để ra khỏi vòng sanh tử, thoát cảnh luân hồi.
    Thanh Văn và Duyên giác, tức Độc giác là hai thừa trong Phật giáo, gọi
    chung là Nhị thừa.
    Hai thừa này thực ra chưa phải là chỗ cùng tột (cứu cánh). Ai tu và chứng
    được hàng nhị thừa thì giải quyết xong vấn đề “phân đoạn sanh tử”, nhưng vẫn
    chưa dứt được “biến dịch sanh tử”. Bởi vậy trong kinh, đức Như Lai Dược Sư Lưu
    Ly Quang đã từng phát nguyện câu “thì đều an lập nơi pháp Đại thừa”, nghĩa là
    ( còn tiếp )
    Last edited by chi2730; 07-08-2012 at 10:30 PM.
    Cầu sanh Tây Phương!.

  2. #2

    Mặc định

    51

    Ngài nguyện độ cho họ từ Tiểu thừa mà tiến tu Đại thừa, đặng họ phát tâm tu thành
    Phật đạo, tới bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
    Nguyện lớn thứ năm: Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo Bồ-đề, nếu có
    vô lượng vô biên hữu tình, tu hành phạm hạnh trong pháp của ta, thì hết thẩy
    đều được giới chẳng thiếu, đủ giới tam tụ; nếu có ai đã trót phạm giới, nghe
    tên ta rồi, lại trở về thanh tịnh, chẳng vào đường ác.
    Đệ ngũ đại nguyện: Nguyện ngã lai thế, đắc Bồ-đề thời, nhược hữu
    vô lượng vô biên hữu tình, ư ngã pháp trung, tu hành phạm hạnh, nhất
    thiết giai linh đắc bất khuyết giới, cụ tam tụ giới, thiết hữu hủy phạm, văn
    ngã danh dĩ, hoàn đắc thanh tịnh, bất đọa ác thú.
    Chúng ta ngày nay sở dĩ không bị đọa vào ba đường ác là nhờ danh hiệu của
    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai đã cứu chúng ta. Giả tỷ tên của Ngài không có
    trên thế gian này thì e rằng tất cả mọi người đã bị đọa vào địa ngục, làm loài quỷ
    đói, làm súc sanh, khó mà được làm thân người. Thực vậy, với nguyện lực của
    Ngài thì dầu quý vị có phạm mười điều ác, ăn mặn phá giới, không làm điều lành,
    song nếu được nghe đến hồng danh vạn đức hạnh của Dược Sư Lưu Ly Quang
    Như Lai, thì quý vị sẽ được tiêu trừ hết tội nghiệp, lìa khổ, được vui, thoát vòng
    sanh tử.
    52

    Nguyên do là ngay từ thuở Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai gieo nhân tu
    đạo Bồ tát, Ngài đã sớm biết đa số chúng ta ngày nay không giữ giới luật, ở trong
    cảnh thiện ác hỗn tạp, chẳng rõ ràng, ví như nước với đất lẫn lộn, thành một chất
    bùn nhơ. Nước là trí huệ, bùn là vô minh. Giữ giới luật là trở về nguồn cội, là khôi
    phục lại trí huệ sẵn có của mình; không giữ giới luật tức là làm đục nước trí huệ
    bằng chất bùn vô minh vậy.
    Tuy nhiên, giữ được giới luật chẳng phải là điều dễ dàng. Dược Sư Lưu Ly
    Quang Như Lai vốn biết trước tập khí và lỗi lầm của các chúng sanh là như vậy,
    nên trong “Nguyện lớn thứ năm”, Ngài đã nói:
    “Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo Bồ-đề”, đến đời sau này, khi ta thành
    Phật, “nếu có vô lượng vô biên hữu tình”, tức là nói hết tất cả - tôi và quý vị
    cũng đều nằm trong cái vô lượng vô biên đó; “tu hành phạm hạnh trong pháp
    của ta”, trong pháp của ta, tức là Phật pháp, pháp chung của chư Phật, tu hành
    phạm hạnh, tức là tu hạnh thanh tịnh, hay nói khác là nghiêm trì giới luật; “thì hết
    thẩy đều được giới chẳng thiếu,”, đối với bất cứ ai tu Phật pháp thì nguyện lực
    của ta là khiến cho tất cả giữ được giới hạnh đầy đủ, viên mãn giống như vầng mặt
    trăng không bị khuyết hãm; “đủ giới tam tụ”, đầy đủ giới tam tụ. Tam tụ giới gồm
    các giới như sau:
    1. Trì nhiếp chúng sanh giới.
    2. Nhiếp thiện pháp giới.
    3. Nhiếp luật nghi giới thanh tịnh.
    Giữ được mấy giới này quả là một sự khó khăn, cho nên nguyện của Ngài là
    “nếu có ai đã trót phạm giới, nghe tên ta rồi, lại trở về thanh tịnh, chẳng vào
    53

    đường ác.”, nếu phạm giới chẳng hạn, sau khi nghe đến tên ta, liền được thanh
    tịnh trở lại, không bị đọa vào đường ác như địa ngục, ngạ quỷ hay súc sanh.
    Tại sao gọi là giới tam tụ (Tam tụ tịnh giới)? Tụ nghĩa là tụ tập và chữ “tụ”
    nói lên ý nghĩa rằng các giới này không cùng một loại. Thí dụ nói về nhiếp luật
    nghi tức là nói tới ba trăm lễ nghi, ba ngàn oai nghi. Chữ “nhiếp” có nghĩa là bao
    quát, gồm thâu hết thảy luật nghi và oai nghi. Thí dụ nói nhiếp thiện pháp, tức nói
    bao gồm hết thảy các thiện pháp, kể ra thì là vô lượng vô biên, chẳng phải chỉ một
    loại thiện pháp, như nói trong câu; “không làm các điều ác, luôn làm các điều
    lành”. Còn nhiếp chúng sanh cũng là nghĩa bao gồm hết thảy các chúng sanh, và
    theo giới này là độ các chúng sanh thành Phật, nhiếp thâu hết tất cả không trừ một
    ai.
    Giới tam tụ quả là nhiều, không dễ gì mà giữ được trọn vẹn. Vậy phải làm
    sao nếu trót lỡ phạm giới? Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai đã nguyện rằng nếu
    người nào phạm giới luật mà nghe đến danh hiệu của Ngài thì thanh tịnh sẽ trở lại
    và người đó sẽ khôi phục lại tình trạng như lúc chưa phạm giới, không còn lo bị
    đọa vào đường ác.
    Quý vị nghĩ xem. Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai đối với mỗi người
    trong chúng ta quan tâm đến như vậy, chu đáo đến như vậy, chúng ta không lẽ
    không đáp ứng lòng từ bi của Ngài, để cố gắng tu hành, giữ gìn giới luật? Chúng ta
    có lý nào lại bảo rằng: “Đâu cần giữ giới làm gì, ta cứ việc phá giới! Đằng nào đức
    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai cũng đã phát nguyện cứu giúp nếu chúng ta
    phạm giới mà!” Nghĩ như vậy là sai lầm. Chúng ta không thể cố ý phá giới rồi ỷ
    vào Ngài như vậy.
    54

    Nguyện lớn thứ sáu: Nguyện đời sau này khi ta đắc đạo vô thượng Bồ-
    đề, nếu những hữu tình, mang thân hèn kém, mọi căn chẳng đủ, xấu xa ngu
    ngốc, mù điếc ngọng câm, què quặt lưng còng, phong hủi điên cuồng, bao
    nhiêu bệnh khổ, nghe đến tên ta, hết thảy đều được đoan chánh sáng suốt, mọi
    căn hoàn toàn, không mọi tật khổ.
    Đệ lục đại nguyện: Nguyện ngã lai thế, đắc Bồ-đề thời, nhược chư
    hữu tình, kỳ thân hạ liệt, chư căn bất cụ, xú lậu ngoan ngu, manh lung ấm
    á, luyến tích bối lũ, bạch lại điên cuồng, chủng chủng bệnh khổ, văn ngã
    danh dĩ nhất thiết giai đắc đoan chính hiệt tuệ, chư căn hoàn cụ, vô chư
    tật khổ.
    Bộ kinh này nói về những lời nguyện của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai,
    những lời nguyện trong đời quá khứ, trong thời kỳ tạo nhân, hay gọi là nhân địa,
    lúc đó Ngài đã nguyện những gì? Đến nay, những nhân đó kết thành quả gì? Hiệu
    lực của chúng ra sao?
    Chúng ta phát nguyện cũng vậy, đó là gieo nhân, tới khi kết thành quả thì
    nhân gì tạo ra quả ấy, nhân lành thành quả lành, nhân ác sẽ thành quả ác.
    Thế nào gọi là nguyện lành? Đó là những lời nguyện chẳng nhằm lợi ích cho
    mình. Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai nguyện cho hết thảy mọi chúng sanh.
    Chẳng khi nào Phật lại phát nguyện đại khái như: “Ta nguyện khi nào thành Phật,
    ta sẽ hưởng phước như thế này, khoái lạc như thế kia” và quên hết các chúng sanh.
    Phật không bao giờ làm như vậy. Niềm vui nhất Phật chứng được, Phật không
    muốn hưởng một mình mà muốn chia sẻ cùng tất cả chúng sanh. Phật phát nguyện
    thành tựu thiện nghiệp như vậy, đời đời kiếp kiếp thực hành đạo Bồ tát, lợi mình
    lợi người, giác ngộ cho mình rồi giác ngộ người, độ mình độ người, tóm lại là
    55

    những lời nguyện đại Bồ-đề. Các Bồ tát phát thiện nguyện chính là những lời
    nguyện đó, nguyện thành tựu thiện nghiệp, nguyện thành đạt thiện quả và thiện quả
    chính là thành Phật. Thành Phật chẳng phải là “duy ngã độc tôn”, ngự trên đỉnh cao
    chót vót; thành Phật chỉ là có trí huệ vượt trên chúng sanh, bỏ mê quay về giác
    ngộ, lìa hết mọi thứ vọng tưởng điên đảo.
    Còn chúng sanh như chúng ta thì mỗi hành động là một lần tạo nghiệp, lại là
    nghiệp xấu chẳng phải nghiệp thiện. Thản hoặc có một vài niệm tốt, nhưng mức độ
    của chúng chẳng lấn át được niệm xấu, thành thử nghiệp của chúng ta là một thứ
    hỗn độn, thiện ác lẫn lộn với nhau. Nếu có thể dùng máy điện toán mà liệt kê ra thì
    ác nhiều hơn thiện. Vậy cho nên đời này nối đời kia, mỗi đời một kém đi, thêm
    một sự trôi dạt, sự tình gặp gỡ chẳng được xứng ý. Bởi đâu ra nông nỗi đó? Bởi
    chẳng tạo nghiệp thanh tịnh, chẳng phát thiện nguyện như Phật, chẳng tu thiện
    nghiệp để tương lai kết thành thiện quả. Chúng ta cũng muốn phát nguyện mà ngặt
    vì lòng vị kỷ tác quái, nên chỉ lo cho mình, không lo cho người khác. Có thể có
    một số nào đó lo việc chung, nhưng kỳ thực họ mua chút hư danh, chỉ mong cầu
    người khác biết đến tên mình mà thôi, do đó mà họ tạo ra loại nghiệp hỗn tạp.
    Nghiệp xấu nặng hơn nghiệp tốt nên chiêu cảm thành những quả xấu. Vì những lẽ
    đó, chúng ta sanh ra đời, được hưởng chút khoái lạc, nhưng cũng chịu thống khổ,
    và tựu chung thì thống khổ nhiều hơn khoái lạc.
    Nói cho đúng, đây chẳng phải là thứ khoái lạc chân chánh. Phải là Thường
    Lạc Ngã Tịnh phát xuất từ trong tự tánh mới gọi là chân chánh. Còn như cái lạc
    của chúng ta nó không kéo dài, nó không có tính cách thường; cái ngã của chúng ta
    cũng bất thường, cái tịnh cũng bất thường. Thường Lạc Ngã Tịnh là thứ khoái lạc
    của sự thanh tịnh, chẳng phải khoái lạc của kẻ khiêu vũ, của người uống rượu, hay
    của người đi coi hát, một thứ khoái lạc của kẻ bội giác hiệp trần - quay lưng với
    giác ngộ và hướng về trần tục - tóm lại là điên đảo.
    56

    Có người nói: “Pháp sư nói như vậy thì trong thế gian này không có khoái
    lạc ư? ” Quý vị hãy nghĩ cho kỹ đi! Thế nào là khoái lạc thực sự? Hãy nói về cái ăn
    và mặc. Ai cũng muốn mặc đồ đẹp, một bộ đồ đắt tiền, quý giá, kỳ thực nó là cái
    gì? Nó là cái gông cái cùm, khiến cho ta đi đứng không tự nhiên, ngồi nằm không
    tự nhiên. Vì lý do gì vậy? Bởi lúc nào ta cũng phải lo chăm sóc và giữ gìn cho bộ
    đồ đẹp đó. Con người là vạn vật chi linh, là hạng siêu việt trong muôn loài mà lại
    làm kẻ nô lệ cho đồ áo quần chăng?
    Nói về ăn thì ăn thứ này ngon, ăn thêm thứ kia ngon, ăn cho đến bội thực,
    nôn mửa! Còn ở thì như người ta nói: “Nhà lớn ngàn gian, ngủ chẳng quá tám
    thước; ruộng tốt vạn thửa, ăn chẳng quá ba bữa một ngày”. Vậy thì cuộc đời với ăn
    mặc và trú ngụ có gì là khẩn trương lắm đâu để chúng ta phải bận bịu suốt ngày,
    không còn thời gian ngơi nghỉ? Vô thường chợt tới, chết tới rồi, lại bảo: “Công
    việc của tôi chưa làm xong, chưa lo hết việc! Xin Diêm Vương hoãn cho tôi một
    kỳ, để thủng thẳng rồi tôi sẽ đi, có được không? ” Quỷ vô thường sẽ lắc đầu bảo:
    “Không được đâu! Ta chẳng thể để cho ngươi sống thêm giây phút nào nữa.” Thế
    là hết đời! Quý vị thử coi! Kết cục còn có gì là hay nữa đâu? Chẳng qua vì chúng
    ta không nhận ra mọi sự việc cho rõ ràng, cho nên mới chạy theo cái hư vọng, cái
    danh cái lợi đều hư vọng, cho nên trong tâm lúc nào cũng đầy rẫy phiền não. Đó là
    điều mà chúng ta khác với Phật.
    Đối với Phật, mọi sự tình đều được nhận thức rõ ràng, Phật nhìn ra hết rồi
    buông bỏ hết nên luôn luôn được tự tại. Vừa nhận ra xong là Phật phát nguyện,
    những nguyện đó nhằm lợi ích cho các chúng sanh, nhằm thực hành đạo Bồ tát.
    Bởi vậy, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai mới phát các nguyện lớn. Nguyện
    lớn thứ sáu của Ngài - “đệ lục đại nguyện” - là “Nguyện đời sau này”, nguyện
    rằng trong tương lai, tới đời sau này. . . Một số người không tin có đời sau. Nếu
    thực tế không có đời sau thì quý vị cứ việc đi giết người, đi đốt nhà người ta, tha
    hồ muốn làm gì thì làm. Kỳ thực, bởi có kiếp sau và mọi việc đều phát sinh hậu
    57

    quả, nên quý vị không thể làm bậy được mà phải hành động cho hợp lẽ, chớ không
    thể bạ cái gì làm cái đó, không kể gì đến kết quả về sau. Quý vị hỏi rằng: “Sao tôi
    chẳng hiết gì về đời quá khứ của tôi và kiếp sau của tôi? ” Quý vị không biết ư?
    Vậy chớ khi quý vị ngủ, quý vị có biết gì về thời gian lúc quý vị thức không? Quý
    vị không biết. Bởi vậy trong đời này quý vị đâu có nhớ gì về những sự tình của
    kiếp xưa.
    Phật dạy rằng:
    Yếu tri tiền thế nhân
    Kim sinh thọ giả thị
    Yếu tri lai thế quả
    Kim sinh tố giả thị
    Nghĩa là muốn biết nhân của kiếp trước ra sao, hãy xem kiếp này ta lãnh thọ
    cảnh ngộ nào, vì cái mà ta đương lãnh thọ chính là cái quả, do nhân kiếp trước đã
    gieo trồng. Muốn biết kiếp sau ra sao, hãy xem những điều ta làm trong kiếp này
    như thế nào, vì gieo nhân trong kiếp này thì sẽ có kết quả trong kiếp sau. Đó là luật
    nhất định, không sai trái.
    Phật biết rõ đạo lý này nên phát nguyện rằng đời sau khi Ngài “khi đắc đạo
    vô thượng Bồ-đề”, tức là chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác,
    nghĩa là thành Phật; “nếu những hữu tình”, nếu những chúng sanh, bao quát hết
    cả những loài có khí huyết; “mang thân hèn kém”, thân thể hèn kém, ý nói những
    ai có hình dung xấu xí, khó coi.
    Có những người, trông diện mạo không bình thường, mắt, tai, mũi, miệng
    chẳng hạn, không mọc đúng chỗ, trông thật kỳ cục, xấu xí. Quý vị bảo: “Tôi chưa
    hề thấy người nào như vậy”. Quý vị chưa thấy lần nào ư? Mà quý vị cũng chẳng
    nên bắt chước họ làm gì. Tóm lại, có kẻ mang tướng mạo của loài chó, có kẻ tướng
    58

    mèo, tướng chuột, tướng gấu, tướng ngựa, tướng con nai, đủ cả như vậy đó! Nhiều
    lắm, trông thấy mà ghê! Đó là các tướng hạ liệt, hèn kém.
    Lại chẳng phải chỉ có vậy, còn những loại “mọi căn chẳng đủ”, các căn
    không đầy đủ, hoặc giả chỉ có một mắt, chỉ một tai, mũi có một lỗ; hoặc giả tay
    chân không cử động bình thường; hoặc giả mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không điều
    hợp được với nhau, cũng gọi là các căn không đủ; hoặc giả chúng có đủ nhưng coi
    như không có vậy.
    Sợ chúng ta không hiểu hết ý của câu kinh “mang thân hèn kém, mọi căn
    chẳng đủ” nên đoạn kế tiếp còn nói rõ hơn nữa; “xấu xa ngu ngốc”. Xấu tức là
    không ưa nhìn, khó coi và ngu ngốc là đần độn, nói gì cũng không hiểu. Quý vị
    bảo cho biết hai với hai là bốn thì kẻ ngu trả lời rằng một với hai là ba, sao có thể
    thành bốn được. Tóm lại là hết sức ngu si.
    “Mù điếc ngọng câm” (Manh lung ấm á). Manh là mù, lung là điếc, có tai
    có mắt mà không nghe không thấy. Ấm là ngọng, khi nói thì thanh âm như mắc lại
    trong cổ họng, nghe như tiếng muỗi kêu, nói chẳng ai hiểu gì; còn như á là câm
    hoàn toàn. Những người mù, điếc, ngọng, câm quả là khổ không biết chừng nào!
    Quả báo ra sao mà đến nỗi như vậy? Cũng tại trong kiếp trước đã tỏ ra hoài nghi
    khi nghe giảng Phật Pháp, không chịu lắng tai nghe nên nay thành điếc tai. Gặp
    Phật Pháp mà không nhận ra nên thành mù. Bảo học Phật Pháp mà không nghe lời
    nên thành ngọng, nặng hơn nữa là biến thành câm, các bệnh trên đều do quả báo.
    “Què quặt lưng còng” (Luyến tích bối lũ), “luyến” là tay bị quắp lại, không
    duỗi thẳng ra được, các ngón tay thì nắm lại cũng không thể xoè ra; “tích” là bị tê
    liệt; “bối lũ” là còng lưng.
    “Phong hủi điên cuồng” (Bạch lại điên cuồng), “bạch lại” là khi có những
    nám trắng hay đỏ, giống như những miếng vá trên mặt; “điên cuồng” thì đó là bệnh
    của những đứa trẻ bị ngược đãi, bệnh của kẻ tự cắn xé chính mình, hành hạ mình,
    chửi rủa mình. Nguyên do bởi trước họ phỉ báng kinh Hoa Nghiêm, phỉ báng kinh
    59

    Đại thừa, phỉ báng Phật Pháp. Tóm lại “bao nhiêu bệnh khổ” những loại bệnh
    khổ như vậy.
    “Nghe đến tên ta” sau khi nghe tên ta “hết thảy đều được đoan chánh”
    thì tất cả đều được trở lại đoan chánh, hình dung không còn xấu xí, khó coi nữa;
    “sáng suốt” tức là thông minh, có trí tuệ; “mọi căn hoàn toàn” các thứ mắt, tai,
    mũi, lưỡi, thân, ý, cả sáu căn đều đầy đủ và thông lợi.
    “Không mọi tật khổ”, mọi tật bệnh, mọi sự thống khổ đều được giải trừ,
    khỏi cần phải dùng thuốc thang, khỏi cần y sĩ cứu chữa. Quý vị coi, như vậy có
    phải là thần diệu không? Mà chỉ cần nghe đến danh hiệu của Dược Sư Lưu Ly
    Quang Như Lai là tất cả các tật bệnh, các thống khổ đều tiêu tan. Phật Dược Sư đối
    với nhân loại quý giá như vậy đó! Mỗi hành động, cử chỉ của Ngài đều hướng về
    lợi ích cho các chúng sanh, không hề có điều gì bất lợi cho mọi người, không muốn
    chúng sanh phải gặp quả báo, những điều Ngài phát nguyện chỉ cốt cho hết thảy
    được vừa lòng, được vui sướng, ý của Ngài là như vậy.
    Nguyện lớn thứ bảy: Nguyện đời sau này khi ta đắc đạo vô thượng Bồ-
    đề, nếu những hữu tình, bị bệnh bức thiết, không ai cứu giúp, không chỗ
    nương thân, không thầy không thuốc, không người thân thích, không cửa
    không nhà, bần cùng khốn khổ, một khi tên ta, nghe lọt vào tai, mọi bệnh đều
    hết, thân tâm yên vui, gia quyến tiền của, thảy đều phong túc, cho đến chứng
    được vô thượng Bồ-đề.
    Đệ thất đại nguyện: Nguyện ngã lai thế, đắc Bồ-đề thời, nhược chư
    hữu tình, chúng bệnh bức thiết, vô cứu vô quy, vô y vô dược, vô thân vô
    gia, bần cùng đa khổ, ngã chi danh hiệu, nhất kinh kỳ nhĩ, chúng bệnh tất
    60

    trừ, thân tâm an lạc, gia thuộc tư cụ, tất giai phong túc, nãi chí chứng đắc
    vô thượng Bồ-đề.
    Nhiều vị đến đây nghe kinh vẫn chưa biết đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang
    là ai. Tiện đây, tôi xin giảng thêm một chút. Ngài chính là một đại y vương. Bởi là
    vua trong giới thầy thuốc, Ngài chữa bệnh chẳng cần dùng thuốc. Hết thảy các
    chúng sanh chỉ cần nghe đến danh hiệu của Ngài thì mọi bệnh khổ đều tiêu tan.
    Các y sĩ thường hay nói tới vọng, văn, vấn, thiết, trong nghề chuẩn bệnh.
    Vọng là xem bệnh bằng cách ngắm nhìn; văn là nghe tiếng nói; vấn là hỏi xem
    bệnh tình có những triệu chứng nào, đau đầu chăng? đau chân? đau răng? Mắt, mũi
    có đau không? Hỏi những thứ đó; thiết tức là coi mạch.
    Cách chữa bệnh cũng có mức độ như thần, thánh, công, xảo. Thần thì siêu
    việt, chẳng thể nghĩ bàn; thánh kém hơn một chút, nhưng cũng chẳng thể nói bàn;
    công là nói tới dùng công phu, còn xảo là sự khéo léo. Ngắm nhìn mà biết bệnh
    (vọng) thì quả là thần; nghe tiếng (văn) mà biết là thánh; hỏi bệnh (vấn) mà biết là
    công; bắt mạch (thiết) mà biết là xảo.
    Bình thường các y sĩ đều phải áp dụng cả bốn cách nói trên và còn tham bác
    tám nguyên tắc chuẩn bệnh (tứ chẩn bát cương). Đối với Phật Dược Sư, các
    phương cách vừa kể đều không cần thiết. Một khi quý vị xưng danh hiệu của Ngài,
    bệnh liền tiêu tan, do đó điều này phải kể là điểm đặc biệt trong bổn nguyện của
    Ngài nhằm lợi ích các chúng sanh. Sự thần diệu đó phát sinh từ “Đệ thất đại
    nguyện”, lời nguyện lớn thứ bảy của Ngài. Lời nguyện như sau:
    “Nguyện đời sau này khi ta đắc đạo vô thượng Bồ-đề, nếu những hữu
    tình, bị bệnh bức thiết”, ta nguyện đời sau này khi ta thành Phật, nếu những hữu
    tình - bao gồm hết thảy các hữu tình - bị bệnh tật bức bách làm cho đau đớn;
    “không ai cứu giúp, không chỗ nương thân (vô cứu vô quy)” không ai cứu được,
    61

    không người giúp đỡ, “vô quy” nghĩa là không có nơi nương thân; “không thầy
    không thuốc” không có y sĩ chữa trị cho, không có thuốc; “không người thân
    thích, không cửa không nhà”, không có thân thích, gia quyến; “bần cùng khốn
    khổ”, hết sức nghèo hèn khổ sở; lúc đó chỉ cần “một khi tên ta, nghe lọt vào tai”,
    tên của Ngài, được lọt vào tai, tức danh hiệu “Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật”
    thì “mọi bệnh đều hết”, mọi tật bệnh đều được giải trừ.
    Quý vị thấy đó! Không phải uống thuốc, không phải chích thuốc, chẳng cần
    quang tuyến X, chẳng cần phóng xạ, hay chạy điện, không dùng đến ngải hay kim
    để châm cứu, vậy mà mọi bệnh đều tiêu tan hết! “Thân tâm yên vui”, thân và tâm
    đều được an lạc.
    Các y sĩ nghe đến đoạn kinh văn này e rằng không được vui. Họ sợ nghề
    nghiệp của mình bị cướp đoạt. Quý vị đó cứ yên tâm, không sợ mất khách đâu!
    “Gia quyến tiền của, thảy đều phong túc”, vật dụng của gia đình cùng
    quyến thuộc đều được phong túc, không bị thiếu thốn; “cho đến chứng được vô
    thượng Bồ-đề” cuối cùng lại còn chứng quả vô thượng Bồ-đề nữa, tức là thành
    Phật.
    Cần nhắc lại là Phật giáo chủ trương rằng hết thảy chúng sanh đều có Phật
    tánh, tất cả đều có khả năng thành Phật. Phật không hề nói: “Chỉ có ta là Phật chứ
    không ai có thể thành Phật”. Đạo Phật là bình đẳng, Phật cũng như chúng ta,
    nhưng hơn ta là có trí huệ. Phật là một bậc đại trí huệ, nên không nói những lời hồ
    đồ. Chúng ta học Phật, chính là học để trở thành không điên đảo, không hồ đồ,
    không làm những điều chỉ có lợi cho mình mà tổn hại đến người khác, không làm
    bại hoại xã hội, thành tâm giữ đúng quy củ, phép tắc, học để làm người lương
    thiện, sau này mới đủ trí huệ chứng thành quả Phật. Quý vị không giữ quy củ, tuyệt
    đối quý vị không thể có trí huệ. Có trí huệ mới biết giữ quy củ. Bằng không có trí
    huệ thì dầu có bảo quý vị giữ quy củ, quý vị sẽ phản đối ngay.
    62

    Nguyện lớn thứ tám: Nguyện đời sau này khi ta đắc đạo vô thượng Bồ-
    đề, nếu có thân gái, thấy trăm khổ não, sinh lòng chán ngán, muốn bỏ thân
    gái, nghe tên ta rồi, thảy đều chuyển được thân gái thành trai, đủ tướng
    trượng phu, cho đến chứng được vô thượng Bồ-đề.
    Đệ bát đại nguyện: Nguyện ngã lai thế, đắc Bồ-đề thời, nhược hữu
    nữ nhân, vị nữ bách ác chi sở bức não, cực sinh yếm ly, nguyện xả nữ
    thân, văn ngã danh dĩ, nhất thiết giai đắc chuyển nữ thành nam, cụ trượng
    phu tướng, nãi chí chứng đắc vô thượng Bồ-đề.
    Tại sao lại cần chuyển nữ thành nam vậy? Chúng ta đừng hiểu lầm. Nói như
    vậy chẳng phải coi phụ nữ là xấu. Ở xứ này, có một số hoạt động trong phong trào
    giải phóng phụ nữ bài xích đức Phật A-di-đà, cho rằng Ngài theo chủ nghĩa trọng
    nam, bởi trên thế giới Cực Lạc của Ngài chỉ có nam mà không có nữ. Nói như vậy
    là không đúng. Đức Phật A-di-đà không “chấp tướng” về nam hay về nữ, Ngài
    không phân biệt nam nữ, chẳng phải là không biết, chỉ là không có tướng phân biệt
    mà thôi.
    Vậy sao không có nữ giới ở thế giới Cực Lạc mà chỉ toàn là nam giới ở đây?
    Số là thân thể của phụ nữ đôi khi không được thanh tịnh, và vào những thời điểm
    đó, họ chịu lắm thứ đau đớn, mà đau đớn thì rất là bất tiện. Bởi vậy người ta không
    muốn mang thân nữ chính vì các sự bất tiện này, cũng gọi là “bách ác”. Nói là một
    trăm thứ ác, kỳ thực có khi nhiều hơn nữa, nói một trăm chỉ để biểu trưng cho số
    nhiều đó thôi, tức là rất nhiều vấn đề phiền toái, rất nhiều lúc thân thể không thanh
    tịnh. Vì những lẽ đó, nhiều lúc người tu hành cảm thấy mang thân nữ rất là phiền
    phức, muốn mang thân nam giới cho tiện lợi hơn.
    63

    Nữ giới, mỗi lần đến kinh kỳ thường không được thoải mái. Có người thì
    đau trước kỳ kinh, có người đau sau khi có kinh, có khi đau không chịu nổi. Hoặc
    giả gặp trường hợp kinh kỳ rầm rề không dứt, hoặc giả kinh kỳ tắt, tức là đủ thứ
    bệnh tật. Những hoàn cảnh đó mang lại bao nhiêu sự bất tiện, thành thử người ta
    muốn làm thân nam là vì lẽ đó.
    Hơn nữa, lại còn phải kể đến vấn đề dục niệm giữa nam nữ nữa. Thời đại
    bây giờ xẩy ra lắm chuyện kỳ quặc, yêu ma quỷ quái đều xuất hiện, kéo theo nhiều
    chuyện rắc rối, nhất là cái việc đồng tính luyến ái!
    “Đệ bát đại nguyện”, nguyện lớn thứ tám, đức Phật Dược Sư nguyện rằng:
    “Nguyện đời sau này khi ta đắc đạo vô thượng Bồ-đề ”, ta nguyện đời sau này,
    khi ta thành Phật; “nếu có thân gái, thấy trăm khổ não, sinh lòng chán ngán,
    muốn bỏ thân gái ”, nếu những người nữ, thấy trăm thứ khổ não bức bách, sinh
    lòng chán ngán, muốn bỏ thân gái; “nghe tên ta rồi, thảy đều chuyển được thân
    gái thành trai, đủ tướng trượng phu” khi nghe tên ta rồi, thảy đều chuyển được
    từ thân gái thành thân trai, đủ tướng trượng phu; “cho đến chứng được vô thượng
    Bồ-đề”, cuối cùng chứng được quả Phật.
    Nguyện lớn thứ chín: Nguyện đời sau này khi ta đắc đạo vô thượng Bồ-
    đề, khiến những hữu tình, thoát lưới loài ma, thoát được hết thảy ngoại đạo
    ràng buộc, nếu lạc vào các rừng rậm ác kiến, ta sẽ dẫn dắt lên đường chánh
    kiến, rồi tu tập dần, mọi hạnh Bồ tát, chóng chứng được đạo vô thượng Bồ-đề.
    Đệ cửu đại nguyện: Nguyện ngã lai thế, đắc Bồ-đề thời, linh chư hữu
    tình, xuất ma quyến võng, giải thoát nhất thiết ngoại đạo triền phược,
    nhược đọa chủng chủng ác kiến trù lâm, giai đương dẫn nhiếp trí ư chánh
    64

    kiến, tiệm linh tu tập chư Bồ tát hạnh, tốc chứng Vô thượng Chánh đẳng
    Bồ-đề.
    “Đệ cửu đại nguyện” – nguyện lớn thứ chín. Trong nguyện lớn thứ chín,
    đức Phật Dược Sư nhằm phá các loại lưới của bọn Ma vương và ngoại đạo. Ngài
    nói: “Nguyện đời sau này khi ta đắc đạo vô thượng Bồ-đề”, nguyện đời sau này,
    khi ta thành Phật; “khiến những hữu tình, thoát lưới loài ma”, khiến cho các
    loài hữu tình, thoát lưới loài ma; chúng ta ra đời ở thế giới ngày nay chính là gần
    với Ma vương, mà cách Phật thật là xa vời. Làm Ma vương thì chúng ta muốn làm
    lúc nào cũng được. Tuy nhiên, muốn thành Phật thì chúng ta phải phá trừ các loại
    ác kiến, tà tri tà kiến, phải tu chánh tri chánh kiến, chúng ta mới thoát ra khỏi của
    lưới của loài ma được. Lưới của loài ma rất khó phá, nó vi tế nhưng rất bền chặt,
    một khi lọt vào rồi sẽ khó thoát ra rồi từ đó trở thành quyến thuộc của Ma vương
    và A-tu-la.
    Nếu như chúng ta hay nổi giận, để cho ngọn lửa vô minh thiêu đốt, tức là
    chúng ta đã hãm mình trong lưới ma đó. Như chúng ta đi câu cá chẳng hạn, mỗi
    lần cá lọt lưới chúng ta reo vui: “Ồ! Bắt được con cá lớn, được một bữa ăn rồi!”.
    Loài ma cũng vậy, khi ta bị mắc lưới của nó, nó cũng sung sướng và tự bảo rằng:
    “Lại thêm một người bị mắc lưới để cho ta sử dụng”. Muốn thoát khỏi lưới ma ư?
    Có một cách đơn giản vô cùng, tức là đừng có nổi giận, không nổi nóng, không đốt
    lên ngọn lửa vô minh. Ma vương khéo dùng tà thuật khống chế đầu óc của ta khiến
    ta mất chánh tri chánh kiến, đó là lý do người ta khó thoát khỏi lưới của loài ma.
    Nay may mắn là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai có nguyện lớn, giúp chúng ta có
    thể thoát được lưới của Ma vương này.
    “Thoát được hết thảy ngoại đạo ràng buộc”, thoát khỏi sự trói buộc của
    ngoại đạo. Ngoại đạo là họ hàng của loài thiên ma. Ngoại đạo chuyên nghề khống
    65

    chế mọi người, làm người ta mất tự do vì những tà thuật của họ. Thậm chí, chúng
    bắt người ta phải dùng những chú nguyện độc ác, những lời thề độc, để người ta
    không bao giờ đi sai đạo của chúng hay phản bội chúng, vì sợ những lời đe dọa,
    nào thiên lôi đánh, nào hỏa tai v.v.. Quý vị biết rõ chúng sai trái mà không dám
    phản kháng. Sự trói buộc chính là ở chỗ đó. Nó giống như một sợi dây trói buộc
    người ta, quý vị muốn cởi trói mà không cởi được.
    “Nếu lạc vào các rừng rậm ác kiến”, nếu lạc vào các rừng rậm ác kiến, tức
    bao gồm các loại tà tri tà kiến. Các loại này quá nhiều, giống như một khu rừng
    rậm rạp, khống chế quý vị, không để cho quý vị chút nào tự do cả.
    Phật giáo là không bao giờ khống chế ai. Tôi đã từng nói với một nhóm Phật
    tử, trước mặt cả Hồng y Paul Yubin rằng: “Nếu quý vị thấy Phật giáo quá cổ hủ,
    lòng muốn theo một tôn giáo khác, hợp thời hơn, thì nay quý vị đã có cơ hội rồi
    đó! Quý vị có thể tùy tiện đổi tín ngưỡng của quý vị, bởi Phật giáo không phải là
    một ngục tù, một cái gì gò bó, quản thúc quý vị.” Nói xong tôi quay lại hỏi Hồng y
    Yubin: “Ông có dám nói như vậy với tín đồ của ông không?” Ông lắc đầu nói:
    “Không dám”.
    Tại sao không dám? Bởi tôn giáo của họ khống chế môn đồ, không cho môn
    đồ tự do. Ai bỏ đạo sẽ bị coi là kẻ phạm tội tầy trời. Cái đó gọi là rừng rậm ác kiến,
    trong đó không có ánh sáng, vì toàn là tà tri tà kiến, không thể đưa ra để thảo luận
    một cách công khai.
    Đối với loại bị tà tri tà kiến như vậy thì lời nguyện của đức Phật Dược Sư là
    “ta sẽ dẫn dắt”, Ngài sẽ dẫn dắt; “lên đường chánh kiến”, dạy cho chánh kiến;
    “rồi tu tập dần mọi hạnh Bồ tát”, dần dà khiến cho tu tập pháp Lục độ và thực
    hành đạo Bồ tát; “chóng chứng được đạo vô thượng Bồ-đề”, đặng chứng mau
    chóng vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tức là quả Phật.
    66

    Nguyện lớn thứ mười: Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo vô thượng
    Bồ-đề, nếu những hữu tình, bị pháp luật trị, trói buộc đánh đập, giam cầm lao
    ngục, hoặc bị tử hình, và còn rất nhiều tai nạn khác nữa, nhục nhã bi sầu,
    thân tâm chịu khổ, nghe danh hiệu ta, vì sức oai thần, công đức của ta, đều
    được giải thoát, hết thảy lo khổ.
    Đệ thập đại nguyện: Nguyện ngã lai thế, đắc Bồ-đề thời, nhược chư
    hữu tình, vương pháp sở lục, phược lục tiên thát, hệ bế lao ngục, hoặc
    đương hình lục, cập dư vô lượng tai nạn lăng nhục, bi sầu tiên bức, thân
    tâm thọ khổ, nhược văn ngã danh, dĩ ngã phước đức uy thần lực cố, giai
    đắc giải thoát, nhất thiết ưu khổ.
    “Đệ thập đại nguyện”, trong nguyện lớn thứ mười, Ngài nói: “Nguyện đời
    sau này, khi ta đắc đạo vô thượng Bồ-đề, nếu những hữu tình, bị pháp luật
    trị”, đời sau khi ta thành Phật, nếu những hữu tình bị mắc nạn vương pháp, tức là
    bị pháp luật trừng trị; giả tỷ quý vị chẳng làm nên tội gì, chỉ bị người ta vu cáo;
    hoặc giả quý vị bị oan uổng, hay vì vô tâm mà phạm pháp, chớ chẳng phải cố ý;
    đến khi mắc nạn pháp luật, quý vị bị bắt, bị trừng phạt, bị giam vào ngục, như
    trong kinh nói “trói buộc đánh đập (phược lục tiên thát)”, “phược” là trói, trói tay
    hay trói chân; “lục” là lấy khẩu cung, ghi vào hồ sơ, trong đó nói rõ tội trạng;
    “tiên” là cái roi; “tiên thát” là đánh đập bằng roi, bằng gậy.
    “Giam cầm lao ngục (Hệ bế lao ngục)”: “hệ” là cùm lại, tại ba nơi, cổ thì
    có gông, hai tay và hai chân thì bị cùm, cốt không cho phạm nhân trốn thoát; phạm
    nhân bị giam lại trong lao ngục, trong ngoài không tương thông được với nhau.
    67

    “Hoặc bị tử hình (Hoặc đương hình lục)”: Chữ “lục” ở đây nghĩa là giết
    (tru lục), tức tội tử hình, hoặc giả bị chặt đầu rồi bêu đầu trước công chúng, có khi
    bị đánh chết, có khi lên ghế điện v.v…
    “Và còn rất nhiều tai nạn khác nữa, nhục nhã” (Cập dư vô lượng tai nạn
    lăng nhục), cho đến vô vàn các thứ trừng phạt, vô lượng các tai nạn khác do trời
    giáng thiên tai, do người gia hại. “Lăng nhục” là bị khinh khi và bị nhục nhã; “bi
    sầu tiên bức, thân tâm thọ khổ”, bi ai và sầu khổ, giống như bị người bị nung
    nấu bức bách , khiến cho thân và tâm đều khổ sở; “nghe danh hiệu ta”, nếu nghe
    tên ta - danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai - “vì sức oai thần, công đức
    của ta”, phước đức và sức oai thần của ta; “đều được giải thoát, hết thảy lo
    khổ”, tất cả đều được giải thoát khỏi các cảnh lo âu, sầu khổ, lìa khổ được vui.
    Nguyện lớn thứ mười một: Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo vô
    thượng Bồ-đề, nếu những hữu tình, bị đói khát khổ, vì việc kiếm ăn, tạo mọi
    nghiệp ác, khi nghe tên ta, chuyên tâm trì niệm, trước tiên ta cho, ăn uống rất
    ngon, để no thân đã, rồi sau ta mới cho ăn pháp vị, để lập thành người, rốt ráo
    yên vui.
    Đệ thập nhất đại nguyện: Nguyện ngã lai thế, đắc Bồ-đề thời, nhược
    chư hữu tình, cơ khát sở não vị cầu thực cố, tạo chư ác nghiệp, đắc văn
    ngã danh, chuyên niệm thọ trì, ngã đương tiên dĩ thượng diệu ẩm thực,
    bão túc kỳ thân, hậu dĩ pháp vị tất cánh an lạc nhi kiến lập chi.
    “Nguyện lớn thứ mười một: Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo vô
    thượng Bồ-đề, nếu những hữu tình, bị đói khát khổ”, đây là lời nguyện thứ
    mười một, Ngài nguyện đời sau này khi thành Phật, nếu những chúng sanh - nói
    68

    hết thảy mọi chúng sanh - bị khổ vì đói khát, tức là không có cơm ăn, không có
    nước uống, cũng có thể có cơm mà không ăn được, có nước mà không uống được;
    “vì việc kiếm ăn, tạo mọi nghiệp ác”, vì cầu miếng ăn, đói khổ quá phát cuồng,
    chẳng kể phương tiện nào, hoặc đi cướp, hoặc ăn cắp, hoặc giết người, miễn sao
    được no và từ đó mà tạo nên bao nhiêu nghiệp ác.
    Vậy phải làm sao? “Khi nghe tên ta, chuyên tâm trì niệm (chuyên niệm
    thọ trì)”, nếu như nghe được danh hiệu của ta, chuyên tâm trì chí, niệm tụng danh
    hiệu của ta, và thọ trì, thân thì thọ mà tâm thì trì; “trước tiên ta cho, ăn uống rất
    ngon”, lúc đó ta hóa phép tạo ra các món ăn, thức uống thật ngon lành, cấp cho ăn
    uống; “trước tiên ta cho, ăn uống rất ngon”, khiến cho được no nê, hết đói khổ;
    “sau ta mới cho ăn pháp vị”, sau đó nói pháp cho nghe, cho được nếm mùi vị
    thần diệu của Phật pháp; “tất cánh an lạc nhi kiến lập chi”, để cuối cùng đưa cho
    họ vào chỗ an lạc.
    Nguyện lớn thứ mười hai: Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo vô
    thượng Bồ-đề, nếu những hữu tình, nghèo không áo mặc, ruồi muỗi bức riết,
    khổ suốt đêm ngày, khi nghe tên ta, chuyên tâm trì niệm, thì tâm muốn gì, liền
    được đủ thứ, áo mặc thật đẹp, được cả đồ dùng, quý báu trang nghiêm, đeo
    hoa ướp hương, trống nhạc các loại, tùy tâm thích gì, đều được đầy đủ.
    Đệ thập nhị đại nguyện: Nguyện ngã lai thế, đắc Bồ-đề thời, nhược
    chư hữu tình, bần vô y phục, văn manh hàn nhiệt, trú dạ bức não, đắc văn
    ngã danh, chuyên niệm thọ trì, như kỳ sở hiếu, tức đắc chủng chủng
    thượng diệu y phục, diệc đắc nhất thiết bảo trang nghiêm cụ, hoa man đồ
    hương, cổ lạc chúng kỹ, tùy tâm sở ngoạn, giai linh mãn túc.
    69

    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai chắc chắn đã từng gặp hoàn cảnh bần cùng
    khốn khổ, do đó Ngài phát nguyện giải trừ các cảnh khổ đó cho các chúng sanh.
    Trong “Nguyện lớn thứ mười hai”, Ngài nói: “Nguyện đời sau này, khi ta đắc
    đạo vô thượng Bồ-đề, nếu những hữu tình, nghèo không áo mặc”, ta nguyện
    đời sau này, khi ta thành Phật, nếu những hữu tình - kể tất cả các chúng sanh, bất
    luận ở nước nào, thuộc dân tộc nào - không có quần áo mặc, tức là nghèo khổ lắm,
    đương nhiên chẳng đủ cơm ăn.
    Nguyện thứ mười một trên nói về những ai bị đói ăn, đoạn này nói tới những
    người nghèo không có áo mặc, nên họ chịu cảnh “ruồi muỗi bức riết, khổ suốt
    đêm ngày”, tức bị ruồi muỗi cắn, không có gì che thân khi trời nóng lạnh, khiến
    cho ngày đêm bị các thứ khổ đó bức riết.
    “Khi nghe tên ta”, nếu nghe đến danh hiệu của ta mà “chuyên tâm trì
    niệm (chuyên niệm thọ trì)”, chuyên tâm niệm, chớ không phải nghe đến danh hiệu
    rồi bỏ qua chẳng hạn, phải chuyên một lòng, nghĩ tới chẳng quên, sớm tối đều
    niệm, lãnh thọ ở tâm, chuyên trì ở thân, dụng công như vậy.
    “Thì tâm muốn gì, liền được đủ thứ”, những điều lâu nay ưa thích, những
    gì làm cho thỏa ý vừa lòng, thì đều có được cả; tỷ như “áo mặc thật đẹp (thượng
    diệu y phục)”, quần áo thuộc loại thượng hạng; “được cả đồ dùng, quý báu trang
    nghiêm”, lại còn có hết thảy các thứ trang sức quý giá làm bằng bảy thứ báu là
    vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, ngọc đỏ, mã não; “đeo hoa ướp hương, trống
    nhạc các loại”, vòng đeo kết bằng hoa cùng hương quý, các loại âm nhạc; “tùy
    tâm thích gì, đều được đầy đủ”, tùy tâm ý, sở thích, muốn thứ gì đều được như ý.
    Ông Mạn Thù Thất Lợi! Thế là mười hai nguyện rất nhiệm mầu của
    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, đã phát ra khi Ngài
    còn đương hành đạo Bồ tát.
    70

    Mạn Thù Thất Lợi! Thị vi bỉ Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai,
    Ứng Chánh Đẳng Giác, hành Bồ tát đạo thời, sở phát thập nhị vi diệu
    thượng nguyện.
    “Mạn Thù Thất Lợi!” hay Văn Thù Sư Lợi, là cách dịch âm ra tiếng Trung
    Hoa, còn dịch nghĩa thì gọi là “Diệu Cát Tường”. Đây là vị Bồ tát có trí huệ vào
    loại bậc nhất, có đạo tràng tại Trung Hoa là Ngũ Đài Sơn. Ở đấy quanh năm có
    tuyết, lạnh vô cùng, Ngài chọn nơi này làm đạo tràng, chắc vì Ngài thích khí hậu
    lạnh hoặc giả thích những người ở chỗ lạnh lẽo này tu hành. Ngũ Đài Sơn cũng
    được nhắc tới trong Kinh Hoa Nghiêm.
    Trong Kinh Dược Sư này, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã xưng tên Ngài Văn-
    Thù Sư Lợi để giảng kinh chính bởi vì những ai không đủ trí huệ không thể hiểu
    được nguyện lực của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, mà phải là những bậc đại
    trí huệ như Ngài VănThù Sư Lợi mới hiểu được.
    “Thế là mười hai nguyện rất nhiệm mầu (vi diệu thượng nguyện) của
    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác”: “Thế Tôn” cũng
    như “Ứng Chánh Đẳng Giác” là hai trong mười danh hiệu của Phật.
    “Đã phát ra khi Ngài còn đương hành đạo Bồ tát”: Trong thời gian nhân
    địa, đức Phật Dược Sư thực hành đạo Bồ tát, Ngài đã phát ra những lời nguyện
    thần diệu thượng đẳng như vậy. Các lời nguyện tuy không nhiều, nhưng trọng yếu
    ở chỗ chúng bao quát hết mọi vấn đề của chúng sanh, dầu họ khổ, họ vui, chẳng kể
    đó là kẻ trí hay người ngu, bởi vậy mới nói là “thượng nguyện”, tức là nguyện
    thượng đẳng.
    71

    Lại nữa, Ông Mạn Thù Tất Lợi! Những nguyện lớn của Thế Tôn Dược
    Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ngài đã phát ra khi Ngài còn đương hành đạo Bồ
    tát, và những công đức trang nghiêm ở bên cõi nước của Ngài, nếu ta nói ra
    đến hết một kiếp, hay hơn một kiếp, cũng không hết được.
    Phục thứ Mạn Thù Thất Lợi! Bỉ Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như
    Lai, hành Bồ tát đạo thời, sở phát đại nguyện, cập bỉ Phật độ công đức
    trang nghiêm, ngã nhược nhất kiếp, nhược nhất kiếp dư, thuyết bất năng
    tận.
    “Lại nữa, Ông Mạn Thù Tất Lợi!” Đức Phật Thích-ca lại bảo Bồ tát Văn
    Thù Sư Lợi; “Những nguyện lớn của Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như
    Lai, Ngài đã phát ra khi Ngài còn đương hành đạo Bồ tát”, khi đức Thế Tôn
    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai đương trong thời gian thực hành đạo Bồ tát; “sở
    phát đại nguyện”, những lời nguyện lớn Ngài đã phát ra; “và những công đức
    trang nghiêm ở bên cõi nước của Ngài” cùng quốc độ của Ngài, tức thế giới Lưu
    Ly nơi Đông phương; “công đức trang nghiêm”, công đức và sự trang nghiêm quốc
    độ của Ngài; “nếu ta nói ra đến hết một kiếp, hay hơn một kiếp, cũng không
    hết được”, nếu ta thuyết trong suốt một kiếp, hay hơn một kiếp, cũng không thể
    nào nói cho hết được.
    Nhưng nước Phật ấy, một mầu thanh tịnh, không có nữ nhân, không có
    ác thú, và những tiếng khổ, mặt đất chỉ thuần là ngọc lưu ly, đường đi chăng
    dây, dây làm bằng vàng, thành khuyết lâu đài, hiên song có lưới, làm bằng
    72

    bảy báu, như ở Tây phương thế giới Cực Lạc, công đức trang nghiêm, giống
    in không khác.
    Nhiên bỉ Phật độ, nhất hướng thanh tịnh, vô hữu nữ nhân diệc vô ác
    thú, cập khổ âm thanh, lưu ly vi địa, kim thằng giới đạo, thành khuyết
    cung các, hiên song la võng, giai thất bảo thành, diệc như Tây Phương Cực
    Lạc thế giới, công đức trang nghiêm, đẳng vô sai biệt.
    “Nhưng nước Phật ấy, một mầu thanh tịnh”, Nhưng tại nước Phật ấy chỉ
    có một mầu thanh tịnh, không có ô nhiễm, trong sáng như lưu ly.
    “Không có nữ nhân”, tại đây không có nữ giới. Có một số người trong
    phong trào giải phóng phụ nữ đề xướng vấn đề nữ quyền, họ lên tiếng bài xích thế
    giới Cực Lạc của đức Phật A-di-đà. Họ nêu câu hỏi: “Ở đó không có phụ nữ, vậy
    phải chăng đức Phật A-di-đà đã coi khinh phụ nữ? Phải chăng nam nữ không bình
    đẳng? Phải chăng là có ý trọng nam khinh nữ?”
    Điều này sai hoàn toàn. Số là thế giới Ta-bà được gọi là “ngũ trược ác thế”,
    một thế giới xấu có năm thứ trược, năm thứ không trong sạch. Đó là kiếp trược, ý
    nói khoảng thời gian chúng ta trú tại cõi Ta-bà là một thời kỳ không trong sạch;
    kiến trược, bởi những gì chúng ta thấy đều không trong sạch; phiền não trược, vì
    chúng ta ai cũng có nhiều phiền não; chúng sanh trược, vì lẽ do tình dục giữa nam
    và nữ mà có chúng sanh ở đây. Chẳng phải riêng nhân loại mới có như vậy. Nói
    chung tất cả các loài có khí, có huyết cũng đều do sắc dục mà sanh ra, kể cả các
    chúng sanh vi tế như vi khuẩn. Phàm có dục tức là không thanh tịnh, do đó mới gọi
    là chúng sanh trược.
    73

    Mạng trược, bởi sinh mạng của chúng ta cũng như của các chúng sanh đều
    từ môi trường không trong sạch mà sanh ra. Tầng trời chẳng hạn, là nơi không có
    bụi dơ, ở cõi Cực Lạc phương Tây thì đất là vàng, ở cõi Lưu Ly phương Đông thì
    đất là lưu ly, không nơi nào có bụi bặm, dơ bẩn. Chỉ có cõi Ta-bà của chúng ta là
    lắm thứ phiền hà. Những gì mắt chúng ta thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân
    đụng chạm, tâm tưởng, chẳng có gì là trong sạch, bởi vậy mới gọi Ta-bà là ngũ
    trược ác thế.
    Chúng sanh tại cõi Cực Lạc thì không có dục. Họ được hóa sanh ở đây do
    nguyện lực của đức Phật A-di-đà. Cõi Lưu Ly là do nguyện lực của đức Phật Dược
    Sư hóa thành. Bởi không có dục, tất cả đều hóa sanh nên ở đây không có nữ giới.
    Điều này không có nghĩa là nam nữ không được đối xử bình đẳng, hay trọng nam
    khinh nữ; chúng ta sinh làm thân nữ đều nên hiểu rằng thế giới Ta-bà là nơi mà
    khổ đau nung nấu, là thế giới của vạn ác sung mãn, chẳng có gì hay ho để chúng ta
    thương tiếc, không có gì đáng giá để mọi người lưu luyến, hoàn toàn là một nơi
    không trong sạch. Vì ý nghĩa đó nên các cõi Cực Lạc và Lưu Ly đều không có nữ
    giới.
    “Không có ác thú ”: Ác thú là nẻo đường ác. Tại cõi Lưu Ly không có ba
    đường ác, không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh; “và những tiếng khổ”, những
    tiếng kêu đau khổ cũng không có, những loại âm thanh bi ai, làm cho người nghe
    phải mủi lòng, khóc lóc, chẳng hạn, tất cả đều không có.
    “Mặt đất chỉ thuần là ngọc lưu ly”, mặt đất làm bằng lưu ly, bởi vậy mới
    nói đây là thế giới Lưu Ly tại phương Đông; “đường đi chăng dây, dây làm bằng
    vàng”, dây vàng làm thành lan can để phân ranh giới các đường đi; “thành khuyết
    cung các”, thành là thành trì, khuyết là cửa khuyết xây trên mặt thành, các cung
    điện và lầu các.

    74

    “Hiên song có lưới”: hiên là chỉ từng gian phòng một; song là cửa sổ, sáng
    sủa, không chút bợn dơ; các lớp la võng, tức là lưới như gồm bảy hàng cây, bảy
    lớp lưới.
    “Làm bằng bảy báu”, Tất cả những thứ kể trên đều làm bằng bảy thứ báu,
    vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, mã não; “như ở Tây phương thế giới
    Cực Lạc, công đức trang nghiêm, giống in không khác”, công đức và trang
    nghiêm hoàn toàn giống như cõi Cực Lạc ở phương Tây, không có gì sai khác.
    Câu nói “Đông A-súc, Tây Di-đà” chính là chỉ đức Phật A-súc, hay còn gọi
    là đức Phật Dược Sư, ở phương Đông và đức Phật A-di-đà ở phương Tây. Phật A-
    súc trông coi Kim Cang bộ, như đã từng nói đến trong chú Lăng Nghiêm, còn Phật
    A-di-đà thì thuộc Liên Hoa bộ. Đức Phật A-di-đà là giáo chủ cõi Cực Lạc phương
    Tây, và Phật Dược Sư Lưu Ly Quang là giáo chủ cõi Lưu Ly phương Đông.
    Bởi vậy, tại Vạn Phật Thánh Thành, cứ mỗi buổi sáng chúng ta niệm danh
    hiệu đức Lưu Ly Quang Như Lai, đó là để hồi hướng công đức cho các vị hộ pháp
    tại đây được giải trừ tai nạn và được thọ mạng lâu dài. Buổi trưa, chúng ta niệm
    đức Phật Thích-ca, bởi Ngài đã truyền lại Phật Pháp cho chúng ta, nên chúng ta
    phải niệm Ngài để báo ơn Phật. Buổi tối, chúng ta niệm đức Phật A-di-đà, vị giáo
    chủ cõi Cực Lạc phương Tây, nhằm mục đích tối hậu là được vãng sanh về thế giới
    Cực Lạc. Ở nơi này không có ba đường ác, không có các thứ khổ, chỉ có các thứ
    vui. Nơi đó, không ưu không sầu, không phiền não. Còn như, cảnh Ta-bà thì không
    ngày nào là không có rắc rối, biết bao nhiêu phiền não xâm chiếm khiến cho tâm
    của quý vị phát sinh bao nỗi bất bình. Thế giới Cực Lạc và thế giới Lưu Ly đều
    không có những vấn đề như vậy.
    Tại Vạn Phật Thánh Thành, tôi áp dụng nghi thức niệm các danh hiệu khác
    nhau vào ba buổi như vậy là có lý do. Đây là một đạo tràng mới lập nên, không
    giống như các đạo tràng cũ tại Trung Hoa đại lục, hay tại Hương Cảng, Đài Loan,
    Tân Gia Ba, Việt Nam v.v.. những nơi này đều theo lề lối xưa của Phật giáoTrung
    75

    Hoa, sớm, trưa, tối, cả ba thời đều niệm Phật A-di-đà. Do đó, từ các nơi ấy có một
    số các vị xuất gia đi ra nước ngoài, đến thăm Vạn Phật Thánh Thành, cho rằng
    chúng ta là sai, không đúng nghi thức.
    Không phải Vạn Phật Thánh Thành tự cho mình là đúng, có điều buổi sáng
    sớm chúng ta nên theo lời nguyện tiêu tai diên thọ của Dược Sư Lưu Ly Quang
    Như Lai, đặng chúng ta được bồi bổ thêm sinh khí, chẳng phải loại sinh khí của
    những người nổi nóng, mà là loại vượng khí của buổi ban mai, giúp cho cây cỏ
    tươi tốt, cho dòng suối tuôn trào. Buổi sớm thức dậy, ai nấy đều cảm thấy nguồn
    sinh lực dồi dào, mọi thứ đều cát tường như ý. Tới trưa, chúng ta phải tỏ lòng
    thành kính tri ân đức Phật Thích-ca vì Ngài đã để lại cho thế gian Phật Pháp và
    Kinh điển. Đó là lúc niệm Thích-ca Mâu-ni Phật. Buổi tối, chúng ta quy hướng về
    thế giới Cực Lạc, nơi vãng sanh, lìa cõi Ta-bà, do đó chúng ta niệm đức Phật A-di-
    đà.
    Đó là các khóa trình áp dụng tại Vạn Phật Thánh Thành, không hoàn toàn
    giống như tại các đạo tràng khác.
    Lâu nay, mọi người cứ tưởng rằng khóa trình các nơi khác cũng vậy, cũng
    giống như cách thức áp dụng tại đây. Kỳ thực Vạn Phật Thánh Thành tổ chức khác
    hẳn. Có những lề lối mà người ta không thấy tại các chùa ở Trung Hoa. Tỷ như, tại
    Vạn Phật Thánh Thành, tại Kim Sơn Tự, Kim Luân Tự, cứ mỗi lần giảng pháp thì
    trước đó phải có nghi thức thỉnh pháp. Tại các đạo tràng khác quý vị không thấy có
    nghi thức này. Quý vị chưa được nhiều lần chứng kiến các nghi thức trong Phật
    giáo, nên không biết thế nào là đúng thế nào là sai, nên hôm nay, nhân tiện tôi kể
    rõ cho quý vị nghe.
    Trong quý vị đây có ai có ý kiến gì về đoạn kinh tôi vừa giảng không? Hoặc
    thấy có chỗ nào tôi giảng chưa được thỏa ý? Nếu có kiến giải gì khác, cứ nói cho
    tôi hay, bởi chúng ta học Phật Pháp thì phải làm sao để trong lòng có sự tin phục,
    76

    không có điểm nào hồ nghi nữa mới được. Nếu quý vị không đồng ý với ý nghĩa
    của đoạn nào trong kinh, thì cứ việc giải bầy.
    Thực sự không có vọng tưởng tức là vãng sanh nơi thế giới Cực Lạc; thực sự
    không có dục niệm chính là giáo hóa các chúng sanh.
    Ai bảo quý vị có vọng tưởng? Ai bảo quý vị có dục niệm? Nếu không có ai
    cả thì những thứ đó là hư vọng, là giả; nếu quả có người bảo thì đó là ai? Chính
    quý vị hay là người khác? Nếu chính quý vị bảo quý vị thì sao ngay lúc vọng tưởng
    đến, quý vị chẳng biết gì hết? Thế là thế nào?
    Quý vị không có vọng tưởng ư? Quý vị đương ở Tịnh độ đó! Nào! Thoải
    mái biết bao nhiêu! Thống khoái biết bao nhiêu! Chỉ là thâu dọn hết các vọng
    tưởng là có ngay cảnh Cực Lạc. Quý vị không có vọng tưởng tức quý vị chẳng bị
    phiền não; không có phiền não tức có ngay khoái lạc, tức ở cảnh Cực Lạc, còn phải
    chạy đi đâu nữa!
    Pháp môn Tịnh độ nói rất rõ, chẳng qua chúng ta không chú ý đó thôi! Pháp
    môn Tịnh độ nói rằng: “Sanh thì nhất định là sanh, vãng thì thực không có vãng”
    (Sanh tắc nhất định sanh, khứ tắc thật bất khứ). Sanh, tức là nói sanh nơi Tịnh độ,
    mà sanh Tịnh độ tức làm hiển lộ tự tánh sáng rỡ của mình, như câu nói “duy tâm
    tịnh độ, tự tánh Di-đà”. Vậy thì chẳng cần kiếm ở đâu bên ngoài. Còn như chạy ra
    ngoài tìm kiếm thì đó là lối suy tưởng của phần đông chúng ta. Nếu quý vị thực
    tình muốn tu, muốn hiểu Phật Pháp, quý vị phải hiểu rõ một điều là cõi Cực Lạc
    hay cõi Ta-bà chẳng lìa khỏi cái niệm tức thời này, ngay đó là Cực Lạc! ngay đó là
    Ta-bà! Tâm quý vị để ô nhiễm, quý vị có Ta-bà; tâm quý vị thanh tịnh quý vị có
    Cực Lạc. Bởi vậy, bất tất phải “có đầu lại đội thêm đầu”, chớ có chấp rằng quý vị
    nhất định phải giáo hóa chúng sanh; chớ chấp rằng quý vị nhất định phải vãng sanh
    Cực Lạc. Chúng ta niệm Phật thì cứ việc niệm, đừng hỏi có sanh hay không sanh?
    Chỉ cần chúng ta thành tâm tu hành là đủ. Như quý vị không bị phiền não, tức đó là
    77

    Cực Lạc, nó hiện hành ngay trước quý vị! Quý vị có phiền não, tức quý vị ở cõi
    Ta-bà, cái thế giới của khổ đau, nói không hết được!
    Trong nước có hai vị đại Bồ Tát, một vị gọi là Nhật Quang Biến Chiếu,
    một vị gọi là Nguyệt Quang Biến Chiếu, đứng đầu tất cả vô số vô lượng các vị
    Bồ tát, hai Ngài lần lượt sẽ lên ngôi Phật, đều giữ vững được kho báu chánh
    pháp của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Này Mạn Thù! Bởi
    thế cho nên, những thiện nam tử và thiện nữ nhân, có tín tâm rồi thời nên
    phát nguyện sanh sang thế giới của đức Phật kia.
    Ư kỳ quốc trung hữu nhị Bồ tát ma-ha-tát, nhất danh Nhật Quang
    Biến Chiếu, nhị danh Nguyệt Quang Biến Chiếu, thị bỉ vô lượng vô số Bồ tát
    chúng chi thượng thủ, thứ bổ Phật xứ, tất năng trì bỉ Thế Tôn Dược Sư Lưu
    Ly Quang Như Lai, chánh pháp bảo tạng, thị cố Mạn Thù Thất Lợi, chư hữu
    tín tâm, thiện nam tử thiện nữ nhân đẳng, ưng đương nguyện sinh bỉ Phật
    thế giới.
    “Trong nước ấy”: Đức Phật Thích-ca không khởi tâm phân biệt đức Dược
    Sư hay đức A-di-đà, cũng như cõi Lưu Ly hay cõi Cực Lạc, nhưng ở đây Ngài nói
    về quốc độ của thế giới Lưu Ly. Ở đây “có hai vị đại Bồ Tát”, đều là những
    thượng thủ đại Bồ tát; “một vị gọi là Nhật Quang Biến Chiếu, một vị gọi là
    Nguyệt Quang Biến Chiếu”, một vị là Nhật Quang Biến Chiếu, một vị là Nguyệt
    Quang Biến Chiếu; “đứng đầu tất cả vô số vô lượng các vị Bồ tát”, trong số vô
    lượng vô số Bồ tát ở đây, hai vị này là những thượng thủ. “Thượng thủ” nghĩa là
    lãnh tụ, làm công việc trợ giúp đức Phật Dược Sư để giáo hóa chúng sanh.
    78

    “Hai Ngài lần lượt sẽ lên ngôi Phật” (Thứ bổ Phật xứ), hai Ngài nói trên
    sẽ lần lượt lên ngôi Phật. Khi Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thoái vị thì Bồ tát
    Nhật Quang Biến Chiếu sẽ lên thay thế, cho đến khi Ngài Nhật Quang thoái vị thì
    Bồ tát Nguyệt Quang sẽ lên thay.
    “Đều giữ vững được kho báu chánh pháp của đức Thế Tôn Dược Sư
    Lưu Ly Quang Như Lai”, Sau khi hai Bồ tát nói trên lên ngôi Phật, các Ngài sẽ y
    chiếu theo những lời nguyện của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, sẽ tự trang
    nghiêm bằng công đức và trang nghiêm của Phật Dược Sư. Các Ngài cũng sẽ y
    đúng phương pháp giáo hóa của vị tiền nhiệm mà giáo hóa chúng sanh. Các Ngài
    thọ trì và đọc tụng nguyện lực và cách thức tu hành để giữ gìn kho báu chánh pháp
    của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.
    “Bởi thế cho nên, những thiện nam tử và thiện nữ nhân, có tín tâm
    rồi”, Này Mạn Thù! Bởi vậy cho nên các thiện nam tử, thiện nữ nhân, những ai có
    lòng tin; “thời nên phát nguyện sanh sang thế giới của đức Phật kia”, tất cả đều
    nên phát nguyện sanh nơi thế giới Lưu Ly, gặp đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như
    Lai, tương lai sẽ chóng thành Phật. Bấy giờ Thế Tôn lại bảo đồng tử Mạn Thù
    Thất Lợi. Này ông Mạn Thù! Có những chúng sanh, chẳng biết thiện ác, vì
    ôm cái lòng tham lam keo bẩn, chẳng biết bố thí, và những quả báo về hạnh
    bố thí, ngu si không trí, thiếu mất tín căn, chứa nhiều của báu, chăm giữ lấy
    mãi, thấy người đến xin, tâm họ chẳng mừng. Nếu bất đắc dĩ mà phải bố thí,
    thì họ coi như cắt miếng thịt họ, rất là đau tiếc. Lại có lắm kẻ tham lam keo
    xẻn, thích giữ tiền của, đến ngay thân họ, chẳng muốn tiêu dùng, huống lại
    dám cho cha mẹ vợ con, tôi đòi sai khiến và kẻ đến xin. Những hữu tình ấy,
    đến lúc mệnh chung, sanh làm ngạ quỷ, hoặc làm bàng sanh, nhưng vì thuở
    xưa, đã từng tạm nghe danh hiệu của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang
    Như Lai, nên nay đương ở trong vòng ác thú, được tạm nhớ đến danh hiệu
    của Ngài, ngay khi nghĩ tới, liền được ra khỏi, trở về làm người, nhớ được túc
    79

    mạng, sợ khổ ác thú, chẳng ham dục lạc, ưa làm bố thí, khen người bố thí,
    mình có những gì đều không ham tiếc, dần dà đem cả đầu, mắt, chân, tay,
    máu thịt của mình, cho kẻ cầu xin, huống là tài vật.
    Nhĩ thời Thế Tôn phục cáo Mạn Thù Thất Lợi đồng tử ngôn: Mạn Thù
    Thất Lợi! Hữu chư chúng sanh, bất thức thiện ác, duy hoài tham lận, bất tri
    bố thí, cập thi quả báo, ngu si vô trí, khuyết ư tín căn, đa tụ tài bảo, cần
    gia thủ hộ, kiến khất giả lai, kỳ tâm bất hỷ, thiết bất hoạch dĩ, nhi hành thí
    thời, như cát thân nhục, thâm sinh thống tích; phục hữu vô lượng san
    tham hữu tình, tích tập tư tài, ư kỳ tự thân, thượng bất thọ dụng, hà
    huống năng dữ phụ mẫu thê tử, nô tỳ tác sử, cập lai khất giả. Bỉ chư hữu
    tình, tòng thử mệnh chung, sanh ngạ quỷ giới, hoặc bàng sinh thú, do tích
    nhân gian, tằng đắc tạm văn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai danh cố, kim
    tại ác thú, tạm đắc ức niệm, bỉ Như Lai danh, tức ư niệm thời, tòng bỉ xứ
    một, hoàn sinh nhân trung, đắc túc mệnh niệm, úy ác thú khổ, bất nhạo
    dục lạc, hiếu hành huệ thí, tán thán thí giả, nhất thiết sở hữu tất vô tham
    tích, tiệm thứ thượng năng dĩ đầu mục, thủ túc, huyết nhục, thân phận, thí
    lai cầu giả, huống dư tài vật.
    “Bấy giờ Thế Tôn lại bảo đồng tử Mạn Thù Thất Lợi”: Lúc bấy giờ đức
    Thích-ca lại bảo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi; “Này ông Mạn Thù! Có những chúng
    sanh, chẳng biết thiện ác”, có những chúng sanh không hiểu thế nào là thiện hay
    ác; “vì ôm cái lòng tham lam keo bẩn, chẳng biết bố thí”, chỉ biết một thứ là
    lòng tham lam và keo bẩn, không biết bố thí, không biết giúp đỡ người.
    80

    Bố thí nghĩa là mình lấy đồ của mình để cho người trong lúc người ta không
    có. Có ba loại bố thí là tài thí, pháp thí và vô úy thí. Tài thí là bố thí bằng của cải
    hay bằng hiện vật. Pháp thí là đem những điều mình hiểu biết rõ ràng về Phật Pháp
    để nói cho mọi người nghe, tùy cơ duyên thích hợp mà mang pháp đến cho người,
    giống như y sĩ tùy theo bệnh tình của con bệnh mà cho thuốc. Còn như thấy kẻ
    khốn khổ gian nan, trong cơn nguy cấp, đương lúc lo sợ hãi hùng mà ta có thể
    mang đến cho họ sự an ổn trong lòng, khiến họ hết sợ hãi, thì đây gọi là vô úy thí .
    Quý vị không có của để thực hành tài thí thì quý vị bố thí pháp; nếu quý vị
    không có pháp thì quý vị có thể thực hành lối vô úy thí.
    “Và những quả báo về hạnh bố thí”, quý vị còn có thể “bố thí quả báo”
    nghĩa là giảng về hậu quả của những hành động bố thí, đại khái như trong Kinh
    Địa Tạng, phẩm thứ mười, có giảng về ý nghĩa của câu “xả nhất đắc vạn báo”, bỏ
    ra một mà sau lấy về cả muôn.
    “Ngu si không trí, thiếu mất tín căn”, ngu xuẩn không có trí tuệ, thiếu
    lòng tin. Người không hiểu lẽ nhân quả là người ngu si, không có trí tuệ. Có
    trường hợp gặp được Phật Pháp mà tỏ ý hồ nghi không tin là vì duyên cớ gì? Vì tín
    căn không đủ, và không có “mắt chọn pháp” (trạch pháp nhãn). Quý vị nói phải thì
    họ cho là trái, ngược lại, nói trái thì cho là phải. Họ không đủ trí tuệ để phán đoán
    cái gì là đạo và cái gì không phải đạo.
    “Chứa nhiều của báu”: Tích tụ cho nhiều tiền của, muốn làm nô lệ cho
    tiền tài; “chăm giữ lấy mãi” (cần gia thủ hộ), chăm chăm giữ của, từ sớm đến tối
    không lúc nào quên, rồi đêm nằm cho đến sáng không ngủ được, chỉ vì tưởng nhớ
    đến tiền của. Tìm mọi phương pháp để giữ của mà ăn không ngon, ngủ không yên,
    khốn khổ biết chừng nào!
    “Thấy người đến xin, tâm họ chẳng mừng”, thấy người đến xin ăn hoặc
    thấy kẻ hành khất đến nhà thì cảm thấy trong lòng không vui, bảo rằng: “Sao các
    người lại đến đây? Thật đáng ghét!”
    81

    “Nếu bất đắc dĩ mà phải bố thí”, giả thử bất đắc dĩ mà phải bố thí, chẳng
    hạn khi lâm vào hoàn cảnh không thể từ chối, hoặc từ chối thì sẽ gặp rắc rối, nghĩa
    là bị dồn vào chỗ phải bố thí, thì lúc đó họ sẽ cảm thấy “như cắt miếng thịt họ,
    rất là đau tiếc”, giống như người bị cắt vào da thịt, rất đau đớn và tiếc lắm!
    “Lại có lắm kẻ tham lam keo xẻn”, cũng có vô số những kẻ tham lam keo
    kiệt; “thích giữ tiền của”, tích tụ của cải tiền tài; “đến ngay thân họ, chẳng
    muốn tiêu dùng”, tiêu xài cho chính mình mà cũng chưa chịu thọ dụng; “huống
    lại dám cho cha mẹ vợ con, tôi đòi sai khiến và kẻ đến xin” huống lại tiêu xài
    cho cha mẹ, con cái, nô tỳ và những kẻ hành khất đến xin.
    “Những hữu tình ấy”, tức là số người tham lam keo kiệt vừa kể; “đến lúc
    mệnh chung, sanh làm ngạ quỷ”, một khi chết đi sẽ thành quỷ đói. Bởi tính keo
    kiệt, bo bo giữ của, không dám buông bỏ nên họ sẽ sanh làm thứ quỷ nghèo, quỷ
    đói, quỷ giữ của; “hoặc làm bàng sanh”, tức làm kiếp súc sanh. Đó là điều không
    thể tránh khỏi.
    “Nhưng vì thuở xưa, đã từng tạm nghe danh hiệu của đức Thế Tôn
    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”, nhân vì số chúng sanh đó, trong kiếp trước
    làm người, đã tình cờ được nghe người ta niệm danh hiệu đức Dược Sư Lưu Ly
    Quang Như Lai; “nên nay đương ở trong vòng ác thú, được tạm nhớ đến danh
    hiệu của Ngài”, nay đương ở trong ba đường ác, chợt nhớ lại danh hiệu của đức
    Dược Sư; “ngay khi nghĩ tới, liền được ra khỏi, trở về làm người”, ngay khi
    nhớ tới, bèn thoát ra khỏi kiếp ngạ quỷ hay kiếp bàng sanh, để trở lại thế gian làm
    người.
    “Nhớ được túc mạng”, nhớ lại các sự tình trong kiếp trước, gọi là “túc
    mạng thông”; “sợ khổ ác thú, chẳng ham dục lạc, ưa làm bố thí, khen người bố
    thí”, rất sợ các quả khổ trong vòng ác đạo, không ham các dục lạc, mà ham thực
    hành bố thí lại còn hay khen ngợi những ai hay bố thí; “mình có những gì đều
    không ham tiếc”, phàm tất cả những thứ của mình, đều không tham tiếc; “dần dà
    82

    đem cả đầu, mắt, chân, tay, máu thịt của mình, cho kẻ cầu xin, huống là tài
    vật”, dần dà còn có thể cho cả đầu, mắt, tay, chân, máu, thịt nếu có người cầu xin,
    huống chi là xả bỏ các thứ tiền tài và vật dụng.
    Bố thí là một pháp môn tu phước. Chúng ta thử xem trên thế gian, có kẻ
    nghèo người giàu, tại sao vậy? Kiếp trước keo kiệt, kiếp này nghèo; kiếp trước bố
    thí, kiếp này giàu. Có câu nói: “Yếu xả tài năng đắc, bất xả tựu bất đắc”, nghĩa là
    phải bỏ tiền tài ra thì có được (tiền tài), chẳng chịu bỏ, tất chẳng được (tiền tài), đó
    là lẽ nhân quả, chúng ta đừng có lầm nhân quả. Nếu lầm thì sai một ly sẽ sai đi
    ngàn dặm.
    Nhất là, chúng ta khi đã đến chùa lạy Phật, ta phải nghĩ tới lợi ích cho người
    và phải thực hành bố thí. Chớ có nghĩ rằng tới chùa là để kiếm chút lợi cho mình,
    hoặc lo ngại mình sẽ bị thiệt, thậm chí có người còn lén lấy của chùa các thức ăn,
    các đồ dùng, ăn cắp thứ này thứ kia, đó chính là gieo cái nhân để rồi bị đọa vào các
    đường ác.
    Mỗi người trong chúng ta khi về nhà mình nên bảo cho các bạn bè thân thích
    biết rằng khi đến bất cứ chùa miếu nào cũng đừng mang ý nghĩ kiếm lợi lộc, đừng
    nên ăn cắp một thứ gì của chùa, kẻo mang nghiệp tội vì các hành vi của mình. Nếu
    quý vị không nói, rủi họ mang tội thì quý vị cũng chịu tội một phần. Dạy cho họ
    đạo lý nhân quả tuần hoàn, chớ có lầm nhân quả!
    Quý vị thấy Kinh của Phật chỉ dạy bố thí, chớ không nói người khác bố thí
    cho mình. Phật giáo là đem lợi ích cho người, nếu không như vậy thì sẽ biến thành
    “đức trung chi tặc”, giặc trong số người đức hạnh, là kẻ phá hoại Phật giáo. Tỷ như
    chúng ta đi lôi kéo mọi người hộ pháp, tưởng làm chuyện Phật sự, kỳ thực chỉ là
    tạo thêm tội nghiệp.
    Quý vị phải nhớ kỹ! Hãy mau mau tỉnh ngộ! Mau mau hồi quang phản
    chiếu! Phải mau mau tỉnh thức! Có lỗi lầm thì cải sửa ngay; nếu không có thì hãy
    83

    cố lên, để thành một Phật tử tốt. Chớ giả dạng Phật tử để lộn sòng, lợi dụng nước
    đục thả câu, toan kiếm chút lợi lộc. Chớ lấy Phật giáo để khai thác làm ăn, đó là cái
    nhân dẫn tới địa ngục.
    Hồi trước có người đến chùa Kim Luân chỉ cốt để bán đồ trang sức, mà
    không biết rằng vậy là tự chuốc lấy quả báo ghê gớm. Bởi vậy, quý vị ráng cẩn
    thận, rủi có bị đọa tôi cũng không có cách gì cứu vớt được.
    Còn nữa này ông Mạn Thù Sư Lợi! Nếu những hữu tình, tuy theo Như
    Lai, thọ học Phật Pháp, mà phá giới luật; lại có kẻ tuy chẳng phá giới luật,
    nhưng phá quy tắc; kẻ giữ được cả giới luật quy tắc, nhưng hủy chánh kiến;
    lại có kẻ tuy không hủy chánh kiến nhưng không cầu học hỏi; nên không hiểu
    rõ những điều Phật giảng thâm nghĩa khế kinh; có kẻ học nhiều lại tăng
    thượng mạn, vì tăng thượng mạn, che lấp tâm rồi, cho mình là phải, người
    khác là sai, hủy báng chánh pháp, làm bạn với ma, người ngu như vậy, tự
    mình đi vào con đường tà kiến, lại còn làm cho vô lượng triệu lần hữu tình bị
    đọa xuống hầm nguy hiểm. Những hữu tình này trôi quanh mãi mãi trong
    vòng địa ngục, bàng sanh quỷ thú. Nếu mà được nghe danh hiệu Dược Sư
    Lưu Ly Quang Như Lai liền bỏ ác hạnh, tu các thiện pháp, chẳng đọa ác thú.
    Dầu có kẻ nào chẳng thể bỏ được hết mọi ác hạnh mà tu thiện pháp, phải đọa
    ác thú, vì nhờ sức thần bổn nguyện của Phật, khiến họ hiện tiền, đã được tạm
    nghe danh hiệu của Phật, họ sẽ thoát thân nơi ác thú kia, lại được làm người,
    chánh kiến tinh tấn, khéo điều hòa được tâm ý an vui, liền bỏ được nhà, đến
    chốn không nhà, và thọ trì học trong pháp Như Lai, không hề hủy phạm
    chánh kiến đa văn, hiểu nghĩa thâm sâu, lìa tăng thượng mạn, chẳng báng
    chánh pháp, chẳng bạn với ma, dần dần tu hành, các hạnh Bồ tát, chóng
    thành viên mãn.
    84

    Phục thứ, Mạn Thù Thất Lợi! Nhược chư hữu tình tuy ư Như Lai thọ
    chư học xứ, nhi phá Thi-la, hữu tuy bất phá Thi-la, nhi phá quỹ tắc, hữu ư
    thi la, quỹ tắc tuy đắc bất hoại, nhiên hủy chánh kiến, hữu tuy bất hủy
    chánh kiến nhi khí đa văn, ư Phật sở thuyết khế kinh thâm nghĩa, bất năng
    giải liễu. Hữu tuy đa văn, nhi tăng thượng mạn, do tăng thượng mạn, phú
    tế tâm cố, tự thị phi tha, hiềm báng chánh pháp, vi ma bạn đảng, như thị
    ngu nhân tự hành tà kiến, phục linh vô lượng câu chi hữu tình, đọa đại
    hiểm khanh, thử chư hữu tình ưng ư địa ngục, bàng sanh, quỷ thú, lưu
    chuyển vô cùng, nhược đắc văn thử Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai danh
    hiệu, tiện xả ác hạnh, tu chư thiện pháp, bất đọa ác thú; thiết hữu bất
    năng xả chư ác hạnh, tu hành thiện pháp, đọa ác thú giả, dĩ bỉ Như Lai bổn
    nguyện uy lực, linh kỳ hiện tiền tạm văn danh hiệu, tòng bỉ mệnh chung,
    hoàn sanh nhân thú, đắc chánh kiến tinh tấn, thiện điều ý lạc, tiện năng xả
    gia, thú ư phi gia, Như Lai pháp trung, thọ trì học xứ, vô hữu hủy phạm,
    chánh kiến đa văn, giải thậm thâm nghĩa, ly tăng thượng mạn, bất báng
    chánh pháp, bất vi ma bạn, tiệm thứ tu hành chư Bồ tát hạnh, tốc đắc viên
    mãn.
    “Còn nữa này ông Mạn Thù Sư Lợi!”, Đức Phật Thích-ca e ngại rằng các
    chúng sanh không chú ý đến các nguyện lực và oai thần của Dược Sư Lưu Ly
    Quang Như Lai, mà chỉ nghe như gió thoảng bên tai, do đó, với đại bi tâm, Ngài
    liền giảng thật tường tế để chúng ta, các chúng sanh vào thời mạt pháp được lợi
    ích. Ngài nói:
    85

    “Nếu những hữu tình, tuy theo Như Lai, thọ học Phật Pháp”, nếu những
    chúng sanh tuy học tập Phật Pháp, nghiên cứu kinh điển; “mà phá giới luật” (nhi
    phá Thi-la), nhưng phá giới luật. “Thi-la” (Sila) là tiếng Phạn, nghĩa là giới luật.
    Công dụng của giới luật là ngăn điều ác, ngừa điều quấy, và những người nói trên
    hành động chẳng kể đến nguyên tắc này, nên họ là những người phá giới.
    “Lại có kẻ tuy chẳng phá giới luật, nhưng phá quy tắc” (Hữu tuy bất phá
    Thi-la, nhi phá quỹ tắc), có một số tuy không phá giới, lại phá quy tắc. Quỹ tắc là
    những luật lệ phải tuân theo để sống chung với nhau trong một cộng đồng, coi như
    một thứ quy tắc.
    “Kẻ giữ được cả giới luật quy tắc, nhưng hủy chánh kiến”, có một số
    giữ giới, không phạm quy tắc, lại hủy chánh kiến, tức là không có chánh tri chánh
    kiến, hành động kỳ quái, đầy những tà tri tà kiến.
    “Lại có kẻ tuy không hủy chánh kiến” có một số, tuy không hủy chánh
    kiến; “nhưng không cầu học hỏi”, nhưng lại lười biếng không chịu khó chuyên
    cần học tập, để thời gian trôi qua uổng phí, bỏ phí cơ hội được học hỏi trí huệ bát
    nhã trong kinh điển, do đó, “nên không hiểu rõ những điều Phật giảng thâm
    nghĩa khế kinh”, đối với ý nghĩa thâm sâu mà Phật giảng trong khế kinh, họ
    không hiểu rõ. Kinh điển của Phật là những khế kinh,vì “khế” là khế hợp, trên thì
    hợp với lý của chư Phật, dưới thì hợp với căn cơ của chúng sanh.
    “Có kẻ học nhiều lại tăng thượng mạn”, có số người, tuy đa văn lại tăng
    thượng mạn. Họ không phá giới, không phạm quy tắc, không phá chánh kiến, cũng
    không bỏ đa văn; họ chịu khó học hỏi, rộng xem kinh điển, biết nhiều Phật Pháp,
    nhưng trong lòng tự cho mình là giỏi, người khác không ai bằng mình, đưa cao sự
    ngạo mạn lên, đó gọi là cống cao ngã mạn; “vì tăng thượng mạn, che lấp tâm
    rồi”, do tư tưởng tăng thượng mạn mà trí huệ bị che lấp; “cho mình là phải,
    người khác là sai” (tự thị phi tha), tự cho mình là phải, còn người khác là sai;
    “hiềm báng chánh pháp”, hủy báng chánh pháp. Đối với ai đề xướng chánh pháp,
    86

    những người vừa nói trên liền lên tiếng chê bai, rồi chỉ trích các lề lối thực tập tỷ
    như mỗi ngày ăn một bữa, đêm không nằm ngủ, không giữ tiền bạc, lại cho rằng
    thời Mạt pháp không ai tu được! Không hiểu họ học Phật Pháp gì mà lạ vậy!
    “Làm bạn với ma”, họ trở thành bạn của loài ma, họ hàng của Ma vương,
    cùng một đảng với ma; “người ngu như vậy” những người như vậy “tự mình đi
    vào con đường tà kiến”, tự mình mang tà tri tà kiến, hành động không chánh
    đáng; “lại còn làm cho vô lượng triệu lần hữu tình”, lại còn khiến cho vô lượng
    câu chi chúng sanh, nghĩa là vô lượng số; “bị đọa xuống hầm nguy hiểm”, rơi
    vào những cái hầm rất khó thoát ra, rất mực nguy hiểm; “Những hữu tình này
    trôi quanh mãi mãi trong vòng địa ngục, bàng sanh quỷ thú”, những hữu tình
    ấy phải trôi nổi mãi, trong các vòng ác thú như địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, tức là
    những loại đã từng phạm những tội thuộc về thập ác, ngũ nghịch, phải bị đọa đầy
    trong cảnh địa ngục vô gián.
    “Nếu mà được nghe danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”, nếu
    được nghe danh hiệu của Ngài Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai “liền bỏ ác hạnh,
    tu các thiện pháp, chẳng đọa ác thú” liền bỏ hết các hạnh xấu, sửa đổi lại các
    hành vi, rồi tu các điều lành, nên không bị sanh trở lại trong các vòng ác đạo, như
    tại địa ngục, làm quỷ đói, làm thân súc sanh hay A-tu-la.
    “Dầu có kẻ nào chẳng thể bỏ được hết mọi ác hạnh”, giả tỷ họ không bỏ
    ngay được những hạnh xấu để “tu thiện pháp”, để thực hành các điều thiện, đại
    khái như giữ giới luật, học hỏi nhiều (đa văn), giữ chánh tri chánh kiến, tuân thủ
    các quy tắc, giả sử họ không làm được các điều này, họ “phải đọa ác thú”, tức bị
    đọa xuống địa ngục, làm quỷ đói hay làm súc sanh; “vì nhờ sức thần bổn nguyện
    của Phật, khiến họ hiện tiền, đã được tạm nghe danh hiệu của Phật”, do thần
    lực các bổn nguyện của đức Như Lai, khiến họ trước mắt được nghe tạm danh hiệu
    của Ngài, rồi từ đó “họ sẽ thoát thân nơi ác thú kia, lại được làm người”, khi
    hết kiếp đó, trở về làm người; “chánh kiến tinh tấn, khéo điều hòa được tâm ý
    87

    an vui”, có được chánh tri chánh kiến, tinh tấn tu hành nên có khả năng điều hòa
    tâm ý, vĩnh viễn hoan hỷ và vui sướng trong lòng.
    Tại sao họ được như vậy? Bởi họ đã hiểu rằng các thói xấu ích kỷ, tự lợi,
    tranh, tham và cầu là nguyên nhân đưa người ta vào các cõi ác, nên họ xả bỏ các
    tập khí trên. Làm được như vậy gọi là “khéo điều hòa được tâm ý an vui” (thiện
    điều ý lạc).
    “Liền bỏ được nhà, đến chốn không nhà”: họ có khả năng nhận thức
    đúng, biết xả bỏ nên có thể bỏ lại gia đình để xuất gia tu hành.
    “Và thọ trì học trong pháp Như Lai, không hề hủy phạm chánh kiến đa
    văn”, ở trong pháp của đức Như Lai Dược Sư Lưu Ly Quang, họ học tập, họ
    không phạm giới và phạm quy tắc, không hủy chánh kiến, không kiêu ngạo, họ
    thường có chánh kiến lại chuộng đa văn, không lười biếng, nói chung là chuyên
    cần học hỏi Phật Pháp; “hiểu nghĩa thâm sâu, lìa tăng thượng mạn”, họ hiểu
    tường tận những ý nghĩa thâm sâu trong kinh điển, họ lìa khỏi ý tưởng cống cao
    ngã mạn.
    “Chẳng báng chánh pháp, chẳng bạn với ma, dần dần tu hành, các
    hạnh Bồ tát, chóng thành viên mãn”, họ không chê bai chánh pháp, không làm
    bạn với Ma vương, không vào đảng của loài ma, rồi dần dà tu theo các hạnh Bồ tát,
    mau chóng đạt được thành quả viên mãn, nghĩa là đạt được quả vô thượng Bồ-đề
    Chánh Đẳng Chánh Giác.
    Còn nữa, này ông Mạn Thù Sư Lợi! Nếu những hữu tình, keo tham tật
    đố, khen mình chê người, sẽ phải đọa vào trong ba đường ác, bao nhiêu ngàn
    năm, chịu mọi cực khổ, chịu cực khổ rồi, ở đấy mãn hạn, rồi lên nhân gian,
    làm thân trâu ngựa, lừa và lạc đà, thường bị roi đánh, đói khát khổ não, lại
    thường mang nặng, theo đường mà đi, hoặc được làm người, vào hàng hạ tiện,
    làm kẻ tôi đòi, bị người sai khiến, chẳng được tự tại, nếu xưa làm người, đã
    88

    từng được nghe danh hiệu Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, do
    nhân lành đó, nay còn nhớ lại, hết lòng quy y, nhờ thần lực Phật, giải thoát
    hết khổ, các căn thông lợi, trí tuệ đa văn, thường cầu thắng pháp, thường gặp
    bạn lành, dứt hẳn lưới ma, đập vỡ cái vỏ vô minh u tối, cạn dòng phiền não,
    giải thoát dứt hết sanh già bệnh chết, ưu sầu khổ não.
    Phục thứ, Mạn Thù Thất Lợi! Nhược chư hữu tình, san tham tật đố,
    tự tán hủy tha, đương đọa tam ác thú trung, vô lượng thiên tuế thọ chư
    kịch khổ, thọ kịch khổ dĩ, tòng bỉ mệnh chung, lai sinh nhân gian, tác ngưu
    mã đà lư, hằng bị tiên thát, cơ khát bức não, hựu thường phụ trọng, tùy lộ
    nhi hành, hoặc đắc vi nhân, sinh cư hạ tiện, tác nhân nô tỳ, thọ tha khu
    dịch, hằng bất tự tại, nhược tích nhân trung, tằng văn Thế Tôn Dược Sư
    Lưu Ly Quang Như Lai danh hiệu, do thử thiện nhân, kim phục ức niệm,
    chí tâm quy y, dĩ Phật thần lực, chúng khổ giải thoát, chư căn thông lợi, trí
    huệ đa văn, hằng cầu thắng pháp, thường ngộ thiện hữu, vĩnh đoạn ma
    quyến, phá vô minh xác, kiệt phiền não hà, giải thoát nhất thiết sinh lão
    bệnh tử, ưu sầu khổ não.
    “Còn nữa, này ông Mạn Thù Sư Lợi!”: Đức Phật Thích-ca lại bảo Bồ tát
    Văn Thù Sư Lợi; “Nếu những hữu tình, keo tham tật đố”, nếu những hữu tình
    keo kiệt, tham lam, hay ganh ghét. Keo kiệt là nói những hạng bo bo không dám bỏ
    tiền ra, cam tâm làm kẻ nô lệ, làm trâu làm ngựa để giữ tiền lại cho con cháu; tham
    là ham lợi, ưa tích lũy tiền của, càng nhiều càng tốt, cho đến ham cả đồ rác rưởi,
    nghĩ rằng rác cũng có thể biến thành năng lượng; tật đố là một loại ác tâm, tiềm
    tàng ở bên trong. Khi nó hiện ra ý nghĩ thì nó phát sinh thành lòng ghen tị, biểu
    89

    hiện thành những hành động phương hại người khác, như đố kỵ người có tài năng,
    có trí thông minh, người gặp được phước báo, những ai được hưởng vui sướng,
    hay gặp sự tình thuận lợi.
    “Khen mình chê người”, tự khen mình và chê bai kẻ khác. Trong giới luật
    Bồ tát, điều này được giảng rất kỹ càng. Nếu thực sự quý vị có điều hay, hà tất quý
    vị phải tự tán dương? Người khác cũng có con mắt tinh đời, quý vị hay hay dở
    người ta cũng biết, cần chi phải tự khen mình. Có người tự giới thiệu rằng: “Quý vị
    biết tôi không? Là một đại Bồ tát đó!”; hoặc bảo: “Quý vị biết tôi chứ? Tôi là
    người đã được khai ngộ”; hoặc “tôi có thần thông”. Đó là cách tự quảng cáo, tự
    tuyên truyền, tự tán dương mình. Còn người khác thì luôn luôn sai, không ai đúng
    hết. Ngay đến ông trời cũng không công bằng, đất thì thiếu từ bi, đức Phật cũng
    không tốt nữa!
    Những người như vậy ư?
    “Sẽ phải đọa vào trong ba đường ác”, đáng bị đọa vào các đường ác,
    xuống địa ngục, hoặc làm quỷ đói, hoặc làm thân thú vật và sẽ trải qua “bao nhiêu
    ngàn năm, chịu mọi cực khổ” (vô lượng thiên tuế thọ chư kịch khổ), bao nhiêu
    ngàn năm trong vòng ác đạo để phải chịu khổ; “kịch khổ” nghĩa là khổ đến cùng
    cực. Đó là quả báo của những ai khen mình chê người, keo kiệt, tham lam, tật đố.
    Họ có chút đỉnh đức hạnh nào, có chút phước báo nào thì đã tiêu hết nên mới bị
    khổ não như vậy.
    “Chịu cực khổ rồi, ở đấy mãn hạn, rồi lên nhân gian”, chịu khổ não
    xong, hết kiếp đó, trở về nhân gian, “làm thân trâu ngựa, lừa và lạc đà”, làm
    thân trâu, ngựa, lạc đà, lừa. Vì lý do trong vô số kiếp, họ đã ở trong ba đường ác,
    khổ não vô cùng trong cảnh địa ngục, nên khi lên cõi nhân thế, các chúng sanh ấy
    chưa thể mang thân người được, phải làm các thân trâu, ngựa, lạc đà và lừa.
    90

    “Thường bị roi đánh, đói khát khổ não, lại thường mang nặng, theo
    đường mà đi”, thường bị chủ nhân dùng roi đánh đập, đói và khát làm cho khổ sở,
    lại thường phải mang nặng, cứ theo đường mà bước đi.
    Khi quả báo đã gần xong, các chúng sanh đó “hoặc được làm người”, được
    sanh làm người, nhưng đầu thai vào những gia đình nghèo hèn, trong cảnh cơm
    không đủ ăn, áo không đủ mặc, không nơi trú ngụ, cái gì cũng thiếu thốn, tóm lại là
    nghèo mạt không ai có thể nghèo hơn, cho nên nói “sanh vào hạ tiện”; “làm kẻ
    tôi đòi, bị người sai khiến, chẳng được tự tại” làm thân tôi đòi , làm đầy tớ như
    nô bộc, tỳ nữ, bị người sai khiến, không lúc nào được tự tại.
    “Nếu xưa làm người, đã từng được nghe danh hiệu Thế Tôn Dược Sư
    Lưu Ly Quang Như Lai”, giả sử những hữu tình ấy, trong kiếp trước làm người,
    tình cờ được nghe đến danh hiệu của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, “do nhân
    lành đó, nay còn nhớ lại”, do cái nhân lành ấy, cái chủng tử tốt ấy, mà nay nhớ lại
    được danh hiệu của Ngài; “chí tâm quy y”, dùng tâm chí thành khẩn thiết để quy
    y Ngài; “nhờ thần lực Phật, giải thoát hết khổ”, do thần lực của Ngài, tức oai
    lực của các nguyện lớn, tất cả các sự khổ não đều tiêu ma.
    “Các căn thông lợi”, cả sáu căn đều thông lợi. Mắt thì sáng, mọi cảnh vật
    đều hiện ra minh bạch; tai thính nên nghe âm thanh rõ ràng; mũi phân biệt hương
    một cách sắc bén; lưỡi nếm biết thưởng thức mùi vị, hợp hay không hợp khẩu vị;
    nói về thân thì cảm giác xúc chạm rất là bén nhậy, cái giác đó là cái biết của trí
    huệ; sau hết là ý và đối tượng của nó là pháp - ý duyên pháp. Trong ý thì trí huệ
    hiện tiền, trí nhớ thì bền bỉ một cách phi thường.
    “Trí huệ đa văn”, lại có trí huệ, biết nhiều đạo lý, học thức quảng bác;
    “thường cầu thắng pháp”, thường cầu học hỏi để thêm tiến bộ, không coi sự hiểu
    biết ít ỏi của mình là đủ, chớ không phải nói đại khái như: “Ồ! Với tôi thì đã đủ
    rồi! Nghỉ thôi!” Những ai có căn lành gặp được chúng sanh của Dược Sư Lưu Ly
    Quang Như Lai thì họ không lười biếng, họ “thường gặp bạn lành”, gặp bạn tốt,
    91

    những thiện tri thức có thể giúp đỡ họ, cuối cùng có thể “dứt hẳn lưới ma”, vĩnh
    viễn thoát khỏi lưới của loài ma; “đập vỡ cái vỏ vô minh u tối”, phá được cái vỏ
    vô minh. Điều này rất là trọng yếu đối với chúng ta, bởi mục đích của người tu
    hành chính là phá màn vô minh. Giống như cái vỏ trứng, ngăn cách con gà với
    ngoại giới, vô minh chính là một cái vỏ nhốt con người bên trong. Quý vị ở trong
    vỏ kín thì đâu còn biết gì chuyện bên ngoài! Quý vị hoàn toàn sống trong sự mù
    mờ, đầy ắp những vọng tưởng trong đầu óc, từ đó dẫn quý vị tới những hành động
    bất thiện.
    “Cạn dòng phiền não, giải thoát dứt hết sanh già bệnh chết, ưu sầu khổ
    não.”, làm cho cạn con sông phiền não, thoát ly hết mọi vấn đề sanh, già, bệnh,
    chết, cùng những sầu bi khổ não, cho nên hằng sống trong cảnh “Thường, Lạc,
    Ngã, Tịnh”, gọi là bốn đức của Niết bàn.
    ※※※
    ※※※
    ※※※
    Những nết cáu giận của chúng ta, thực tình chẳng phải do thức ăn mang lại,
    cũng chẳng phải do trời hay đất tạo ra, chẳng phải do thời tiết tác động, mà chính
    là do cái vô minh của chúng ta mà ra. Vậy vô minh từ đâu mà tới? Vô minh phát
    sinh từ lòng vị kỷ - tự tư - nó chi phối chúng ta, khiến chúng ta sanh nóng giận và
    phiền não. Chính vì lòng vị kỷ, tự tư, nên ta mới sợ mình bị thiệt thòi. Bởi thiệt
    thòi nên cáu giận, rồi tranh chấp. Nếu quả quý vị không tranh, không tham, không
    cầu, không ích kỷ, không tự lợi, thì nóng giận đâu còn nữa!
    Bồ tát Quán Thế Âm, Ngài là một vị đại từ bi. Nếu quý vị xưng danh hiệu
    của Ngài, Ngài sẽ giải trừ được mọi thống khổ của quý vị. Ngài vốn có nhân duyên
    lớn đối với chúng ta, đối với hết thảy các chúng sanh. Nếu chúng ta muốn kết
    duyên với Ngài, ta hãy niệm nhiều danh hiệu của Ngài và để ánh sáng của ta hợp
    chung với ánh sáng của Ngài.
    92

    Bồ tát Địa Tạng thì có nguyện lực lớn. Ngài không đành lòng trông thấy các
    chúng sanh chịu khổ. Nhờ nguyện lực lớn của Ngài, nếu chúng ta niệm danh hiệu
    của Ngài, tán thán danh hiệu, Ngài sẽ dùng thần lực dẫn dắt chúng ta chóng thành
    Phật quả.
    Có phải hai vị Bồ tát Quán Âm và Địa Tạng đã đăng những lời quảng cáo
    cho chính mình trong kinh Phật chăng? Không phải! Những lời đó là do Phật nói
    ra, là chân ngữ, là thực ngữ, chẳng phải là vọng ngữ, chính Phật xưng tán như vậy,
    nên chúng ta mới biết đến từ bi lớn và nguyện lực lớn của hai Ngài.
    Còn nữa này ông Mạn Thù Thất Lợi! Nếu những hữu tình, thích gây
    ngang ngược, tố nhau kiện nhau, làm cho não loạn, cả mình cả người, lấy thân
    miệng ý, tạo thêm mãi ra, bao nhiêu nghiệp ác, sự tình đắp đổi, chẳng có lợi
    ích, mưu hại lẫn nhau, đi gọi các thần, ở rừng ở núi, ở cây ở mả, rồi giết chúng
    sanh, lấy máu lấy thịt, cúng tế bọn quỷ, dược xoa la sát, viết tên kẻ thù, làm
    hình kẻ thù, làm bùa chú ác, để mà nguyền rủa, yểm bùa bỏ độc, hô quỷ nhập
    vào, thây chết đứng dậy, sai hại mạng người, và thương tổn thân của các kẻ
    thù. Những hữu tình ấy, nếu mà được nghe danh hiệu Dược Sư Lưu Ly
    Quang Như Lai, thì ác sự kia, đều chẳng hại được, lần lượt tất cả đều khởi từ
    tâm, lợi ích an vui, không còn có ý não hại hiềm thù, ai cũng vui mừng, mọi
    vật thọ dụng, tự cho là đủ, chẳng lấn của nhau, mà là cũng làm lợi ích cho
    nhau.
    Phục thứ, Mạn Thù Thất Lợi! Nhược chư hữu tình, hiếu hỷ quai ly,
    cánh tương đấu tụng, não loạn tự tha, dĩ thân ngữ ý, tạo tác tăng trưởng
    chủng chủng ác nghiệp, triển chuyển thường vi bất nhiêu ích sự, hỗ tương
    mưu hại, cáo triệu sơn lâm, thụ trũng đẳng thần, sát chư chúng sinh, thủ
    93

    kỳ huyết nhục, tế tự dược xoa, la sát bà đẳng, thư oán nhân danh, tác kỳ
    hình tượng, dĩ ác chú thuật, nhi chú trớ chi, yểm mị cổ đạo, chú khởi thi
    quỷ, linh đoạn bỉ mệnh, cập hoại kỳ thân; thị chư hữu tình, nhược đắc văn
    thử Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai danh hiệu, bỉ chư ác sự, tất bất năng
    hại, nhất thiết triển chuyển, giai khởi từ tâm, lợi ích an lạc, vô tổn não ý,
    cập hiềm hận tâm, các các hoan duyệt, ư tự sở thọ, sinh ư hỷ túc, bất
    tương xâm lăng, hỗ vi nhiêu ích.
    Đoạn kinh trên nói lên ý nghĩa của chánh thắng tà, của chân diệt vọng. Đức
    Phật Thích-ca lại bảo: “Còn nữa này ông Mạn Thù Thất Lợi!” này ông Mạn Thù
    Sư Lợi!, “Nếu những hữu tình, thích gây ngang ngược” (nhược chư hữu tình,
    hiếu hỷ quai ly). Chữ “quai ly” có nghĩa là đi ngược với chân lý, cái gì không hợp
    lý, lấy trái coi là phải, lấy phải coi là trái, lấy trắng làm đen, lấy đen làm trắng, có
    tính cách ngang ngạnh “cưỡng từ đoạt lý”, nghĩa là quý vị đã vô lý, lại còn lấn
    lướt, lấy thế của mình để áp bức kẻ khác.
    “Tố nhau kiện nhau” (Cánh tương đấu tụng), tố nhau kiện nhau. “Đấu
    tụng” tức là thưa kiện nhau trước cửa quan. Đành rằng pháp đình là nơi mang lại
    công lý, nhưng quý vị dùng “cưỡng từ đoạt lý” - tuy là vô lý, nhưng quý vị cố vặn
    vẹo để nó thành hợp lý - tức là một cách điên đảo, làm mất công lý. Nếu như quý
    vị thua kiện, quý vị lại đi kháng cáo lên tòa trên, nếu tòa trên quý vị thua nữa, quý
    vị sẽ thượng cáo lên tới tối cao pháp viện. Đấu tụng nó là như vậy!
    “Làm cho não loạn, cả mình cả người”, cả hai bên đều không an vui; “lấy
    thân miệng ý, tạo thêm mãi ra, bao nhiêu nghiệp ác”, lấy thân miệng ý tạo thêm
    mãi ra bao nhiêu nghiệp ác. Cái thân thì gây ra các nghiệp ác như giết người, ăn
    cắp và dâm ô, ý thì cho khởi lên các niệm tham, sân, si, còn miệng thì nói ra những
    94

    lời ác độc, dối trá, thêu dệt, nói hai lưỡi, tóm lại là mười điều ác (thập ác). Sự tạo
    tác cứ dần dần tăng trưởng, không phải chỉ có một loại nghiệp ác mà rất nhiều loại,
    bao quát hết tất cả mọi sự tình trên thế gian này.
    “Sự tình đắp đổi, chẳng có lợi ích, mưu hại lẫn nhau” Trao đi đổi lại
    (Triển chuyển) những điều bất lợi cho nhau, để mưu hại nhau. Điều gì có thể dung
    thứ cho nhau thì không dung thứ, còn điều gì có lợi cho nhau thì không làm, tóm
    lại chỉ nghĩ lợi cho mình, không lợi cho người. Đã vậy còn tính hại nhau: quý vị
    hại tôi, tôi hại quý vị. Hại không được thì nhờ tới quỷ thần, nên mới “đi gọi các
    thần, ở rừng ở núi, ở cây ở mả”, gọi các thần núi, thần cây, thần ở trong mồ mả.
    Họ lễ lạy đủ thứ thần, nào thần núi, thần thổ địa, thần mèo, thần chó, cái gì
    cũng lạy được, thậm chí lạy cả thần phân, thần nước tiểu, vậy đó! Họ vốn là những
    kẻ dơ dáy nên có thể lạy cả những thần dơ dáy. Họ đến những nơi đó cầu đảo,
    khấn rằng: “Thần cây ơi! Xin Ngài linh thiêng, làm sao khiến cho nó chết ngay!
    Tôi ghét nó lắm! Tôi lạy Ngài, Ngài hiển linh đi! Nếu Ngài giúp cho tôi sẽ giết gà
    cúng Ngài, mang chuột đến cúng Ngài!” Họ lạy cả thần trâu, thần rắn, thần ếch
    nhái, thần chuột v.v..
    Họ còn gọi các cô hồn ở trong mồ mả, các quỷ ở bãi tha ma. Họ khấn: “Thần
    ơi! Hãy phù hộ cho tôi! Đừng phù hộ cho nó! Nó là một kẻ . . . đó! Giúp tôi làm
    cho nó chết đi rồi tôi sẽ có dâng một con gà cúng thần”. Các tà thần này thích được
    ăn gà, bèn dùng các loại thần thông, quỷ thông gì đó làm cho người ta phải đau
    đớn, nào đau đầu, đau miệng, đau khủng khiếp, không chịu nổi, phải lăn đùng ra
    chết. Lợi hại như vậy!
    Trên những cây cổ thụ, loại đại thụ cổ từ mấy trăm năm, có các loại thần
    cây. Người ta bảo: “Cây ấy thành tinh”, thực ra không phải cây biến thành tinh, mà
    là do một vong linh nương vào cây ấy, coi cây ấy là chỗ ở, là nhà, là địa bàn trú
    ngụ. Từ đó, người ta đến cầu đảo, linh thiêng lắm! Người ta khấn trước thần cây
    rằng: “Ông phù hộ cho tôi đi! nếu kỳ này tôi trúng cá ngựa, tôi sẽ xây cho ông cái
    95

    miếu”. Yêu quái nghe được bèn nghĩ: Ồ! Được lắm chớ. Vậy là nhân quả bị sai lạc
    rồi. Đại khái tất cả những chuyện cầu đảo xảy ra đều na ná giống như trên vừa kể.
    “Rồi giết chúng sanh, lấy máu lấy thịt”, rồi giết chúng sanh lấy máu lấy
    thịt. Khi cầu đảo người ta phải có lễ vật dâng lên cho thần, phải có con gà, con cá,
    thịt, chai rượu để hối lộ trước, rồi khi nào lời cầu khẩn có linh nghiệm thì lại cúng
    dàng nữa. Các loại thần trâu, thần rắn này, trông thấy có đồ cúng, có rượu, nên ăn
    uống say sưa, và sau đó gây ra nhiều hành động càn rỡ. Ma quỷ còn thích hối lộ
    như vậy, nên chúng ta không lấy làm lạ rằng trên thế gian này trong số quan chức
    có rất nhiều kẻ tham nhũng.
    “Cúng tế bọn quỷ, dược xoa, la sát”. Người ta giết thú vật lấy thịt lấy máu
    cúng các loại quỷ này. Dược xoa, còn gọi là dạ xoa, hay quỷ bay, quỷ nhanh, quỷ
    đòi mạng, quỷ giữ tiền. Còn quỷ la-sát thì rất lợi hại có thần lực đáng kể và có thể
    ăn người; “viết tên kẻ thù, làm hình kẻ thù”. Có thể không hẳn là kẻ thù mà là kẻ
    nào quý vị không ưa, quý vị ghi tên, tuổi, quý vị còn làm một hình tượng giả, rồi
    “làm bùa chú ác, để mà nguyền rủa”, làm bùa chú ác để nguyền rủa. Quý vị
    dùng những câu chú thật là ác độc, quý vị niệm chú đại khái như: “Mày phải chết
    ngay! Chết ngay đi! Ngày mai chết, không thể chờ đến ngày mốt!” Chú là gì? Chú
    hay là chân ngôn nghĩa là lời chân thực của cái tâm quý vị, nên rất linh nghiệm.
    Bọn quỷ trâu, thần rắn đó đều là những loại dơ bẩn. Chúng đã ham lễ vật của
    quý vị, lại có rượu uống nữa, nên gây ra đủ thứ, làm mưa làm gió, phô bầy các
    pháp thuật của chúng. Cho nên quý vị phải cẩn thận. Chớ có học các pháp thuật
    này. Vì chưa có thiên nhãn, nên quý vị không biết rằng các thứ thần này đều là đồ
    dơ bẩn, uống rượu, ăn thịt, không có theo pháp tắc gì cả!
    “Yểm bùa bỏ độc” (Yểm mị cổ đạo), yểm bùa bỏ ngải: nếu có người bị loại
    quỷ Cưu-bàn-đà (kumbhanda) ếm, thì đến tối nằm ngủ bị nó đè, không cục cựa
    được, không nói được, càng cố thoát thì càng bị giữ chặt. Cưu-bàn-đà hình dáng
    giống như cái chum (cái hũ), tựa như quả bí đao. Quý vị nằm ngủ bị nó đè xuống
    96

    thì không có cách gì cựa quậy được, có khi bị đè chết, rất lợi hại. “Cổ đạo” là dùng
    một vật độc lén bỏ cho người; nạn nhân bị độc sẽ bị thao túng, bị sai khiến và nếu
    không nghe lời thì chất độc sẽ gây ra tác hại là cho quý vị đau đớn không chịu nổi.
    “Hô quỷ nhập vào, thây chết đứng dậy, sai hại mạng người, và thương
    tổn thân của các kẻ thù”, làm cho thây chết đứng dậy, sai hại mạng người, và
    thương tổn thân thể của kẻ thù: ở Trung Hoa, vùng Vân Nam, Quảng Tây quả có
    loại tà thuật này. Người ta niệm chú sai khiến cho cái thây chết đứng dậy, đi lại
    như thường, nhưng chỉ đi ban đêm, vì ban ngày nó sợ ánh sáng, không linh thiêng
    nữa. Chính thây chết đó bị người ta sai khiến để đi hại mạng người, có khi làm cho
    nạn nhân mang bệnh, ví dụ như trong bụng có trùng mà thầy thuốc không chữa
    khỏi, hoặc trong mắt có sạn làm cho nạn nhân không nhìn thấy gì.
    “Những hữu tình ấy, nếu mà được nghe danh hiệu Dược Sư Lưu Ly
    Quang Như Lai”, những hữu tình ấy, bị người ta ám hại, nếu được nghe đến danh
    hiệu của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai; “thì ác sự kia, đều chẳng hại được”,
    các điều ác trên chẳng có thể hại họ được. Các điều ác vừa nói như là yểm bùa, bỏ
    độc, tranh tụng hoặc các loại tà thuật khác như hô thần núi, thần mả, các thứ quỷ
    v.v.. tất cả các ác thuật này đều thành vô dụng, không còn linh nữa. Chỉ cần nghe
    đến danh hiệu của Ngài thì hung sẽ biến thành cát, gặp nạn được cứu, mọi tai họa
    đều tiêu tan hết.
    “Lần lượt tất cả đều khởi từ tâm”, lần lượt tất cả đều khởi từ tâm, cả
    những kẻ đã từng dùng bùa chú, bỏ độc hay các tà thuật cũng đổi tâm tánh, “lợi ích
    an vui, không còn có ý não hại hiềm thù”. Như vậy tất cả bọn ác quỷ, quỷ trâu
    thần rắn, bọn bàng môn tả đạo, yêu ma quỷ quái, tự nhiên trút bỏ hết mọi phiền
    não, hoặc lòng hiềm thù oán hận, cuối cùng “ai cũng vui mừng” (các các hoan
    duyệt), mọi người đều hớn hở, vì ác đã đổi ra thiện; “mọi vật thọ dụng, tự cho là
    đủ, chẳng lấn của nhau, mà là cũng làm lợi ích cho nhau”, ai cũng vui mừng, từ
    bỏ tà pháp, không còn mang tâm tham, tâm tổn hại người, không lấn hại lẫn nhau;
    97

    tất cả đều tha thứ, giúp đỡ, lợi ích lẫn nhau. Tóm lại tất cả đều sống trong cảnh hòa
    bình an lạc.
    Còn nữa, này ông Mạn Thù Sư Lợi! Nếu có bốn chúng, Bí-sô, Bí-sô ni,
    Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca và những tịnh tín, thiện nam thiện nữ, ai chịu giữ
    được tám phần trai giới, hoặc suốt một năm, hoặc trong ba tháng, chịu theo
    chỗ học, lấy căn lành ấy, nguyện được sanh sang thế giới Cực Lạc, ở bên
    phương Tây, là nơi của đức Vô Lượng Thọ Phật, cầu nghe chánh pháp,
    nhưng chưa quyết định, mà nếu được nghe danh hiệu Thế Tôn Dược Sư Lưu
    Ly Quang Như Lai, thời khi lâm chung sẽ có tám vị đại Bồ tát là Văn Thù Sư
    Lợi Bồ tát, Quán Thế Âm Bồ tát, Đắc Đại Thế Bồ tát, Vô Tận Ý Bồ tát, Bảo
    Đàn Hoa Bồ tát, Dược Vương Bồ tát, Dược Thượng Bồ tát, Di Lặc Bồ tát, các
    vị ấy sẽ, từ trên không lại, chỉ dẫn đường đi, tự nhiên thấy mình, hóa sanh
    ngay ở bên thế giới kia, trong đám hoa quý, nhiều mầu sắc đẹp.
    Phục thứ, Mạn Thù Thất Lợi! Nhược hữu tứ chúng, Bí-sô, Bí-sô ni, Ô-
    ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca, cập dư tịnh tín thiện nam tử, thiện nữ nhân đẳng,
    hữu năng thọ trì bát phần trai giới, hoặc kinh nhất niên, hoặc phục tam
    nguyệt, thọ trì học xứ, dĩ thử thiện căn, nguyện sinh Tây phương Cực Lạc
    thế giới Vô Lượng Thọ Phật sở, thính văn chánh pháp, nhi vị định giả,
    nhược văn Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai danh hiệu, lâm mệnh
    chung thời, hữu bát đại Bồ tát kỳ danh viết: Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Quán
    Thế Âm Bồ tát, Đắc Đại Thế Bồ tát, Vô Tận Ý Bồ tát, Bảo Đàn Hoa Bồ tát,
    Dược Vương Bồ tát, Dược Thượng Bồ tát, Di Lặc Bồ tát, thị bát đại Bồ tát,
    thừa không nhi lai, thị kỳ đạo lộ, tức ư bỉ giới, chủng chủng tạp sắc, chúng
    bảo hoa trung, tự nhiên hóa sanh.
    98

    (Ghi chú: Tới chỗ này, các băng ghi âm lời giảng của Thượng Nhân bị thâu
    thiếu, nên ở những đoạn chữ in màu nâu là do đệ tử bổ sung thuyết giảng. Nên hai
    đoạn sau là do hai vị đệ tử của Thượng Nhân giảng thế vào. Đây là đoạn thứ nhất)

    Còn nữa, này ông Mạn Thù Sư Lợi! Nếu có bốn chúng”, Còn nữa, này
    ông Mạn Thù Sư Lợi! Nếu có bốn chúng, tức là bốn thành phần sau: “Bí-sô, Bí-sô
    ni, Ô-bà-sách-ca, Ô-ba-tư-ca
    ”. Bí-sô là những vị xuất gia, phái nam, đã thọ giới
    Cụ túc; Bí-sô ni là người xuất gia phái nữ, đã thọ giới Cụ túc; Ô-ba-sách-ca là nam
    cư sĩ tại gia; Ô-ba-tư-ca là nữ cư sĩ tại gia.
    Và những tịnh tín, thiện nam thiện nữ”, tức những ai có tâm thanh tịnh
    và lòng tin; “ai chịu giữ được tám phần trai giới”, những ai chịu giữ tám phần
    trai giới, còn gọi là “bát quan trai giới”; “hoặc suốt một năm, hoặc trong ba
    tháng
    ”. Ba tháng là kể tháng giêng, tháng năm và tháng chín âm lịch. Các tháng
    này gọi là những tháng trường chay, và sách kể rằng trong những tháng đó, các vị
    Tứ Đại Thiên Vương thường đi du hành đến Nam Thiệm Bộ châu, cho nên đối
    với những ai thọ trai vào các tháng ấy, công đức sẽ gấp bội.
    Chịu theo chỗ học” (Thọ trì học xứ), thọ trì những điều học tập về giới
    thanh tịnh “bát quan trai” ấy; “lấy căn lành ấy”, lấy căn lành này, nghĩa là cái căn
    và cái công đức về học giới và trì giới để hồi hướng. Hồi hướng về đâu? Tức là:
    Nguyện được sanh sang thế giới Cực Lạc”, nguyện được sanh sang thế giới
    Cực Lạc, ở bên phương Tây, là nơi của đức Vô Lượng Thọ Phật, tức đức A-di-đà
    để “thính văn chánh pháp”, để cầu nghe chánh pháp.
    99

    Nhưng chưa quyết định”: tuy các chúng sanh này có nguyện về thế giới
    Cực Lạc, nhưng họ vẫn còn do dự chưa quyết định hẳn, nửa muốn về, nửa hoài
    nghi, chưa hoàn toàn quyết tâm.
    Mà nếu được nghe danh hiệu Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như
    Lai”, nếu được nghe danh hiệu của đức Dược Sư, thì “khi lâm chung sẽ có tám vị
    đại Bồ tát
    ”, đến lúc lâm chung sẽ có tám vị đại Bồ tát đến tiếp dẫn; “là Văn Thù
    Sư Lợi Bồ tát, Quán Thế Âm Bồ tát, Đắc Đại Thế Bồ tát, Vô Tận Ý Bồ tát,
    Bảo Đàn Hoa Bồ tát, Dược Vương Bồ tát, Dược Thượng Bồ tát, Di Lặc Bồ
    tát
    ”, tám vị Bồ tát đó có các tên như đã kể trên.
    Các vị ấy sẽ, từ trên không lại”, tám vị Bồ tát này, dùng phép thần thông,
    đi từ trên không mà tới chỗ kẻ lâm chung; “chỉ dẫn đường đi”.
    Đi tới đâu? Đi tới cõi Tịnh độ ở phương Đông; “tự nhiên thấy mình, hóa sanh
    ngay ở bên thế giới kia, trong đám hoa quý, nhiều mầu sắc đẹp
    ”, tại cõi Tịnh
    độ này, những người đó được hóa sanh trong sự thanh tịnh, chớ không phải sanh ra
    từ nơi bào thai của cha mẹ, hóa sanh ra giữa đám hoa quý, với bao nhiêu mầu sắc
    rực rỡ, hoa xanh ánh xanh, hoa vàng ánh vàng, hoa đỏ ánh đó, hoa trắng ánh trắng.
    Hoặc hữu nhân thử, sinh ư thiên thượng, tuy sinh thiên thượng, nhi
    bản thiện căn, diệc vị cùng tận, bất phục cánh sinh, chư dư ác thú; thiên
    thượng thọ tận, hoàn sanh nhân gian, hoặc vi Luân vương, thống nhiếp tứ
    châu, uy đức tự tại, an lập vô lượng bách thiên hữu tình ư thập thiện đạo;
    hoặc sanh sát-đế-lị, bà-la-môn, cư sĩ đại gia, đa nhiêu tài bảo, thương khố
    doanh ích, hình tướng đoan chính, quyến thuộc cụ túc, thông minh trí huệ,
    dũng kiện uy mãnh, như đại lực sĩ; nhược thị nữ nhân, đắc văn Thế Tôn
    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai danh hiệu, chí tâm thọ trì, ư hậu bất phục
    cánh thọ nữ thân.
    Last edited by chi2730; 07-08-2012 at 10:47 PM.
    Cầu sanh Tây Phương!.

  3. #3

    Mặc định

    Hoặc vì nhân ấy, sanh về cõi trời, tuy sanh cõi trời[/COLOR], mà căn lành cũ cũng
    vẫn chưa hết, nên chẳng phải sanh vào các đường ác, trên trời tận số thì
    xuống nhân gian, hoặc làm Luân vương coi cả bốn châu, oai đức tự tại, an lập
    vô lượng trăm ngàn hữu tình ở trong thập thiện, hoặc sanh vào những dòng
    sát-đế-lị, dòng bà-la-môn, cư sĩ đại gia, lắm tiền nhiều của, kho tàng chất đầy,
    hình dung đoan chánh, quyến thuộc đông đủ, thông minh trí tuệ, dũng mãnh
    oai hùng, như đại lực sĩ, nếu là nữ giới, được nghe danh hiệu Thế Tôn Dược
    Sư Lưu Ly Quang Như Lai, dốc lòng trì niệm, thời sau chẳng phải làm thân
    gái nữa.
    Hoặc vì nhân ấy, sanh về cõi trời”, hoặc vì nhân ấy mà sanh về cõi trời.
    Ở đoạn trên nói tới những ai tu hành mà có lòng, có nguyện muốn sanh về cõi Tịnh
    độ, sẽ nhờ tới nguyện lực của đức Dược Sư mà được vãng sanh về cõi ấy. Đoạn
    này nói về những ai không nguyện sanh về Tịnh độ, cũng có thể nhờ nguyện lực
    của đức Dược Sư mà hưởng phước báo sanh về cõi trời.
    Tuy sanh cõi trời, mà căn lành cũ cũng vẫn chưa hết”, tuy sanh cõi trời,
    mà căn lành cũ cũng vẫn chưa hết. Sanh cõi trời cũng là một loại phước báo hữu
    lậu, nên bình thường khi hưởng hết phước rồi thì lại bị đọa lạc. Tuy nhiên, đối với
    những ai được nghe danh hiệu của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, mà sanh lên
    cõi trời, thì căn lành cũ cũng vẫn chưa hết, do đó họ “nên chẳng phải sanh vào
    các đường ác
    ”, chẳng phải sanh vào các đường ác nữa; họ không bị đọa địa ngục,
    không phải làm ngạ quỷ, hoặc làm thân thú, mà trái lại “trên trời tận số thì xuống
    nhân gian
    ”, khi hết số trên trời, họ lại trở về nhân gian, “hoặc làm Luân vương
    coi cả bốn châu
    ”, hoặc làm Chuyển Luân Thánh Vương, coi cả bốn châu. Luân
    vương cũng có bốn loại: thứ nhất là Kim Luân Vương, thống lãnh bốn đại bộ châu

    101

    là Đông Thắng Thần châu, Nam Thiệm Bộ châu, Tây Ngưu Hóa châu và Bắc Câu
    Lư châu; thứ hai là Ngân Luân Vương, coi Nam, Tây và Đông ba đại bộ châu; thứ
    ba là Đồng Luân Vương coi Nam và Tây hai đại bộ châu; thứ tư là Thiết Luân
    Vương chỉ coi một bộ châu ở phương Nam.
    Oai đức tự tại, an lập vô lượng trăm ngàn hữu tình ở trong thập
    thiện
    ”. Các Chuyển Luân Thánh Vương đều có đầy đủ oai nghiêm, đức hạnh và tự
    tại, khiến cho vô lượng các chúng sanh đều được cảm hóa, mà giữ được thập thiện.
    Thập thiện là mười điều lành, được kể ra như sau:
    Ba điều thuộc về thân nghiệp; không sát sanh, nghĩa là không làm hại đến
    sanh mạng của hết thảy các chúng sanh; không trộm cắp, không lấy tài vật gì của
    ai; không tà dâm, tuyệt đối không có hành động dâm ô bất chánh.
    Bốn điều thuộc về khẩu nghiệp: không nói dối, nghĩa là không nói những lời
    không đúng sự thật; không nói điều ác khẩu, tức những điều độc ác; không nói hai
    lưỡi, tức là không nói hai lối khác nhau cốt để ly gián; không nói lời thêu dệt, như
    dùng những lời kích động dâm dục chẳng hạn, nói rỡn không chánh đáng, nói đùa,
    nói chơi vô ý nghĩa v.v..
    Ba điều thuộc về ý nghiệp: không tham, không sân, không si. Bất cứ gặp
    hoàn cảnh nào cũng không khởi tâm tham cầu, không có ý sân hận, hay có tâm si.
    Ngoại trừ sanh làm Chuyển Luân Thánh Vương, những ai có căn lành nói
    trên có thể sanh vào các dòng cao quý như kinh văn nói: “hoặc sanh vào những
    dòng sát-đế-lị, dòng bà-la-môn, cư sĩ đại gia
    ”, nghĩa là sanh trong dòng họ nhà
    vua (sát-đế-lị), dòng bà-la-môn, những vị tu các hạnh thanh tịnh, hoặc sanh vào
    nhà của hàng cư sĩ tại gia, có chánh tri chánh kiến, hoặc sanh vào các gia đình lớn,
    có học thức, thuộc loại thế gia vọng tộc.
    Lắm tiền nhiều của, kho tàng chất đầy”, ăn suốt đời không hết, dùng
    không hết và mặc cũng không hết; “ hình dung đoan chánh”, hình dung đẹp đẽ.
    Chẳng những hoàn cảnh tốt đẹp mà thân hình cũng rạng rỡ, đoan chánh, dung mạo
    102

    ưa nhìn; “quyến thuộc đông đủ”, thân thuộc đầy đủ, cha mẹ anh em tất cả đều
    sống hòa thuận, giúp đỡ lẫn nhau; “thông minh trí huệ”, thông minh sáng láng,
    tài cao học rộng, thông đạt đạo lý. Thật là văn võ kiêm toàn vì kinh văn nói thêm:
    dũng kiện uy mãnh, như đại lực sĩ”, khỏe mạnh oai hùng như đại lực sĩ.
    Vừa rồi là nói về nam giới trong cõi nhân gian, bây giờ nói về nữ giới: “nếu
    là nữ giới, được nghe danh hiệu Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai,
    dốc lòng trì niệm, thời sau chẳng phải làm thân gái nữa
    ”, tức là đổi gái thành
    trai.

    Còn nữa, này ông Mạn Thù Sư Lợi! Khi đức Dược Sư Lưu Ly Quang
    Như Lai đắc đạo Bồ-đề, do sức bổn nguyện mà Ngài soi thấy các loài hữu tình,
    mắc nhiều bệnh khổ, gầy còm co quắp, bệnh khát vàng da, hoặc bị bùa ếm,
    hoặc bị bỏ độc, hoặc bị chết non, hoặc bị chết uổng, Ngài muốn khiến cho,
    những bệnh khổ ấy, đều được tiêu trừ, điều cầu mãn nguyện.
    Phục thứ, Mạn Thù Thất Lợi! Bỉ Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đắc
    Bồ-đề thời, do bản nguyện lực, quán chư hữu tình, ngộ chúng bệnh khổ,
    sấu loan càn tiêu, hoàng nhiệt đẳng bệnh, hoặc bị yểm mị cổ độc sở trúng,
    hoặc phục đoản mệnh, hoặc thời hoạnh tử, dục linh thị đẳng bệnh khổ tiêu
    trừ, sở cầu nguyện mãn.
    Còn nữa, này ông Mạn Thù Sư Lợi! Khi đức Dược Sư Lưu Ly Quang
    Như Lai đắc đạo Bồ-đề, do sức bổn nguyện
    ”, lại nữa, Ông Mạn Thù Sư Lợi! Khi
    đức Dược Sư đắc đạo Bồ-đề, do sức bổn nguyện của Ngài, tức là nhân vì Ngài đã
    103

    từng phát nguyện trong đời quá khứ sẽ làm một vị đại y vương, để có thể chữa hết
    thảy các chúng sanh mắc phải tám vạn bốn ngàn thứ bệnh, do đó mà phát sinh ra
    nguyện lực, đặng “soi thấy các loài hữu tình, mắc nhiều bệnh khổ”, quán sát hết
    thảy các chúng sanh mắc phải những chứng bệnh khổ. Các bệnh này sanh ra hoặc
    do tình trạng bất điều hòa của bốn đại (đất, nước, gió, lửa) trong thân, hoặc do các
    loại ma quỷ gây ra, hoặc bệnh bởi nghiệp chướng, tỷ như “gầy còm co quắp, bệnh
    khát vàng da
    ”, bệnh gầy ốm, hư nhược, thân hình toàn là da bọc xương; bệnh co
    quắp tay chân; bệnh khát nước khô cổ (tiêu khát); bệnh vàng da, nghĩa là bao quát
    các chứng thương hàn, ôn dịch, là do bốn đại trong cơ thể mất quân bình mà sanh
    ra bệnh tật.
    Hoặc bị bùa ếm, hoặc bị bỏ độc” (Hoặc bị yểm mị cổ độc sở trúng). Ai bị
    “yểm mị” thì khi nằm ngủ hay bị đè, không cựa quậy được, còn “cổ độc” là bỏ
    trùng độc cho nạn nhân để dễ khống chế họ. Tỷ như tại Vân Nam hay các vùng
    Đông Nam Á, có một số người thường nuôi những loại trùng độc, như nhện độc,
    rết, bọ cạp v.v.. Họ cho tất cả vào trong một cái chậu, rồi dùng bùa chú nhốt chúng
    ở đấy, cho chúng ăn thịt nhau. Con nào sống sót trong cuộc tàn sát ấy, sẽ chứa
    trong mình đủ các thứ độc và nó chính là con vật độc hại nhất. Chủ con vật độc này
    sẽ sai khiến nó bằng bùa chú để đi gia hại, hay gây thương tật cho những ai bị coi
    là kẻ thù.
    Hoặc bị chết non”, hoặc có người bị chết non (đoản mệnh), bởi trong tiền
    kiếp đã gây nghiệp sát quá nặng, nên kiếp ngày không sống lâu; “hoặc bị chết
    uổng
    (hoạnh tử)”, hoặc chết uổng mạng, gọi là bất đắc kỳ tử, tỷ như bị tai nạn máy
    bay, đắm thuyền, xe lật, xe hơi đụng nhau, chết cháy, động đất, bão lốc v.v..
    Đức Dược Sư Như Lai thấy rất rõ dòng nhân quả của những nạn nhân vừa
    kể nên “Ngài muốn khiến cho, những bệnh khổ ấy, đều được tiêu trừ, điều cầu
    mãn nguyện
    ”, Ngài muốn làm cho những bệnh khổ ấy đều được tiêu trừ, và
    những điều chúng sanh mong cầu sẽ được mãn nguyện.
    104

    Lúc đó Ngài liền vào tam-ma-địa, tên là “Diệt hết khổ não cho các
    chúng sanh
    ”, đã vào định rồi, ở trong nhục kế, phóng đại quang minh, trong
    đại quang minh, diễn nói thần chú, đại đà-la-ni:
    Nam mô bạc già phạt đế, bệ sát xã, lụ rô thích lưu ly, bát lặc bà, hắc ra xà
    dã, đát tha yết đa gia, a ra hắc đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha. Án, bệ
    sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế tóa ha.
    Khi trong quang minh nói thần chú rồi, trái đất chấn động phóng đại
    quang minh, hết thảy chúng sanh, bệnh khổ đều trừ, được vui an ổn.
    Thời bỉ Thế Tôn nhập tam-ma-địa, danh viết trừ “Diệt nhất thiết
    chúng sinh khổ não”, ký nhập định dĩ, ư nhục kế trung, xuất đại quang
    minh, quang trung diễn thuyết đại đà-la-ni viết:
    Nam mô bạc già phạt đế, bệ sát xã, lụ rô thích lưu ly, bát lặc bà, hắc
    ra xà dã, đát tha yết đa gia, a ra hắc đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt
    tha. Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế tóa ha.
    Nhĩ thời quang trung thuyết thử chú dĩ, đại địa chấn động, phóng đại
    quang minh, nhất thiết chúng sanh, bệnh khổ giai trừ, thọ an ổn lạc.
    “Lúc đó Ngài liền vào tam-ma-địa”, lúc ấy đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly
    Quang Như Lai liền vào tam-ma-địa. Tam-ma-địa (Samadhi) là chữ Phạn, dịch
    nghĩa là chánh định, chánh thọ; “tên là ‘Diệt hết khổ não cho các chúng sanh’”,
    định này có tên là “Diệt hết khổ não cho các chúng sanh”; “đã vào định rồi, ở
    trong nhục kế, phóng đại quang minh”, khi đã nhập định rồi, ở trong nhục kế
    của Ngài, phóng ra hào quang sáng rực
    105

    (Đến chỗ này là hết phần bổ túc thay thế cho phần thâu âm bị mất)
    “Trong đại quang minh, diễn nói thần chú, đại đà-la-ni”. Nguyên Dược
    Sư Lưu Ly Quang Như Lai muốn cứu độ các chúng sanh, giải trừ cho họ thoát khỏi
    bệnh tật thống khổ, cho nên trong ánh hào quang, Ngài nói thần chú. Thần chú này
    chỉ có mấy câu, rất ngắn, nhưng cái diệu dụng của nó thì vô cùng tận. Tuy nhiên
    muốn được lợi ích, ta phải có lòng tin, rồi trì tụng nó một cách chuyên cần.
    Đối với các y sĩ làm nghề chữa bệnh, nếu một mặt họ trị bệnh bằng thuốc,
    mặt khác họ lại trì tụng thêm thần chú này thì chắc hiệu nghiệm nhiều hơn và bệnh
    tình sẽ chóng thuyên giảm. Cho nên trì tụng thần chú là điều rất hay, dù quý vị có
    phải là thầy thuốc hay không, khi gặp người có bệnh, quý vị dùng thần chú này, vì
    họ mà đọc tụng, quý sẽ thấy sự kiến hiệu.
    Những câu chú đều là dịch âm, đọc lên không thấy nghĩa của nó, vả lại cũng
    không cần biết nghĩa. Diệu dụng của chú là ở chỗ không thấy nghĩa của nó, đọc lên
    quý vị không hiểu gì, quý vị chỉ biết chú tâm tụng, không có vọng tưởng gì khác,
    bởi đó mà nó có cảm ứng. Các câu chú này, đọc lên như sau đây:
    Nam mô bạc già phạt đế, bệ sát xã, lụ rô thích lưu ly, bát lặc bà, hắc ra xà
    dã, đát tha yết đa gia, a ra hắc đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha. Án, bệ
    sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế tóa ha.2
    Ví như chúng ta có thể niệm các câu trên một cách chuyên chú thì sự “cảm
    ứng đạo giao” sẽ không thể nghĩ bàn, do đó:
    “Khi trong quang minh nói thần chú rồi”, lúc bấy giờ, trong ánh đại hào
    quang, khi đức Dược Sư nói câu chú, tức câu “Dược Sư Quán Đảnh Chân Ngôn”
    xong, thời “đại địa chấn động, phóng đại quang minh”, cả trái đất rung chuyển
    2
    namo bhagavate bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rājāya tathāgatāya arhate samyak-saṃbuddhāya tadyathā oṃ
    bhaiṣajye bhaiṣajye bhaiṣajya-samudgate svāhā.
    106

    tỏa ra hào quang sáng rực. Nói về sự chấn động của trái đất, thì có sáu cách sau
    đây: chấn (rung), hống (rống), kích, động (chuyển động), dũng (phun lên, vọt lên)
    và khởi (nâng cao); “hết thảy chúng sanh, bệnh khổ đều trừ, được vui an ổn”,
    tất cả mọi thứ bệnh khổ đều được giải trừ, và được an vui.
    Này ông Mạn Thù! Nếu có thấy ai, dù nam hay nữ, mắc phải bệnh khổ,
    thì nên nhất tâm vì người bệnh ấy, tắm rửa súc miệng, tụng chú một trăm lẻ
    tám lần vào thức ăn hoặc thuốc, hoặc nước sạch trùng, thời đem cho uống, thì
    bệnh khổ gì, cũng đều tiêu hết. Nếu có cầu gì dốc lòng tụng niệm, cũng đều
    được cả và lại còn được sống lâu vô bệnh, sau khi mệnh chung sanh sang cõi
    kia, được ngôi bất thối, cho đến tận khi đắc đạo Bồ đề. Bởi vậy cho nên ông
    Mạn Thù ơi! Nếu có nam tử nữ nhân nào mà dốc lòng cung kinh cúng dường
    đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thời thường trì chú, chớ để lãng
    quên.
    Mạn Thù Thất Lợi! Nhược kiến nam tử nữ nhân, hữu bệnh khổ giả,
    ưng đương nhất tâm vị bỉ bệnh nhân, thường thanh tịnh táo thấu, hoặc
    thực hoặc dược, hoặc vô trùng thủy, chú nhất bách bát biến, dữ bỉ phục
    thực, sở hữu bệnh khổ, tất giai tiêu diệt; nhược hữu sở cầu, chí tâm niệm
    tụng, giai đắc như thị, vô bệnh diên niên, mệnh chung chi hậu sinh bỉ thế
    giới, đắc bất thoái chuyển, nãi chí Bồ đề. Thị cố Mạn Thù Thất Lợi! Nhược
    hữu nam tử nữ nhân, ư bỉ Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, chí tâm ân
    trọng, cung kính cúng dường giả, thường trì thử chú, vật linh phế vong.
    “Này ông Mạn Thù! Nếu có thấy ai, dù nam hay nữ, mắc phải bệnh
    khổ, thì nên nhất tâm vì người bệnh ấy”. Nếu có ai mắc bệnh khổ, hoặc nam
    107

    hoặc nữ, thì hãy dốc một lòng vì những người bệnh ấy; “tắm rửa súc miệng”,
    thường tắm rửa và súc miệng sạch sẽ; “tụng chú một trăm lẻ tám lần vào thức
    ăn hoặc thuốc, hoặc nước sạch trùng”, rồi tụng chú một trăm lẻ tám (108) lần
    vào đồ ăn, thuốc, hoặc nước sạch không có trùng; “thời đem cho uống”, đem cho
    người ấy uống; “thì bệnh khổ gì, cũng đều tiêu hết”, kết quả là hết thảy mọi bệnh
    đều tiêu trừ. “Nếu có cầu gì dốc lòng tụng niệm, cũng đều được cả và lại còn
    được sống lâu vô bệnh”, nếu lại cầu một điều gì khác thời hãy dốc lòng niệm
    tụng, nghĩa là theo như trên vừa nói, tụng chú cho tới một trăm lẻ tám lần đều
    được như ý, và còn được sống lâu vô bệnh, đáng chết mà không chết, thật là thần
    diệu.
    “Sau khi mệnh chung sanh sang cõi kia”, tới khi hết số, chết đi thì sẽ
    sanh qua thế giới kia, tức cõi Lưu Ly Quang của đức Dược Sư; “được ngôi bất
    thối, cho đến tận khi đắc đạo Bồ đề”, qua đây sẽ không bị thoái chuyển và thành
    tựu quả A-nậu-đa-la tam miệu tam-bồ-đề cho đến khi thành Phật.
    “Bởi vậy cho nên ông Mạn Thù ơi! Nếu có nam tử nữ nhân nào mà dốc
    lòng cung kinh cúng dường đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”, bởi
    vậy cho nên, ông Mạn Thù ơi! Nếu có nam hay nữ bằng cả tấm lòng trân trọng
    cúng dường đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai; “thời thường trì chú, chớ để
    lãng quên”, thời thường xuyên trì niệm chú “Dược Sư Quán Đảnh Đà-la-ni”, chớ
    để quên lãng.
    Còn nữa này ông Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có nam tử nữ nhân tịnh tín
    được nghe tất cả danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng
    Chánh Đẳng Giác, nghe rồi tụng trì, sáng sớm trở dậy, xỉa răng tắm gội, súc
    miệng sạch sẽ, dâng các hoa thơm, hương đốt, hương bôi và các âm nhạc,
    cúng dường tượng Phật, rồi với kinh này, hoặc mình tự viết, hoặc bảo người
    viết, nhất tâm thọ trì, lắng nghe nghĩa kinh. Với Pháp sư đó, thời nên cúng
    108

    dường, sắm đủ các món đủ để nuôi thân, thảy đều cấp cho, đừng để thiếu
    thốn, như vậy được nhờ chư Phật hộ niệm, điều cầu mãn nguyện, và được đến
    cả, đạo cả Bồ đề.
    Phục thứ, Mạn Thù Thất Lợi! Nhược hữu tịnh tín nam tử nữ nhân,
    đắc văn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, sở hữu
    danh hiệu, văn dĩ tụng trì, thần tước xỉ mộc, tháo thấu thanh tịnh, dĩ chư
    hương hoa, thiêu hương đồ hương, tác chúng kỹ nhạc, cúng dường hình
    tượng, ư thử kinh điển, nhược tự thư, nhược giáo nhân thư, nhất tâm thọ
    trì, thính văn kỳ nghĩa, ư bỉ Pháp sư, ưng tu cúng dường, nhất thiết sở hữu
    tư thân chi cụ, tất giai thí dữ, vật linh phạp thiểu, như thị tiện mông chư
    Phật hộ niệm, sở cầu nguyện mãn, nãi chí Bồ đề.
    “Còn nữa này ông Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có nam tử nữ nhân tịnh tín
    được nghe tất cả danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”, lại
    nữa! Ông Mạn Thù Sư Lợi! Nếu có người nào nam hay nữ, lòng thanh tịnh và có
    tín tâm, nghe được danh hiệu của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, “tất cả danh
    hiệu”, tất cả danh hiệu của Ngài, tức là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
    Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
    Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, kể tất cả là mười danh hiệu như vậy; “văn dĩ tụng trì”,
    nghe xong rồi tụng trì.
    “Sáng sớm trở dậy, xỉa răng tắm gội, súc miệng sạch sẽ” (Thần tước xỉ
    mộc, tháo thấu thanh tịnh): “tước” nghĩa là nhai và theo tục xưa thời đức Phật,
    người ta nhai một nhánh của cây dương cho sạch miệng và răng; “xỉ mộc” tức là
    gỗ cây dương; “tháo thấu” là súc miệng và tắm gội.
    109

    “Dâng các hoa thơm, hương đốt, hương bôi và các âm nhạc”, dâng lên
    hương hoa, đốt nhang, bôi hương; “và các âm nhạc cúng dường tượng Phật”,
    sửa soạn các thứ âm nhạc, cúng dường tượng Phật, hoặc giả cúng dường kinh
    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai; “rồi với kinh này, hoặc mình tự viết, hoặc
    bảo người viết”, hoặc tự mình sao kinh, hoặc nhờ người khác sao kinh; “nhất tâm
    thọ trì, lắng nghe nghĩa kinh”, thọ trì danh hiệu đức Dược Sư một cách nhất tâm,
    lắng nghe nghĩa lý của kinh; “ư bỉ Pháp sư”, đối với vị Pháp sư ấy, tức nói vị
    Pháp sư giảng kinh, viết kinh, thọ trì, và đọc tụng Kinh Bổn Nguyện Của Dược Sư
    Lưu Ly Quang Như Lai; “thời nên cúng dường”, phải lo cúng dường. Nhớ rằng
    cúng dường phải cho cung kính, chớ không phải làm một cách qua loa cho xong
    chuyện; cỗ trai dâng lên cho vị Pháp sư ấy cũng phải làm bằng những món ăn
    thanh tịnh.
    “Sắm đủ các món đủ để nuôi thân, thảy đều cấp cho, đừng để thiếu
    thốn”, hết thảy những món đồ dùng để nuôi thân, phải cung cấp đủ, chớ để bị thiếu
    thốn. Chẳng hạn, vị Pháp sư đó cần phải có đồ để ăn, cần quần áo, giường nằm,
    thuốc thang, tức là bốn thứ nên cúng dường, các Phật tử phải nên lo cho đủ, không
    thể để cho Pháp sư đó bị thiếu thốn một món nào trong các thứ nói trên.
    “Như vậy được nhờ chư Phật hộ niệm”, như vậy sẽ có chư Phật hộ niệm.
    Nói rõ là nếu quý vị cúng dường vị Pháp sư viết, thọ trì và đọc tụng kinh Bổn
    Nguyện Của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thời mười phương chư Phật sẽ hộ
    niệm cho quý vị; “điều cầu mãn nguyện, và được đến cả, đạo cả Bồ đề”, cầu
    điều gì sẽ được mãn nguyện, cho đến đạt được đạo Bồ đề.
    ※※※
    ※※※
    ※※※
    Đối với chúng ta là những người theo học Phật Pháp, mọi thứ khác đều
    không thể so sánh với Phật Pháp được; các loại kiến thức, các điều học hỏi cho đến
    110

    công việc kiếm ăn sinh sống cũng không thể quan trọng bằng Phật Pháp. Hôm nay,
    chẳng phải có người nói rằng một nữ Phật tử đã ăn chay và hoan hỷ đến nghe Kinh
    khi có Pháp sư “tam bộ nhất bái” đến giảng kinh ở nơi này ư? Thực là một việc
    hiếm có. Như quý vị có thể trân quý thời gian nghe kinh, quý vị xem việc nghe
    kinh mới là trọng yếu, thời quý vị mới chính là một đệ tử tốt của Phật. Cho nên
    chúng ta phải có thành tâm và thành ý để nghe kinh.
    Bấy giờ đồng tử Mạn Thù Thất Lợi bạch đức Phật rằng: Thế Tôn! Con
    thề khi nào đời Tượng Pháp chuyển, dùng nhiều phương tiện, khiến người
    tịnh tín, thiện nam thiện nữ được nghe danh hiệu Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly
    Quang Như Lai, cho đến lúc ngủ cũng đem hiệu Phật giác ngộ vào tai.
    Nhĩ thời Mạn Thù Thất Lợi đồng tử bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã
    đương thệ ư Tượng Pháp chuyển thời, dĩ chủng chủng phương tiện, linh
    chư tịnh tín, thiện nam tử, thiện nữ nhân đẳng, đắc văn Thế Tôn Dược Sư
    Lưu Ly Quang Như Lai danh hiệu, nãi chí thụy trung, diệc dĩ Phật danh giác
    ngộ kỳ nhĩ.
    “Bấy giờ đồng tử Mạn Thù Thất Lợi bạch đức Phật rằng:”, lúc bấy giờ,
    Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con thề khi nào đời Tượng
    Pháp chuyển”, con xin thề, vào thời Tượng Pháp chuyển; “dùng nhiều phương
    tiện”, dùng rất nhiều phương tiện, tức là các pháp nào hợp với tình thế, với căn cơ
    rồi tùy duyên mà thuyết pháp. Con sẽ dùng trí huệ quan sát xem pháp nào là
    phương tiện để hóa độ hết thảy chúng sanh; “khiến người tịnh tín, thiện nam
    thiện nữ”, khiến cho hết thảy các thiện nam, thiện nữ, thanh tịnh và có tín tâm;
    “được nghe danh hiệu Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”, nghe được
    111

    danh hiệu của Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai; “cho đến lúc ngủ cũng
    đem hiệu Phật giác ngộ vào tai”, thậm chí cả lúc đương ngủ, nếu cơ duyên đã
    thành tựu, trong giấc mộng, con cũng cho nghe danh hiệu của đức Thế Tôn Dược
    Sư Lưu Ly Quang Như Lai, khiến cho họ được giác ngộ.
    Vừa rồi có nói về thời Tượng Pháp chuyển. Thế nào là Tượng Pháp? Số là
    Phật Pháp gồm có các thời kỳ sau: thời kỳ Chánh Pháp, thời kỳ Tượng Pháp và
    thời kỳ Mạt Pháp.
    Thời Chánh Pháp kể từ lúc Phật trú ở thế gian. Đó là thời của “thiền định
    kiên cố”, ai nấy đều ngồi thiền tập định. Có thuyết nói thời chánh pháp kéo dài 500
    năm, có thuyết nói tới 1000 năm. Kế tiếp là thời Tượng Pháp, Thời này là thời
    chấp vào hình tướng. Người ta chú trọng nhiều về tướng biểu hiện bên ngoài, và
    coi nhẹ phần bên trong. Chánh Pháp nhằm vào công phu “nội thánh”, còn Tượng
    Pháp là công phu “ngoại vương”. Bởi chấp tướng nên trong thời kỳ Tượng Pháp,
    người ta đua nhau xây nhiều chùa miếu, nên gọi thời này là “miếu tự kiên cố”, chỉ
    có thiểu số tu, còn phần đông thì chẳng tu hành. Thời Chánh Pháp thì ngược lại: đa
    số tu hành, thiểu số không tu. Thời gian của Tượng Pháp có thể là 1000 năm, mặc
    dầu có thuyết nói 500 năm.
    Sau cùng là thời đại Mạt Pháp, thời của chúng ta hiện nay. Chúng ta đã cách
    Phật xa rồi. Vào thời này, thiền định chẳng “kiên cố”, mà chùa miếu cũng chẳng
    “kiên cố”, chỉ có “tranh chấp kiên cố” mà thôi. Vào cái thời này ư! Người thì đấu
    tranh với người, nhà nọ thì tranh chấp với nhà kia, nước này đánh nhau với nước
    kia, rồi chiến tranh giữa các tinh cầu, nguyệt cầu, vậy mới gọi là đấu tranh kiên cố.
    Người ta không còn biết làm gì khác ngoài việc đấu tranh với nhau, mà không đấu
    tranh thì thanh toán nhau. Quả là môt thời đại khủng khiếp! Tại sao chúng ta lại
    sanh vào thời đại này? Có thể nói rằng chúng ta không tạo nên điều gì tốt nên mới
    sanh trong thời Mạt Pháp, khi Phật Pháp tới bước đường cùng, sắp phải tiêu ma.
    112

    Người ta bảo thời Mạt Pháp là 1000 năm, nhưng nay chúng ta hãy coi như thời đại
    này là 10.000 năm.
    Từ thời Phật tại thế đến nay là 3000 năm. Các thời Chánh Pháp và Tượng
    Pháp qua đi, cứ mỗi thời kỳ là 1000 năm, vậy bây giờ chúng ta đã qua 1000 năm
    của thời Mạt Pháp. Chúng ta không có may mắn được đích thân trông thấy cảnh
    tượng của thời Chánh Pháp khi lúc Phật trú tại thế gian. Tuy nhiên, dầu ở trong
    Mạt Pháp, chúng ta vẫn phải đề xướng Chánh Pháp, phải phát nguyện làm sao
    khiến cho Mạt Pháp chuyển thành Chánh Pháp. Ai ai cũng phát nguyện, thế tất
    không có Mạt Pháp. Hiện nay Phật giáo đã truyền sang phương Tây, vậy chúng ta
    phải tích cực đề xướng Chánh Pháp, hoằng dương Chánh Pháp, mỗi hành vi cử chỉ
    của chúng ta đều phải hướng tới mục tiêu Chánh Pháp. Đó là tôn chỉ của tôi lâu
    nay. Quý vị nghe xong thời phải phát tâm Bồ đề rộng lớn và tích cực hộ trì Chánh
    Pháp Nhãn Tạng.
    Bạch đức Thế Tôn! Nếu ai thọ trì đọc tụng kinh này, hoặc là diễn thuyết
    khai thị cho người hoặc tự mình viết, hoặc khiến người viết, hoặc là tôn trọng
    cung kính kinh này, đem nhiều các thức hương hoa: hương bôi, hương bột
    hương đốt, tràng hoa anh lạc, phướn lọng âm nhạc, để mà cúng dường, lấy sợi
    ngũ sắc, làm túi đựng kinh, quét rửa chỗ sạch, thiết lập tòa cao, làm chỗ để
    kinh. Bấy giờ sẽ có bốn Đại Thiên Vương, cùng với quyến thuộc, với cả vô số
    trăm ngàn Thiên chúng, đều đến chỗ ấy, gìn giữ cúng dường. Bạch đức Thế
    Tôn! Nếu ở nơi nào kinh báu lưu hành, có người thọ trì, và nhờ công đức bổn
    nguyện của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, được nghe danh
    hiệu, nên biết chỗ ấy không còn có người bị hoạnh tử, chẳng còn ai bị bọn quỷ
    thần ác đoạt mất tinh khí, ai bị đoạt rồi, lại được thân tâm an vui như cũ.
    113

    Thế Tôn! Nhược hữu thử kinh thọ trì đọc tụng, hoặc phục vị tha diễn
    thuyết khai thị, nhược tự thư, nhược giáo nhân thư, cung kính tôn trọng, dĩ
    chủng chủng hoa hương, đồ hương, mạt hương, thiêu hương, hoa mạn,
    anh lạc, phan cái, kỹ nhạc, nhi vị cúng dường, dĩ ngũ sắc thải, tác nang
    thịnh chi, tảo sái tịnh xứ, phu thiết cao tòa, nhi dụng an xứ, nhĩ thời tứ Đại
    Thiên Vương, dữ kỳ quyến thuộc, cập dư vô lượng bách thiên Thiên chúng,
    giai nghệ kỳ sở, cúng dường thủ hộ. Thế Tôn! Nhược thử kinh bảo lưu
    hành chi xứ, hữu năng thọ trì, dĩ bỉ Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như
    Lai bổn nguyện công đức, cập văn danh hiệu, đương tri thị xứ vô phục
    hoạnh tử, diệc phục bất vị chư ác quỷ thần đoạt kỳ tinh khí, thiết dĩ đoạt
    giả, hoàn đắc như cố, thân tâm an lạc.
    Ngài Văn Thù Sư Lợi lại bạch Phật: “Nếu ai thọ trì đọc tụng kinh này”,
    nếu có ai trong tương lai, vào thời Tượng Pháp, hoặc thời Mạt Pháp, mà thọ trì đọc
    tụng kinh này - tức chỉ kinh Công Đức Bổn Nguyện Dược Sư Lưu Ly Quang Như
    Lai - như có thể ngày ngày niệm kinh, lấy bổn kinh ra đọc, hay thuộc lòng kinh mà
    tụng niệm; “hoặc là diễn thuyết khai thị cho người”, hoặc diễn thuyết cho người
    nghe những ý nghĩa sâu xa của kinh văn, giải thích rõ ràng từng điểm một, hoặc là
    khai thị bằng những thí dụ khiến người nghe được sáng tỏ nghĩa kinh và điểm
    trọng yếu của kinh.
    “Hoặc tự mình viết, hoặc khiến người viết”, hoặc tự mình viết hoặc bảo
    người khác viết bộ kinh này; “hoặc là tôn trọng cung kính kinh này”, như lễ lạy
    bộ kinh, trân quý bộ kinh, hoặc cúng dường bộ kinh bằng những thức sau: “đem
    nhiều các thức hương hoa”, lấy các loại hoa và hương như “đồ hương, mạt
    hương, thiêu hương”, hương bôi, hương bột, hương đốt; “tràng hoa anh lạc,
    114

    phướn lọng âm nhạc, để mà cúng dường”, tràng kết hoa, anh lạc, tràng phan,
    lọng che, các thứ âm nhạc như các loại nhạc tán Phật, các thứ này để làm đồ cúng
    dường kinh; “lấy sợi ngũ sắc, làm túi đựng kinh”, lấy chỉ năm mầu làm túi đựng
    kinh; “quét rửa chỗ sạch”, quét dọn sạch sẽ một chỗ “thiết lập tòa cao, làm chỗ
    để kinh”, dựng lên một vị trí cao để an trí bộ kinh, vậy là tỏ hết lòng cung kính.
    “Bấy giờ sẽ có bốn Đại Thiên Vương, cùng với quyến thuộc, với cả vô
    số trăm ngàn Thiên chúng”, lúc bấy giờ sẽ có bốn vị đại Thiên vương, cùng với
    quyến thuộc và vô lượng vô biên hàng trăm ngàn Thiên chúng; “đều đến chỗ ấy,
    gìn giữ cúng dường”, đều đến chỗ ấy để lễ lạy bộ kinh và giữ gìn bộ kinh.
    “Bạch đức Thế Tôn! Nếu ở nơi nào kinh báu lưu hành”. Nếu nơi nào có
    kinh quý báu này lưu hành; “có người thọ trì”, ở đó có người thọ trì, thời “nhờ do
    công đức bổn nguyện của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”,
    “cập văn danh hiệu”, và do nghe được danh hiệu; “nên biết chỗ ấy không còn
    có người bị hoạnh tử”, thời phải biết rằng nơi đó - nghĩa là nơi có kinh điển -
    không có cảnh chết một cách dữ dằn của hoạnh tử3; “chẳng còn ai bị bọn quỷ
    thần ác đoạt mất tinh khí”, cũng không bị bọn quỷ thần ác đoạt mất tinh khí làm
    cho nạn nhân mất hết khí lực; “ai bị đoạt rồi, lại được thân tâm an vui như cũ”,
    hoặc giả nếu lỡ bị đoạt rồi thời khí lực được khôi phục và thân tâm được trở lại an
    vui. Tóm lại hết sạch mọi phiền não, tai nạn thảy đều tiêu tan, không còn chết chóc
    bởi tai họa, mọi điều hung hiểm không phát sinh nữa. Như vậy, bất cứ ai trong
    3
    Hoạnh tử còn gọi là Phi thời tử, Bất lự tử, Sự cố tử. Chết oan, do gặp phải tai họa ngoài ý muốn mà
    chết. Hoạnh tử gồm có 9 thứ:
    1. Bệnh mà không có thầy thuốc rồi chết.
    2. Bị Luật Vua tru lục mà chết.
    3. Phi nhân đoạt tinh khí mà chết.
    4. Lửa cháy mà chết.
    5. Nước nhận chìm mà chết.
    6. Ác thú ăn thịt mà chết.
    7. Té xuống sườn núi mà chết.
    8. Bị thuốc độc, bùa chú mà chết.
    9. Ðói khát ép ngặt mà chết.
    115

    chúng ta mỗi khi gặp việc gì quỷ quái, thời nên thỉnh một bộ kinh Công Đức Bổn
    Nguyện của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đem về nhà để cúng dường. Đó
    chính là một Pháp bảo có thể trấn giữ tà ma, mang lại niềm an tịnh cho gia đình.
    Đức Phật bảo Ngài Mạn Thù Thất Lợi: Đúng thế! Đúng thế! Đúng như
    ông nói, ông Mạn Thù ơi! Nếu có thiện nam thiện nữ tịnh tín mà muốn cúng
    dường Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, trước hết phải tạo hình
    tượng của Ngài, lập tòa thanh tịnh mà rước tượng lên, rắc các thứ hoa, đốt
    các thứ hương, dùng nhiều tràng phan, trang nghiêm chỗ ấy, bảy ngày bảy
    đêm, giữ tám trai giới, ăn uống thanh tịnh, tắm gội sạch sẽ, bận áo thanh tịnh,
    tâm phải thanh tịnh, không chút vẩn đục, không tâm giận dữ, hại bất cứ ai.
    Đối với hết thảy các loài hữu tình, khởi tâm lợi ích an vui từ bi hỷ xả bình
    đẳng, cử nhạc ca tán, nhiễu quanh tượng Phật, về bên tay mặt, lại phải ghi
    nhớ, công đức bổn nguyện của đức Phật kia, đọc tụng kinh này, suy nghĩ
    nghĩa kinh, diễn thuyết khai thị, rồi những điều cầu, đều được toại nguyện,
    cầu sống lâu được sống lâu, cầu giàu có được giàu có, cầu chức quan được
    chức quan, cầu trai gái được trai gái.
    Phật cáo Mạn Thù Thất Lợi! “Như thị, như thị, như nhữ sở thuyết!”
    Mạn Thù Thất Lợi! Nhược hữu tịnh tín thiện nam tử, thiện nữ nhân đẳng,
    dục cúng dường bỉ Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai giả, ưng tiên
    tạo lập bỉ Phật hình tượng, phu thanh tịnh tòa, nhi an xứ chi, tán chủng
    chủng hoa, thiêu chủng chủng hương, dĩ chủng chủng tràng phan trang
    nghiêm kỳ xứ, thất nhật thất dạ, thọ bát phần trai giới, thực thanh tịnh
    thực, tảo dục hương khiết, trước thanh tịnh y, ưng sanh vô cấu trọc tâm,
    vô nộ hại tâm, ư nhất thiết hữu tình, khởi lợi ích an lạc, từ bi hỷ xả, bình
    116

    đẳng chi tâm, cổ nhạc ca tán, hữu nhiễu Phật tượng, phục ưng niệm bỉ
    Như Lai bổn nguyện công đức, độc tụng thử kinh, tư duy kỳ nghĩa, diễn
    thuyết khai thị, tùy sở nhạo cầu, nhất thiết giai toại; cầu trường thọ đắc
    trường thọ, cầu phú nhiêu đắc phú nhiêu, cầu quan vị đắc quan vị, cầu
    nam nữ đắc nam nữ.
    “Đức Phật bảo Ngài Mạn Thù Thất Lợi: Đúng thế! Đúng thế! Đúng
    như ông nói, ông Mạn Thù ơi!”, Phật bảo Ngài Văn Thù: “Ông Mạn Thù ơi!
    Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói”.
    “Nếu có thiện nam thiện nữ tịnh tín mà muốn cúng dường Thế Tôn
    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, trước hết phải tạo hình tượng của Ngài”,
    nếu có thiện nam, thiện nữ tịnh tín muốn cúng dường đức Thế Tôn Dược Sư Lưu
    Ly Quang Như Lai; “trước hết phải tạo hình tượng của Ngài”, thời điều trước
    tiên là phải tạo hình tượng của Ngài; “lập tòa thanh tịnh”, thiết lập một tòa thanh
    tịnh; “mà rước tượng lên”, rước tượng lên an vị; “rắc các thứ hoa, đốt các thứ
    hương”, rắc các loại hoa, đốt các thứ nhang; “đốt các thứ hương, dùng nhiều
    tràng phan, trang nghiêm chỗ ấy”, rồi lấy nhiều tràng phan trang hoàng nơi đạo
    tràng đó.
    Có một điều phải hiểu rằng chúng ta dâng hương hoa lên chư Phật và Bồ tát,
    chẳng phải vì Phật và Bồ tát còn có tâm tham, ham ăn ham uống, muốn mọi người
    cúng dường trà nước hay các món chay để thưởng thức. Nghĩ như vậy là không
    đúng. Chúng ta cúng dường hương hoa là để biểu lộ tâm thành và thiện ý của
    chúng ta, chớ không phải vì Phật muốn như vậy. Chúng ta dâng hương và hoa ư?
    Chẳng phải vì vậy mà Phật thêm hoan hỷ. Không dâng hương hoa ư? Chẳng phải
    vì vậy mà Phật buồn. Chư Phật không cầu gì nơi chúng ta, nhưng chúng ta thì chỉ
    117

    có một cách là dâng hương quý, hoa quý để chứng tỏ lòng thành kính đối với chư
    Phật mà thôi.
    Lễ cúng Phật chẳng phải giống như cách thức của một số người ngu dốt cứ
    cầm cả bó nhang lớn đến trước Phật mà dâng hương. Đức Phật ở chỗ ấy, ngài
    phóng quang để bảo hộ chúng sanh; bây giờ quý vị lại đốt nhiều nhang như vậy,
    khói bốc lên mù mịt mờ cả mắt Phật, mờ cả hào quang, khiến cho việc cứu độ
    chúng sanh không thành! Đó là tôi đã lấy sự hiểu biết của phàm phu để đo lường
    cảnh giới của Phật. Song, điều tôi muốn nói ở đây là không nên dâng hương theo
    kiểu đó, bởi làm như vậy có khác gì bầy thức ăn đầy cả một cái bàn dài trên 10
    trượng, rồi bắt người ta ăn cho hết. Muốn cúng Phật, ta chỉ cần 3 cây hương, hoặc
    giả thêm một cây nữa cho vị Hộ Pháp ở phía trước, cộng lại là 4 cây. Bình thường
    một cây hương là đủ rồi. Nếu trong lòng của quý vị chân thành thì dù không có cây
    hương nào, các Bồ tát vẫn hộ trì quý vị. Chỉ cần quý vị tâm niệm về đức Phật, về
    Pháp, về Tăng, cũng như niệm Kinh thì chư Phật sẽ hoan hỷ. Chẳng cứ có nhang
    Phật mới hoan hỷ!
    Đối với chúng ta, ai xúc phạm thì buồn, ai tán thưởng thì vui. Phật không
    hẹp hòi như vậy. Chúng ta không nên đem lòng dạ của kẻ phàm phu để đo tâm
    lượng của bậc thánh, mà suy ra rằng Phật cũng tham như ta, thấy tiền của càng
    nhiều càng tốt, nhang đốt càng nhiều càng quý. Nghĩ vậy là sai lầm. Đừng bắt
    chước mấy người mê tín kia, đến chùa lễ bái một cách mê tín, dâng hương theo lối
    mê tín. Quý vị có hỏi họ: “Sao đốt lắm nhang vậy?” tất họ sẽ trả lời: “Đốt càng
    nhiều càng quý!” Hỏi họ quý như thế nào, họ cũng chẳng biết. Thử hỏi vậy chẳng
    phải hồ đồ sao? Cho nên là tín đồ Phật giáo, chúng ta phải làm theo chân lý, theo
    trí huệ chớ không thể xử sự theo lối mê tín.
    “Bảy ngày bảy đêm, giữ tám trai giới, ăn uống thanh tịnh”, nghĩa là
    trong bảy ngày bảy đêm, thọ trì bát quan trai giới, không ăn đồ mặn, có nghĩa là ăn
    uống thanh tịnh; “tắm gội sạch sẽ, bận áo thanh tịnh”, tắm gội cho thân thể sạch
    118

    mùi mồ hôi và cáu ghét, dùng nước thơm để tắm, sau đó mặc quần áo đã giặt sạch,
    chẳng nhất thiết là loại quần áo đẹp đẽ hay đắt tiền, cốt sao cho sạch tức là cung
    kính Phật rồi.
    “Tâm phải thanh tịnh, không chút vẩn đục, không tâm giận dữ, hại bất
    cứ ai”, tâm phải thanh tịnh, không vẩn đục, không giận dữ, bao nhiêu tư tưởng bẩn
    thỉu, rác rưởi trong đầu phải gột rửa để tâm được thanh tịnh, không chút giận dữ
    tổn hại người khác; “đối với hết thảy các loài hữu tình, khởi tâm lợi ích an vui
    từ bi hỷ xả bình đẳng”, đối với hết thảy các loài hữu tình, khởi tâm mong sự lợi
    ích an vui cho tất cả, cùng với tâm từ bi hỷ xả và bình đẳng; “cử nhạc ca tán,
    nhiễu quanh tượng Phật, về bên tay mặt”, cử nhạc rồi hát bài tán, đi nhiễu
    quanh tượng đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang về bên tay phải; “lại phải ghi nhớ,
    công đức bổn nguyện của đức Phật kia, đọc tụng kinh này”; “suy nghĩ nghĩa
    kinh”, suy ngẫm nghĩa lý của Kinh Bổn Nguyện Công Đức của đức Phật Dược Sư
    Lưu Ly Quang; “diễn thuyết khai thị, rồi những điều cầu, đều được toại
    nguyện, cầu sống lâu được sống lâu, cầu giàu có được giàu có, cầu chức quan
    được chức quan, cầu trai gái được trai gái”. Như vậy chúng ta đủ thấy rằng
    công đức kinh của đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang to lớn biết chừng nào! Chỉ
    cần thành tâm là các điều mong cầu của quý vị sẽ linh ứng.
    Lại hễ có người, bỗng thấy mộng ác, những hình tướng ác, hoặc chim
    quái ác, ở đâu đến đậu, hoặc có lắm sự, quái ác hiện ra, tại ngay chỗ ở, người
    ấy nếu đem các thứ quý giá, cung kính cúng dường đức Thế Tôn Dược Sư
    Lưu Ly Quang Như Lai, thời những mộng ác, những hình tướng ác, những
    điều chẳng lành, đều biến mất hết, chẳng làm hại được. Hoặc có sợ hãi tai nạn
    thủy hỏa, đao binh độc chất, cheo leo hiểm nghèo, voi dữ sư tử, hùm sói gấu
    bi, rắn độc bọ cạp, rết độc sâu bọ, ruồi muỗi các loại, nếu dốc một lòng, niệm
    đức Phật kia, cung kính cúng dường, thời các sợ hãi, đều được giải hết. Nếu có
    119

    nước khác, xâm lấn quấy rối, giặc cướp phản loạn, thời người cung kính, niệm
    đức Phật kia, cũng đều giải thoát.
    Nhược phục hữu nhân, hốt đắc ác mộng, kiến chư ác tướng, hoặc
    quái điểu lai tập, hoặc ư trú xứ, bách quái xuất hiện, thử nhân nhược dĩ
    chúng diệu tư cụ, cung kính cúng dường bỉ Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly
    Quang Như Lai giả, ác mộng ác tướng, chư bất cát tường giai tất ẩn một,
    bất năng vi hoạn; hoặc hữu thủy hỏa đao độc huyền hiểm, ác tượng, sư
    tử, hổ lang hùng bi, độc xà ác yết, ngô công du diên, văn manh đẳng bố,
    nhược năng chí tâm ức niệm bỉ Phật, cung kính cúng dường, nhất thiết bố
    úy, giai đắc giải thoát; nhược tha quốc xâm nhiễu, đạo tặc phản loạn, ức
    niệm cung kính bỉ Như Lai giả, diệc giai giải thoát.
    “Lại hễ có người, bỗng thấy mộng ác”, nghĩa là giả dụ có người bỗng
    nhiên gặp ác mộng, trong giấc mộng thấy chuyện chẳng lành, chẳng hạn thấy
    mình chết, thấy người khác chết, mình bị đụng xe, thấy người nhảy xuống biển, đại
    khái những điều chẳng lành v.v..; “những hình tướng ác”, như thấy một con quỷ
    la-sát dữ tợn, một con yêu miệng rộng giơ nanh, hoặc ông thiên lôi đương cầm búa
    lăm le bổ xuống, nói chung là các cảnh đất động, núi lở, sóng thần, những sự việc
    kinh khủng mà người ta gặp trong cơn ác mộng; “hoặc chim quái ác, ở đâu đến
    đậu”, hoặc giả các loại chim kỳ quái đến tụ tập trên nóc nhà, như loại cú đầu mèo,
    cú vọ, quạ; “hoặc có lắm sự, quái ác hiện ra, tại ngay chỗ ở”, hoặc nơi cư ngụ có
    cả trăm loài yêu quái xuất hiện, ban ngày thấy quỷ, ban đêm thấy ma, như thấy cây
    chổi quét nhà tự nó đi đi lại lại, cái bầu nước bay lơ lửng trên không, nói chung là
    trăm ngàn sự việc kỳ quái xuất hiện.
    120

    “Thử nhân” nghĩa là người ấy, hay gia đình ấy, “nếu đem các thứ quý
    giá”, nếu dùng các đồ quý giá, thuộc loại đắt tiền; “cung kính cúng dường đức
    Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thời những mộng ác, những hình
    tướng ác, những điều chẳng lành, đều biến mất hết”, đem những thứ đó để cúng
    dường đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai một cách cung kính, thời những
    mộng ác, tướng ác, tỷ dụ như trong mộng thấy rắn, thấy hổ, sói, beo, sâu bọ, tất cả
    những thứ chẳng lành đó, bỗng dưng tiêu tan hết. Cho nên bất kể người nào trong
    chúng ta, nếu trong nhà xảy ra những sự tình chẳng lành, chúng ta nên gấp gáp
    cúng dường đức Phật Dược Sư một cách cung kính, thì ắt sẽ có điều cát tường đến,
    mọi rắc rối sẽ biết mất; “chẳng làm hại được”, không còn lo ngại vấn đề gì nữa;
    “Hoặc có sợ hãi tai nạn thủy hỏa, đao binh độc chất, cheo leo hiểm nghèo”,
    hoặc bị nước nhấn chìm, bị lửa đốt, bị dao chém, gặp chất độc, hoặc ở chỗ cheo
    leo hiểm nghèo; “voi dữ sư tử, hùm sói gấu bi, rắn độc bọ cạp, rết độc sâu bọ,
    ruồi muỗi các loại”, các loại voi dữ, sư tử, hổ, báo, gấu đen, bi – “bi” cũng là một
    loại ác thú - rắn độc, bọ cạp, rết, sâu du diên, tức là loài sâu chuyên hút tủy não
    trong đầu, ruồi muỗi hay các loại sâu bọ có hại, nói chung các thứ gây nên sợ hãi;
    “nếu dốc một lòng, niệm đức Phật kia, cung kính cúng dường, thời các sợ hãi,
    đều được giải hết”, nếu như dốc lòng nhớ tới đức Phật Dược Sư, rồi cúng dường
    một cách cung kính, thì tất cả mọi thứ sợ hãi đều được giải trừ; “Nếu có nước
    khác, xâm lấn quấy rối, giặc cướp phản loạn, thời người cung kính, niệm đức
    Phật kia, cũng đều giải thoát”, nếu có một nước khác đến xâm lược, hay là trong
    nước đạo tặc hay phản loạn nổi lên, song trong lòng luôn luôn nhớ tới đức Dược
    Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì các nạn này cũng được giải trừ. Tóm lại, hết thảy
    các tai nạn đều nhất loạt tiêu tan, xấu đổi thành tốt, điều chẳng lành biến thành điều
    may mắn.
    121

    Còn nữa này ông Văn thù Sư Lợi! Nếu có những người, thiện nam thiện
    nữ, lòng tin thanh tịnh, cho đến hết đời chẳng thờ thần khác, chỉ dốc một lòng
    quy Phật Pháp Tăng, chịu giữ cấm giới, hoặc năm giới, mười giới, bốn trăm
    giới Bồ tát, hai trăm năm mươi giới Bật-sô, năm trăm giới Bật-sô-ni, nếu
    trong chỗ giới, có ai vi phạm sợ đọa đường ác, mà hay chuyên niệm danh hiệu
    Phật kia, cung kính cúng dường, thì quyết chẳng sanh, vào ba đường ác. Hoặc
    có nữ phụ, tới khi sanh nở, chịu rất đau đớn, nếu hay dốc lòng niệm danh hiệu
    Phật, lễ bái tán thán, cung kính cúng dường, thì mọi đau khổ, đều tự diệt hết,
    đứa con sanh ra thân phận đầy đủ, hình dáng đoan chính, ai thấy cũng mừng,
    thông minh sáng láng, an ổn ít bệnh, không bị phi nhân, đoạt mất tinh khí.
    Phục thứ Mạn Thù Thất Lợi! Nhược hữu tịnh tín thiện nam tử, thiện
    nữ nhân đẳng, nãi chí tận hình bất sự dư thiên, duy đương nhất tâm quy
    Phật Pháp Tăng, thọ trì cấm giới, nhược ngũ giới, thập giới, Bồ tát tứ bách
    giới, Bí sô nhị bách ngũ thập giới, Bí sô ni ngũ bách giới, ư sở thọ trung,
    hoặc hữu hủy phạm, bố đọa ác thú, nhược năng chuyên niệm bỉ Phật danh
    hiệu, cung kính cúng dường giả, tất định bất thọ tam ác thú sanh; hoặc
    hữu nữ nhân lâm đương sản thời, thọ ư cực khổ, nhược năng chí tâm xưng
    danh lễ tán, cung kính cúng dường bỉ Như Lai giả, chúng khổ giai trừ, sở
    sanh chi tử, thân phận cụ túc, hình sắc đoan chính, kiến giả hoan hỷ, lợi
    căn thông minh, an ổn thiểu bệnh, vô hữu phi nhân đoạt kỳ tinh khí.
    “Còn nữa này ông Văn thù Sư Lợi!”. Đức Phật Thích-ca lại nhắc: “Còn
    nữa, này ông Văn Thù Sư Lợi”; “Nếu có những người, thiện nam thiện nữ, lòng
    tin thanh tịnh”, nếu có những thiện nam và thiện nữ có lòng tin thanh tịnh; “cho
    122

    đến hết đời”, tận hình là hết một đời; “chẳng thờ thần khác” (bất sự dư thiên),
    tức là không lễ bái trời đất, quỷ thần, không theo các đạo khác v.v..; “chỉ dốc một
    lòng quy Phật Pháp Tăng”, dốc một lòng nương tựa Phật Pháp Tăng; “thọ trì
    cấm giới”, cấm nghĩa là không được làm, giới cấm thì phải giữ một cách nghiêm
    cẩn; “hoặc năm giới” như năm giới cấm là: giết hại chúng sanh, trộm cắp, dâm tà,
    nói dối, uống rượu; “mười giới”, còn gọi là giới Sa-di; “bốn trăm giới Bồ tát, hai
    trăm năm mươi giới Bí-sô, năm trăm giới Bí-sô-ni”, bốn trăm giới của các vị
    Bồ-tát, hai trăm năm mươi giới của các Tỳ-kheo, còn đối với các Tỳ-kheo-ni thì có
    năm trăm giới.
    “Nếu trong chỗ giới”, nghĩa là trong phạm vi các giới cấm; “có ai vi
    phạm”, hễ có sự vi phạm, cố ý hay không cố ý; “sợ đọa đường ác”, lòng rất sợ
    hãi sẽ bị đọa vào ba đường ác; “mà hay chuyên niệm danh hiệu Phật kia”, nếu
    như thành khẩn và thiết tha niệm danh hiệu của đức Phật kia, nghĩa là niệm: “Nam-
    mô Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật”; “cung kính cúng dường, thì quyết chẳng
    sanh, vào ba đường ác”, thành tâm khẩn thiết cung kính và cúng dường thì người
    đó nhất định không bị sa vào các đường ác, như đọa địa ngục, hoặc làm quỷ đói
    hay làm kiếp súc sanh.
    “Hoặc có nữ phụ, tới khi sanh nở, chịu rất đau đớn”, giả dụ trường hợp
    phụ nữ, lúc sắp sanh con, đau đớn không chịu nổi; “nếu hay dốc lòng niệm danh
    hiệu Phật, lễ bái tán thán, cung kính cúng dường”, nếu người đó dốc lòng xưng
    tán danh hiệu, hoặc giả cung kính cúng dường đức Phật kia, tức đức Thế Tôn Dược
    Sư Lưu Ly Quang Như Lai; “thì mọi đau khổ, đều tự diệt hết”, thì các sự đau
    đớn sẽ được giải trừ.
    “Đứa con sanh ra thân phận đầy đủ”, đứa con sanh ra, dầu trai hay gái,
    đều đủ cả sáu căn, không phải như trường hợp thiếu một cái tai hay thiếu một con
    mắt, mũi, miệng v.v.. tóm lại thân thể hoàn toàn đầy đủ, hoàn chỉnh.
    123

    “Hình dáng đoan chính, ai thấy cũng mừng, thông minh sáng láng, an
    ổn ít bệnh, không bị phi nhân, đoạt mất tinh khí”, đây nói về tướng mạo của
    đứa trẻ thì tốt đẹp, hoàn hảo, ai trông thấy cũng ưa, các căn thì sáng láng, thông
    minh lạ thường, sức khỏe tốt, ít đau ốm, lại không gặp cảnh huống bị bọn yêu quái
    đoạt mất tinh khí. Tại sao được như vậy? Bởi đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly
    Quang Như Lai có oai thần lớn nên hết thảy các loài yêu ma quỷ quái, các loại
    ngưu quỷ, xà thần đều phải xa lánh.
    ※※※
    ※※※ ※※※
    Ngày hôm nay, tôi có điều này báo cho các quý vị hay là những người ở Los
    Angeles đây có duyên với một trong các vị Đại Bồ-tát. Khí hậu vùng Los Angeles
    cũng na ná giống vùng Cửu Hoa Sơn bên Trung Hoa, nhân duyên cũng tương tự,
    cho nên mọi người trong vùng này đều có duyên với Bồ-tát Địa Tạng. Cũng vì mối
    quan hệ đó mà Kim Luân Thánh Tự đã tôn ngài Địa Tạng làm chủ và thờ ngài
    Quán Âm làm Hộ Pháp, hộ trì cho đạo tràng. Trong tương lai chúng ta sẽ thỉnh một
    tôn tượng của Ngài Địa Tạng về chùa Kim Luân này.
    Có một điểm quý vị nên lưu ý. Ai muốn đảnh lễ Ngài Địa Tạng thì hãy tới
    Kim Luân Thánh Tự. Muốn đảnh lễ Đức Quán Âm, hãy đến Vạn Phật Thánh
    Thành, vì ở đó Bồ-tát Quán Thế Âm làm chủ, còn ngài Địa Tạng làm Hộ Pháp, hộ
    trì cho đạo tràng kể trên. Nguyên nhân là tiết trời tại khu San Francisco cùng với
    Phổ-đà sơn có điểm giống nhau, khí hậu không khác bao nhiêu, thành thử đạo
    tràng của Bồ-tát Quán Âm đã đặt ở nơi đó.
    Vancouver là đạo tràng của ngài Văn-thù vì ngài Văn-thù thường thường thị
    hiện tại đây. Ở Vancouver có một quả núi, thường phát ra ánh sáng, đó là do ngài
    Văn Thù phóng quang. Đạo tràng tại Seattle thì tôn ngài Phổ Hiền làm chủ, và ngài
    124

    Văn-thù làm Hộ Pháp. Ai muốn chiêm bái Bồ tát Phổ Hiền thì hãy đến Seattle,
    cũng giống như quý vị triều bái Nga-mi sơn vậy.
    Quý vị đều cư ngụ cách xa Trung quốc, muốn triều bái Bồ-tát Quán Thế Âm
    thì khỏi cần đi xa, chúng ta hãy đến Vạn Phật Thánh Thành; muốn triều bái Cửu
    Hoa Sơn thì đến Kim Luân Thánh Tự; muốn đi ngũ Đài Sơn chiêm bái ngài Văn
    Thù Sư Lợi thì lại đến Vancouver. Để đáp ứng nhu cầu đó mà tôi đã thỉnh cả bốn
    vị đại Bồ-tát, mời các Ngài đến bốn đạo tràng của địa phương này, đặng giúp cho
    quý vị tiện đường chiêm bái mà không cần phải mất công đi xa.
    Tôi nói bốn vị Bồ tát trú tại các đạo tràng nói trên, không có nghĩa rằng quý
    vị đến đấy ắt sẽ trông thấy các Ngài. Đó chỉ là điều cảm ứng riêng của tôi, tôi nói
    ra để quý vị biết. Còn tin hay không tin là tùy tâm quý vị.
    (Tới chỗ này có một đoạn chử in màu nâu do một vị đệ tử bổ giảng vì băng thâu bị
    sót mất)
    Bấy giờ Thế Tôn, bảo A-nan rằng: Như ta khen ngợi công đức của đức
    Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đó là những chỗ rất sâu của các
    hành vi chư Phật, khó hiểu đến cùng. Ông có tin không?
    Nhĩ thời Thế Tôn cáo A Nan ngôn: “Như ngã xưng dương bỉ Thế Tôn
    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai sở hữu công đức, thử thị chư Phật thậm
    thâm hành xứ, nan khả giải liễu, nhữ vị tín phủ?”
    Chúng ta tu học Phật cần phải có lòng tin chân thật, lời nguyện thiết tha thì
    mới có được lợi ích. Cho nên Kinh Hoa Nghiêm có nói: “Lòng tin là gốc của Đạo,
    125

    là mẹ của công đức, nuôi dưỡng và phát triển hết thảy các thiện căn”. Nếu lòng tin
    của chúng ta không đủ thì công đức không thể thành tựu được.
    “Bấy giờ Thế Tôn, bảo A-nan rằng:”, lúc bấy giờ Phật bảo Tôn giả A-nan
    rằng; “Như ta khen ngợi công đức của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang
    Như Lai, đó là những chỗ rất sâu của các hành vi chư Phật”, như ở trên ta vừa
    tán dương mọi công đức của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đó
    đều là những cảnh giới trong đó hiển xuất những hành vi thâm diệu của chư Phật;
    “khó hiểu đến cùng”, khó có thể hiểu tường tận, chỉ có Phật với Phật mới hiểu
    được mà thôi, còn như phàm phu thì không hiểu được, cũng không tưởng tượng
    được; “Ông có tin không?”, ông A-nan! Ông có tin không? Ông có thực thà tin
    những lời tôi nói mà không có chút hoài nghi nào không?
    A-Nan bạch rằng: Đại đức Thế Tôn! Con đối với kinh của Phật đã nói,
    chẳng sanh nghi hoặc, là vì lẽ sao? Vì rằng ba nghiệp thân ngữ ý của hết thảy
    chư Phật đều thanh tịnh cả. Đại đức Thế Tôn! Vầng nhật nguyệt kia, làm rơi
    xuống được, núi Diệu Cao Vương làm nghiêng đổ được, lời chư Phật nói
    không có khác được.
    A Nan bạch ngôn: “Đại đức Thế Tôn! Ngã ư Như Lai sở thuyết khế
    kinh bất sinh nghi hoặc, sở dĩ giả hà? Nhất thiết Như Lai, thân ngữ ý
    nghiệp, vô bất thanh tịnh. Thế Tôn! Thử nhật nguyệt luân, khả linh đọa
    lạc, Diệu cao sơn vương, khả sử khuynh động, chư Phật sở ngôn, vô hữu dị
    dã.
    126

    “A-Nan bạch rằng:”, Tôn giả A-nan đáp lại rằng; “Đại đức Thế Tôn!”
    Ông A-nan dùng chữ đại đức để thưa lên Phật; “Con đối với kinh của Phật đã
    nói” (Ngã ư Như Lai sở thuyết khế kinh), đối với khế kinh mà Phật đã giảng
    thuyết. Chữ “khế” là khế hợp, là ăn khớp, trên thì khế hợp với đạo lý của chư
    Phật, dưới thì khế hợp với căn cơ của chúng sanh; “chẳng sanh nghi hoặc, là
    vì lẽ sao?” con không có điều gì nghi hoặc, lý do gì?; “Vì rằng ba nghiệp thân
    ngữ ý của hết thảy chư Phật đều thanh tịnh cả”; bởi lẽ đối với hết thảy các chư
    Phật, thì thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp của các Ngài, không có chỗ nào là
    không thanh tịnh, không có điểm nào là ô nhiễm, không có điểm nào là không chân
    thực.
    “Đại đức Thế Tôn! Vầng nhật nguyệt kia, làm rơi xuống được”, bạch
    Thế Tôn! Vầng mặt trăng và mặt trời kia của cái thế gian này, có thể làm cho rớt
    xuống; “núi Diệu Cao Vương làm nghiêng đổ được”, Diệu Cao Sơn, hay còn gọi
    là núi Tu-di. Diệu Cao Sơn kia có thể làm cho đổ, tóm lại tất cả mọi thứ trên đời
    đều có thể bị biến đổi, nhưng “lời chư Phật nói không có khác được.”, những
    điều chư Phật nói đều là chân thật chẳng hư dối, không có cách gì mà nói khác
    được.
    Bạch đức Thế Tôn! Có những chúng sanh, tín căn chẳng đủ, nghe nói
    đến những công hạnh sâu mầu của chư Phật, mà nghĩ ra rằng, làm gì chỉ niệm
    một danh hiệu Phật của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, mà được ngay
    những thắng lợi công đức, nhiều đến như vậy! Vì chẳng tin vậy, sinh ra phỉ
    báng, người đó ở chỗ đêm dài tối mịt, mất hết lợi lạc, đọa các đường ác, lưu
    chuyển vô cùng.
    Thế Tôn! Hữu chư chúng sanh, tín căn bất cụ, văn thuyết chư Phật
    thậm thâm hành xứ, tác thị tư duy: vân hà đản niệm Dược Sư Lưu Ly
    127

    Quang Như Lai nhất Phật danh hiệu, tiện hoạch nhĩ sở công đức thắng lợi,
    do thử bất tín, phản sinh phỉ báng, bỉ ư trường dạ, thất đại lợi lạc, đọa chư
    ác thú, lưu chuyển vô cùng.
    “Bạch đức Thế Tôn! Có những chúng sanh, tín căn chẳng đủ”, Tuy
    nhiên, bạch Thế Tôn! Có những chúng sanh, lòng tin không đủ, hoài nghi còn
    nặng, vì họ không có căn lành về tín tâm, cho nên “nghe nói đến những công
    hạnh sâu mầu (thậm thâm sở hành) của chư Phật”, nghe nói tới những chỗ thâm
    sâu, tức là những hành vi tạo tác của chư Phật, trong đó toàn là những điều khó
    lường được về trí huệ, phước đức và thần thông diệu dụng của các Ngài; “mà nghĩ
    ra rằng”, những người đó đã có sẵn lòng nghi hoặc, nên họ mới khởi lên ý nghĩ
    này; “làm gì chỉ niệm một danh hiệu Phật của đức Dược Sư Lưu Ly Quang
    Như Lai, mà được ngay những thắng lợi công đức, nhiều đến như vậy!”, tại
    làm sao chỉ niệm danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, chỉ một
    danh hiệu thôi mà lại có được vô lượng vô biên công đức và những lợi ích tột bực
    như vậy?; “Vì chẳng tin vậy, sinh ra phỉ báng”, bởi vậy họ chẳng tin, mà ngược
    lại còn sinh lòng phỉ báng. Họ bảo rằng: “Phật lừa gạt mọi người, nói những lời dối
    trá, làm những việc dối trá”, đại khái họ thốt ra những lời điên đảo như vậy rồi còn
    xui khiến người khác sanh tâm hoài nghi đối với Tam Bảo.
    “Người đó ở chỗ đêm dài tối mịt, mất hết lợi lạc”, những loại người đó
    như ở trong đêm dài, tối mịt, mất hết mọi thứ lợi ích và hoan lạc; “đọa các đường
    ác, lưu chuyển vô cùng”. Bị đọa vào các đường ác, như vào địa ngục, hay làm
    thân quỷ đói, súc sanh, rồi cứ như vậy luân chuyển không bao giờ ngừng.
    Phật bảo A-nan, nếu nghe danh hiệu Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang
    Như Lai, dốc lòng trì niệm, chẳng sinh nghi hoặc, thời chẳng khi nào phải đọa
    128

    đường ác. Này A-nan! Đó là những công hạnh sâu mầu của chư Phật, rất khó
    tin hiểu. Nay ông tin được thì nên biết rằng đó là thần lực của đức Như Lai.
    Này A-nan! Hết thảy các vị, Thanh văn Độc giác, cùng các Bồ tát, hàng vị
    đăng Địa, cũng đều chưa thể thực tin và hiểu. Duy hàng Bồ tát, còn một kiếp
    sanh, mới thực tin hiểu. Này A-nan! Thân người khó được, có lòng tin kính,
    tôn trọng Tam Bảo cũng rất khó được; nghe đến danh hiệu, Thế Tôn Dược Sư
    Lưu Ly Quang Như Lai, cũng khó như vậy. Này A-nan! Đức Thế Tôn Dược
    Sư Lưu Ly Quang Như Lai, có hạnh Bồ-tát, nhiều không xiết kể, phương tiện
    khéo léo, nhiều không xiết kể, nguyện lớn cũng nhiều, không sao xiết kể. Nếu
    lấy một kiếp, hay hơn một kiếp, để ta nói rộng, thì các hạnh nguyện của đức
    Phật kia, cùng những phương tiện khéo léo của Ngài không bao giờ hết.
    Phật cáo: A Nan! Thị chư hữu tình, nhược văn Thế Tôn Dược Sư Lưu
    Ly Quang Như Lai danh hiệu, chí tâm thọ trì, bất sanh nghi hoặc, đọa ác
    thú giả, vô hữu thị xứ. A Nan! Thử thị chư Phật thậm thâm sở hành, nan
    khả tín giải, như kim năng thọ, đương tri giai thị Như Lai uy lực. A Nan!
    Nhất thiết Thanh văn Độc giác, cập vị đăng Địa chư Bồ tát đẳng, giai tất
    bất năng như thực tín giải, duy trừ nhất sinh sở hệ Bồ tát. A Nan! Nhân
    thân nan đắc, ư Tam Bảo trung, tín kính tôn trọng, diệc nan khả đắc, văn
    Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai danh hiệu, phục nan ư thị. A Nan!
    Bỉ Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, vô lượng Bồ tát hạnh, vô lượng Bồ tát
    thiện xảo phương tiện, vô lượng quảng đại nguyện, ngã nhược nhất kiếp,
    nhược nhất kiếp dư, nhi quảng thuyết giả, kiếp khả tốc tận, bỉ Phật hạnh
    nguyện thiện xảo phương tiện, vô hữu tận dã.
    129

    “Phật bảo A-nan, nếu nghe danh hiệu Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang
    Như Lai”, Phật bảo Ông A-nan rằng nếu các hữu tình kia, tức là những người vừa
    nói ở trên, được nghe đến danh hiệu của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang
    Như Lai; “chẳng sinh nghi hoặc, thời chẳng khi nào phải đọa đường ác”, nghe
    rồi lại dốc lòng chí thành và khẩn thiết thọ trì, chẳng có chút gì nghi hoặc, thì
    những người đó chẳng khi nào phải đọa vào các đường ác; “Này A-nan! Đó là
    những chỗ hành vi rất sâu của các đức Phật, rất khó tin hiểu”, đó là những chỗ
    hành vi của chư Phật, những gì các chư Phật làm, có tầm trí huệ rất là thâm sâu, rất
    khó tin và rất khó hiểu.
    “Nay ông tin được thì nên biết rằng đó là thần lực của đức Như Lai”,
    như nay ông có thể tin được và tiếp thọ thì phải biết rằng đó chẳng phải do sức của
    chính ông mà do oai lực thần diệu của Phật gia bị cho ông, khiến ông có được một
    lòng tin tuyệt đối như vậy. Tại sao vậy? “Này A-nan! Hết thảy các vị, Thanh văn
    Độc giác”, Này ông A-nan, không kể tới các hạng phàm phu chúng sanh, ngay đến
    những vị đã có tu chứng, đã được Sơ quả, Nhị quả, Tam quả, Tứ quả, của hàng
    Thanh văn, và Độc giác tức quả Bích-chi Phật; “cùng các Bồ tát, hàng vị đăng
    Địa, cũng đều chưa thể thực tin và hiểu. Duy hàng Bồ tát, còn một kiếp sanh,
    mới thực tin hiểu” cũng như các vị Bồ-tát chưa vào được Sơ địa, cũng chưa thể có
    lòng tin hiểu một cách chân thật. Chỉ ngoại trừ các vị Bồ tát chỉ còn một kiếp sanh,
    tức đã tới hàng Đẳng giác, hay Bồ tát nhất sinh bổ xứ mới có được lòng tin chân
    thực chẳng đổi.
    “Này A-nan! Thân người khó được”, Ông A-nan, làm được thân người là
    khó; “có lòng tin kính, tôn trọng Tam Bảo cũng rất khó được”, trong Tam Bảo
    đối với Phật, Pháp, Tăng mà có lòng tin, cung kính và trân trong, cũng là việc khó.
    Vậy mà “nghe đến danh hiệu, Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cũng
    130

    khó như vậy”, nghe được danh hiệu của đức Phật kia là Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly
    Quang Như Lai thì còn khó hơn nữa.
    “Này A-nan! Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, có hạnh
    Bồ-tát, nhiều không xiết kể, phương tiện khéo léo, nhiều không xiết kể,
    nguyện lớn cũng nhiều, không sao xiết kể”, Phật lại bảo: Ông A-nan, Thế Tôn
    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia đã tu vô lượng vô biên các hạnh Bồ tát, đã
    vận dụng vô lượng vô biên những phương tiện khéo léo, cũng như phát những
    nguyện lớn nhiều không xiết kể; “Nếu lấy một kiếp, hay hơn một kiếp, để ta nói
    rộng, thì các hạnh nguyện của đức Phật kia, cùng những phương tiện khéo léo
    của Ngài không bao giờ hết”, giả dụ ta giảng giải rộng những thứ đó thì thời gian
    dài trong một kiếp, hay hơn một kiếp, có thể chóng hết, mà các hạnh nguyện và
    phương tiện khéo léo của ngài kể ra không thể hết được.
    (Đến chỗ này là hết phần bổ túc thay thế cho phần thâu âm bị mất)
    Trong chúng bấy giờ, có đại Bồ-tát, tên là Cứu Thoát, liền từ tòa khởi,
    đứng dậy kéo áo, hở vai bên phải, quỳ gối bên phải, sát xuống tận đất, cúi
    mình chắp tay, mà bạch Phật rằng: Đại đức Thế Tôn! Khi Tượng Pháp
    chuyển, có những chúng sanh, bị nhiều hoạn nạn, làm cho khốn khổ, đau ốm
    gầy mòn, chẳng ăn uống được, cổ ráo môi khô, thấy mọi phương tối, tướng
    chết hiện ra, cha mẹ thân thuộc, bạn bè quen biết, xúm quanh than khóc, thân
    người đau kia, vẫn nằm yên đấy, mà thấy sứ giả, của vua Diêm Ma, dẫn thần
    thức mình đến trước cửa tòa pháp vương Diêm Ma. Những người hữu tình,
    người nào cũng có, một thần câu sinh, người ấy làm gì, tội ấy phước ấy, đều
    được ghi lại, rồi đem trình hết, cho vua Diêm Ma. Bấy giờ vua liền, xét hỏi
    người ấy, tính toán mọi việc người ấy đã làm, theo chỗ tội phước, mà định xét
    xử ấy. Như vào lúc ấy, có người thân thuộc, hay người quen biết, những người
    131

    bệnh ấy, quy y Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cho người bệnh ấy,
    mời đón chư Tăng, đọc tụng kinh này, đốt đèn bảy tầng, treo phướn tục
    mạng, có đủ năm màu. Lập được Pháp hội như thế, thì thần thức người ấy, sẽ
    được trở về, như trong giấc mộng, thấy rõ mọi sự.
    Nhĩ thời chúng trung hữu nhất Bồ tát ma-ha-tát, danh viết Cứu
    Thoát, tức tòng tòa khởi thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, khúc cung
    hợp chưởng, nhi bạch Phật ngôn: Đại đức Thế Tôn! Tượng Pháp chuyển
    thời, hữu chư chúng sanh vị chủng chủng hoạn chi sở khốn ách, trường
    bệnh luy sấu, bất năng ẩm thực, hầu thần càn táo, kiến chư phương ám,
    tử tướng hiện tiền, phụ mẫu thân thuộc bằng hữu tri thức, đề khấp vi
    nhiễu, nhiên bỉ tự thân ngọa tại bản xứ, kiến Diêm-ma sứ, dẫn kỳ thần
    thức chí ư Diêm-ma pháp vương chi tiền, nhiên chư hữu tình, hữu câu sinh
    thần, tùy kỳ sở tác, nhược tội nhược phước, giai cụ thư chi, tận trì thọ dữ
    Diêm-ma pháp vương; nhĩ thời bỉ vương thôi vấn kỳ nhân, kế toán sở tác,
    tùy kỳ tội phước, nhi xử đoán chi. Thời bỉ bệnh nhân thân thuộc, tri thức,
    nhược năng vị bỉ quy y Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thỉnh chư
    chúng Tăng chuyển độc thử kinh, nhiên thất tằng chi đăng, huyền ngũ sắc
    tục mệnh thần phan, hoặc hữu thị xứ, bỉ thức đắc hoàn, như tại mộng
    trung, minh liễu tự kiến.
    Đoạn kinh văn nói trên cho biết về các hạnh nguyện và những phương tiện
    khéo léo của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, nhiều không kể xiết,
    nói cho đến kiếp vị lai cũng không hết được.
    “Trong chúng bấy giờ, có đại Bồ-tát, tên là Cứu Thoát”, lúc bấy giờ ở
    trong đại chúng có một vị thuộc hàng đại Bồ-tát, tên là Bồ tát Cứu Thoát; “liền từ
    132

    tòa khởi, đứng dậy kéo áo, hở vai bên phải, quỳ gối bên phải, sát xuống tận
    đất, cúi mình chắp tay, mà bạch Phật rằng:”, từ chỗ ngồi, đứng dậy, để lộ trần
    phía vai bên phải, còn đầu gối bên phải thì quỳ xuống mà bạch Phật rằng :
    “Đại đức Thế Tôn!” Vị Bồ-tát này xưng lên Phật là Đại đức Thế Tôn;
    “Tượng Pháp chuyển thời”, khi thời Tượng Pháp chuyển, tức là khi thời kỳ
    Chánh Pháp đã qua, đến thời Tượng Pháp. Thời kỳ Chánh Pháp được coi là thời kỳ
    của thiền định kiên cố, nên có rất nhiều người chứng quả, đó là quả A-la-hán. Còn
    thời Tượng Pháp thì được coi là thời kỳ của chùa miếu kiên cố, người ta chuyên
    đúc tượng và xây chùa;
    “Có những chúng sanh, bị nhiều hoạn nạn, làm cho khốn khổ, đau ốm
    gầy mòn, chẳng ăn uống được, cổ ráo môi khô, thấy mọi phương tối, tướng
    chết hiện ra”, có những chúng sanh bị nhiều thứ bệnh hoạn làm cho đau đớn khổ
    sở, rồi lâu ngày ốm yếu, da bọc xương, ăn không được, uống không được, cổ họng
    và môi khô, vậy mà nước cũng không uống được, khốn khổ vô cùng. Họ nhìn ra
    xung quang thì chỗ nào cũng là đen tối, tự mình cảm thấy cái chết gần kề; “cha mẹ
    thân thuộc, bạn bè quen biết, xúm quanh than khóc”, lúc đó cha mẹ, hoặc
    quyến thuộc, hoặc bạn bè, những người quen biết, ai nấy đều xúm lại khóc lóc;
    “mà thấy sứ giả, của vua Diêm Ma, dẫn thần thức mình đến trước cửa tòa
    pháp vương Diêm Ma”, còn bản thân người bệnh, vẫn nằm yên tại chỗ, mà thấy
    những sứ giả của vua Diêm-Ma dẫn thần thức của họ, hay còn gọi là thần hồn, đến
    trước tòa của vua Diêm Ma.
    “Những người hữu tình, người nào cũng có, một thần câu sinh, người
    ấy làm gì, tội ấy phước ấy, đều được ghi lại, rồi đem trình hết, cho vua Diêm
    Ma”, phàm là giống hữu tình, ai nấy đều có “thần câu sinh”, nghĩa là cùng sanh ra
    với mình và theo mình suốt cả cuộc đời; thần này có khả năng ghi lại hết những
    việc mình làm, những việc thiện việc ác, rồi trình lại hết cho vua Diêm ma. Cùng
    lúc ấy, thần thức của những người quen biết khác cũng được đưa tới trước vua
    133

    Diêm Ma. Người đó thấy hết những điều người ấy đã làm trong đời, tội nào phước
    nào đều hiện ra hết cả.
    “Bấy giờ vua liền, xét hỏi người ấy, tính toán mọi việc người ấy đã làm,
    theo chỗ tội phước, mà định xét xử ấy”, lúc bấy giờ, vua Diêm Ma mới tra hỏi
    người ấy, tổng kết lại những điều người ấy đã làm, rồi cân nhắc hai phần tội và
    phước mà định việc xử đoán.
    “Như vào lúc ấy, có người thân thuộc, hay người quen biết, những
    người bệnh ấy, quy y Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cho người
    bệnh ấy”, lúc ấy, nếu có thân nhân của người bệnh như cha mẹ, anh em, vợ con,
    hay những người quen biết, muốn vì lợi ích của người bệnh mà làm công đức, bằng
    cách quy y đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai; “mời đón chư Tăng,
    đọc tụng kinh này, đốt đèn bảy tầng, treo phướn tục mạng, có đủ năm màu.
    Lập được Pháp hội như thế (hoặc hữu thị xứ)”, mời thỉnh các Tăng, tức là những
    vị xuất gia tu hành đạo đức và giữ giới luật để tụng đọc kinh “Công Đức các Bổn
    Nguyện của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”, đốt đèn 7 tầng, mỗi
    tầng 7 cây đèn, tổng cộng là 49 cây đèn, treo những lá phướn năm màu, gọi là
    phướn tục mạng. Nếu cử hành pháp hội được đúng như thế, “thì thần thức người
    ấy, sẽ được trở về, như trong giấc mộng, thấy rõ mọi sự”, thần thức của người
    bệnh sẽ được trở về, giống như trải qua một giấc mộng, thấy các sự việc một cách
    rõ ràng, rồi nhớ lại được các cảnh giới ấy.
    Hoặc qua bảy ngày, hoặc hăm mốt ngày, hoặc ba lăm ngày, hoặc bốn
    chín ngày, thần thức người ấy, khi được trở về, như tỉnh giấc mộng, tự mình
    nhớ biết, quả báo của các nghiệp thiện bất thiện. Vì tự chứng kiến quả báo các
    nghiệp, nên dù mắc nạn cũng chẳng dám làm những nghiệp ác nữa; vì thế cho
    nên những người tịnh tín, thiện nam thiện nữ, đều nên trì niệm danh hiệu
    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, tùy theo sức mình, cung kính cúng dường.
    134

    Hoặc kinh thất nhật, hoặc nhị thập nhất nhật, hoặc tam thập ngũ
    nhật, hoặc tứ thập cửu nhật, bỉ thức hoàn thời, như tòng mộng giác, giai
    tự ức tri thiện bất thiện nghiệp, sở đắc quả báo, do tự chứng kiến nghiệp
    quả báo cố, nãi chí mệnh nạn, diệc bất tạo tác chư ác chi nghiệp; thị cố
    tịnh tín thiện nam tử, thiện nữ nhân đẳng, giai ưng thọ trì Dược Sư Lưu Ly
    Quang Như Lai danh hiệu, tùy lực sở năng, cung kính cúng dường.
    “Hoặc qua bảy ngày, hoặc hăm mốt ngày, hoặc ba lăm ngày, hoặc bốn
    chín ngày, thần thức người ấy, khi được trở về”, những thân thuộc hoặc bạn bè
    hoặc đọc kinh, hoặc bái “Sám Dược Sư” với hy vọng thần thức người bệnh từ chỗ
    vua Diêm la trở về, trong bao lâu chưa rõ, có thể trong 7 ngày, hay ba tuần lễ tức
    21 ngày, hay năm tuần lễ tức 35 ngày, cho tới bảy tuần lễ tức 49 ngày. Khi trở về,
    người đó có cảm giác “như tỉnh giấc mộng, tự mình nhớ biết, quả báo của các
    nghiệp thiện bất thiện”, như y vừa ra khỏi một giấc mộng và nhớ lại rõ ràng quả
    báo của các nghiệp thiện và nghiệp bất thiện; “Vì tự chứng kiến quả báo các
    nghiệp, nên dù mắc nạn cũng chẳng dám làm những nghiệp ác nữa”, bởi tự
    mình chứng nghiệm những quả báo do các việc làm của chính mình, cho nên dù
    phải gặp nạn, người ấy cũng không dám tạo tác các nghiệp ác nữa; “vì thế cho nên
    những người tịnh tín, thiện nam thiện nữ, đều nên trì niệm danh hiệu Dược
    Sư Lưu Ly Quang Như Lai, tùy theo sức mình, cung kính cúng dường”, bởi
    vậy hết thảy các thiện nam và thiện nữ có lòng tin trong sạch đều nên thọ trì danh
    hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, nghĩa là phải nhớ và tụng danh
    hiệu của Ngài, và tùy theo năng lực của mình để cúng dường đức Dược Sư Lưu Ly
    Quang Như Lai một cách thiết tha cung kính.
    135

    Bấy giờ Tôn giả A Nan hỏi Cứu Thoát Bồ Tát rằng: “Bạch Thiện nam
    tử, nên cung kính cúng dường đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai như thế
    nào? Còn đèn và phang tục mạng phải làm cách sao?”.
    Ngài Cứu Thoát nói: Bạch Đại đức! Nếu có người bệnh, muốn thoát
    bệnh khổ, nên vì người ấy, bảy ngày bảy đêm, chịu giữ cho đủ, tám phần trai
    giới, tùy phương tiện riêng, sắm sửa đồ ăn, các thứ đồ dùng, để đem cúng
    dường, các vị Bí-sô, ngày đêm sáu buổi, lễ bái hành đạo, cung kính cúng
    dường đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đọc tụng kinh này, bốn
    mươi chín lần, thắp bốn chín đèn, tạo bảy tôn tượng đức Như Lai kia, phía
    trước mỗi tượng, đặt chín cái đèn, đèn nào cũng lớn như cái bánh xe, như vậy
    cho đến, bốn mươi chín ngày, đèn sáng chẳng tắt; làm phướn năm màu, chiều
    dài bằng cả, bốn chín gang tay, phải nên phóng sanh, cho đến bốn chín các
    loài khác nhau, như vậy người bệnh, có thể qua được, ách nạn nguy khốn,
    không bị bọn quỷ, hung ác bắt giữ.
    Nhĩ thời A Nan vấn Cứu Thoát Bồ tát viết: Thiện nam tử ưng vân hà
    cung kính cúng dường bỉ Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai? Tục
    mệnh phan đăng, phục vân hà tạo? Cứu Thoát Bồ tát ngôn: Đại đức!
    Nhược hữu bệnh nhân, dục thoát bệnh khổ, đương vị kỳ nhân, thất nhật
    thất dạ thọ trì bát phần trai giới, ưng dĩ ẩm thực, cập dư tư cụ, tùy lực sở
    biện, cúng dường Bí-sô Tăng, trú dạ lục thời lễ bái hành đạo cúng dường bỉ
    Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, độc tụng thử kinh tứ thập cửu
    biến, nhiên tứ thập cửu đăng, tạo bỉ Như Lai hình tượng thất khu, nhất
    nhất tượng tiền, các trí thất đăng, nhất nhất đăng lượng, đại như xa luân,
    nãi chí tứ thập cửu nhật, quang minh bất tuyệt, tạo ngũ sắc thái phan,
    136

    trường tứ thập cửu trích thủ, ưng phóng tạp loại chúng sanh, chí tứ thập
    cửu, khả đắc quá độ nguy ách chi nạn, bất vi chư hoạnh ác quỷ sở trì.
    “Bấy giờ Tôn giả A Nan hỏi Cứu Thoát Bồ Tát rằng:” Giảng kinh tới
    chỗ này, Tôn giả A-nan thấy có điều chưa được rõ, nên ông mới hỏi Bồ tát Cứu
    Thoát rằng: “Bạch Thiện nam tử, nên cung kính cúng dường đức Dược Sư Lưu
    Ly Quang Như Lai như thế nào?” Xin hỏi Thiện nam tử, muốn cúng dường đức
    Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai một cách cung kính, thì phải làm như
    thế nào? “Còn đèn và phang tục mạng phải làm cách sao?” Cây đèn tục mạng
    và cây phướn tục mạng là những cái gì? Bảy tầng đèn là ý nghĩa gì? Phương thức
    chế tạo đèn như thế nào? Bày biện ra sao? Còn cách chế tạo cây phướn, phải làm
    sao để chúng có khả năng tiếp nối mạng sống?
    “Ngài Cứu Thoát nói:” Bồ-tát Cứu Thoát trả lời rằng: “Bạch Đại đức!
    Nếu có người bệnh, muốn thoát bệnh khổ, nên vì người ấy, bảy ngày bảy đêm,
    chịu giữ cho đủ, tám phần trai giới”, Bạch đại đức! Nếu về sau ở cõi Ta-bà này,
    có người ốm đau mà muốn thoát khỏi bệnh khổ thì hãy vì người đó mà giữ đủ tám
    phần trai giới, nghĩa là tu bát quan trai giới, trong bảy ngày bảy đêm; “tùy phương
    tiện riêng, sắm sửa đồ ăn, các thứ đồ dùng, để đem cúng dường, các vị Bí-sô”,
    lại phải nên sắm sửa các đồ ăn uống, cùng những thứ nhu yếu hàng ngày, tùy theo
    khả năng riêng của mình để cúng dường các chư Tăng; “ngày đêm sáu buổi, lễ
    bái hành đạo, cung kính cúng dường đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang
    Như Lai”, ngày đêm sáu thời, ngày ba buổi, đêm ba buổi, lễ bái đức Dược Sư Lưu
    Ly Quang Như Lai với hết cả tấm lòng chí thành khẩn thiết; “đọc tụng kinh này,
    bốn mươi chín lần, thắp bốn chín đèn, tạo bảy tôn tượng đức Như Lai kia”
    đọc kinh Công Đức Bổn Nguyện của Ngài, bốn mươi chín lần, đốt bốn mươi chín
    ngọn đèn, tạo bảy tôn tượng của Ngài Dược Sư; “phía trước mỗi tượng, đặt chín
    137

    cái đèn”, trước mỗi tôn tượng của Ngài thì bày bảy cây đèn; có tất cả bảy tôn
    tượng vậy số đèn tổng cộng là bốn mươi chín ngọn; “đèn nào cũng lớn như cái
    bánh xe”, cỡ các cây đèn này thời to nhỏ ra sao? Nói đèn lớn bằng bánh xe, nhưng
    bánh xe có thứ to thứ nhỏ. Không nhất định cỡ nào, nói tóm lại điểm chủ yếu là
    phải thành tâm; “như vậy cho đến, bốn mươi chín ngày, đèn sáng chẳng tắt”,
    đốt đèn như vậy liên tục trong bốn mươi chín ngày, lúc nào đèn cũng phải sáng,
    không được để cho tắt. Muốn giữ được như vậy, người ta phải châm dầu luôn luôn,
    thì đèn mới sáng liên tục được.
    “Làm phướn năm mầu, chiều dài bằng cả, bốn chín gang tay, phải nên
    phóng sanh, cho đến bốn chín các loài khác nhau, như vậy người bệnh, có thể
    qua được, ách nạn nguy khốn, không bị bọn quỷ, hung ác bắt giữ”. Làm phướn
    đủ năm mầu, chiều dài cỡ bốn mươi chín gang tay; phải phóng sanh, đủ các loại.
    Trên lá phướn, vẽ ra nhiều giống, có thể vẽ 12 con muông thú tượng trưng cho
    vòng hoàng đạo rồi phóng sanh các loại đó. Nói là tạp loại nghĩa là nhiều loại khác
    nhau, chủ yếu là nhiều, có khi hơn cả con số bốn mươi chín loại. Người bệnh có
    thể vượt qua được ách nạn do các thứ ác quỷ, oán quỷ chi phối. Các nạn đó bao
    gồm các nạn về chết đuối, chết cháy, tai nạn xe hơi, máy bay, thuyền máy v.v.., nói
    tóm lại, hết thảy các tai nạn đều được miễn trừ.
    ※※※
    ※※※ ※※※
    Đối với nghĩa lý của lời kinh, quý vị thấy có điểm nào hoài nghi chăng?
    Hoặc giả quý vị có kiến giải riêng mới nẩy sinh, hoặc có ý kiến gì về lời giải thích
    kinh văn? Quý vị cứ tự nhiên trình bầy để chúng ta cùng nhau nghiên cứu. Như có
    câu nào trong kinh mà quý vị thấy có điểm hoài nghi, hay ý nghĩa trong câu chưa
    được minh bạch, chúng ta cũng đưa ra để cùng thảo luận.
    138

    Đạo lý mà chúng ta học trong Phật giáo chẳng phải là đạo lý của quý vị hay
    của tôi, mà cũng chẳng phải là đạo lý của đức Phật nữa. Đó chính là đạo lý của “lô-
    gích” (logic) và của trí huệ mà mọi người cần tuân thủ. Phật giáo chẳng phải như
    các tôn giáo khác, chỉ dành lấy lẽ phải riêng về mình một cách ngược ngạo, thi
    hành đường lối ngu dân, độc tài, để áp chế người, bắt mọi người nghe theo mình
    mà không được đặt vấn đề nào khác. Còn Phật giáo thì biểu hiện một trí huệ cộng
    đồng. Cái gì có phù hợp với trí huệ thì mới gọi là chân lý; không phù hợp thì cái lý
    luận đó không thể áp dụng được. Đạo lý của Phật giáo không phải là thứ gì do một
    quyền lực độc tài, chuyên chế hoặc từ một chính sách ngu dân đưa ra, cho nên ai
    nấy trong chúng ta đều có quyền phát biểu và chúng ta hãy dùng trí huệ của mình
    để phán xét lý luận nào là đúng, lý luận nào là sai. Chúng ta phải có con mắt chọn
    pháp (trạch pháp nhãn), mình làm chủ lấy mình, chớ không phải ai nói sao cũng
    nghe theo làm vậy, hoặc giả không dám tự mình phát huy trí huệ sẵn có của mình.
    Như vậy là sai lầm! Chúng ta còn phải tận lực khai mở loại trí huệ chân chính này
    trong mỗi người của chúng ta.
    Trí huệ của chư Phật là cùng một loại. Còn kinh thì kinh nào cũng cùng
    chung một nguyên lý. Bộ kinh này dạy rằng chúng ta tụng niệm kinh là để giúp
    cho người bệnh qua được cơn đau ốm. Nếu vì người chết mà tụng kinh thì người
    chết sẽ được một phần nhỏ công đức, còn người sống đọc kinh thì công đức lại to
    lớn hơn nhiều. Người chết sẽ được bao nhiêu công đức? Chúng ta không có cách gì
    để biết nổi, dù khoa học cũng không thể đo lường được. Chỉ biết rằng kinh này là
    do Phật nói ra nên số lượng công đức là chẳng thể nghĩ bàn.
    Riêng về đến người sống thì đọc tụng kinh này sẽ mang lại cho họ bao nhiêu
    công đức? Họ được những lợi ích gì? Rất nhiều lợi ích. Số là khi họ đọc tụng kinh
    này, trong tâm của họ sẽ được khai mở, lòng chấp trước của họ sẽ tiêu tan. Phá
    được chấp trước tức họ sẽ có vô lượng công đức. Mê lầm sanh ra tạo nghiệp rồi thọ
    quả báo, và nguyên nhân là từ sự chấp trước. Do chấp trước mà tạo tội. Nếu phá
    139

    được chấp trước thì mọi thứ tội đều chẳng thành, cho nên pháp của Phật nói trong
    kinh là nhằm phá sự chấp trước. Chỉ mang một chút ít chấp trước, người ta cũng
    khó mà giải thoát được. Phá được chút ít đó thì công đức của quý vị sẽ là vô lượng
    và quý vị sẽ chứng được giải thoát.
    Quý vị nên khuyến khích bạn bè thân thích quy y đức Dược Sư Lưu Ly
    Quang Như Lai. Quý vị không phải là người xuất gia nên không được phép truyền
    pháp quy y. Muốn học Phật thì trước tiên là phải học Phật Pháp. Muốn học Phật
    Pháp thì trước đó phải quy y Tăng. Bộ kinh này đã nói rất rõ: kinh dạy rằng chúng
    ta phải thỉnh các Tăng chứng minh và nhờ họ làm Phật sự. Nói Phật sự có nghĩa là
    nói chúng ta phải quy y đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Đã nói quy
    y thì phải thành khẩn, chúng ta đừng nghĩ rằng đây chỉ là chuyện bình thường như
    các việc chúng ta làm hàng ngày một cách tùy tiện, như đói thì ăn, lạnh thì mặc
    quần áo. Học Phật Pháp đòi hỏi chúng ta phải tôn kính Pháp. Pháp được lưu truyền
    là nhờ đoàn thể Tăng-già. Khi nhập Niết-bàn, đức Phật đã giao trọn pháp của Ngài
    cho chư Tăng để lưu truyền hậu thế. Bởi vậy, khi quy y với đức Dược Sư Lưu Ly
    Quang Như Lai, chúng ta phải chí thành khẩn thiết thỉnh chư Tăng đến, nhờ họ xếp
    đặt các nghi thức cho ta. Công việc này không thể thực hiện qua loa cho xong việc,
    như nói: “Ồ! Quy y thì tôi có thể tự mình làm được!” Chẳng phải dễ dàng như vậy
    đâu!
    Lấy một thí dụ, quý vị đến trường nhập học, trước tiên là phải qua các thầy
    giáo dạy bảo, sau đó quý vị mới được bằng cấp. Còn như học lấy một mình, chẳng
    nhờ ai dạy thì ai sẽ cấp bằng cho quý vị. Chuyện đó không thể có được.
    Đệ tử: Kinh nói phải phóng sanh các loại khác nhau, có thể đến bốn mươi
    chín loài. Như vậy các chúng sanh đó có phải là những loài mà người ta ăn thịt
    không?
    140

    Thượng Nhân: Có loài chúng sanh nào mà người ta không ăn thịt chăng?
    Mèo ư? Chuột ư? Thời nay nhiều người thích ăn thịt mèo và thịt chuột. Quý vị bảo
    người ta không ăn thịt kiến ư? Có kiến đóng hộp để mọi người dùng đó! Thử hỏi,
    có loài chúng sanh nào mà người ta không ăn thịt? Quý vị nói thử coi!
    Đệ tử: Người bệnh đã đến tình trạng bất tỉnh, thần thức đã đến trước Diêm
    Vương rồi, vậy mà do công đức của bộ kinh này, thần thức người đó còn có thể trở
    về được. Thật là một điều đáng vui biết bao! Trong các tôn giáo khác, như Thiên
    chúa giáo, Cơ-đốc giáo chẳng hạn, cũng có những chỗ ghi lại sự kiện giống như
    trên, như trường hợp người đã chết, sau đó sống lại và còn nhớ rành rẽ những sự
    việc đã xảy ra. Họ không biết giải thích sự việc kỳ lạ này ra sao, họ cho rằng đó là
    do phép lạ của Chúa. Họ còn chủ trương rằng nếu người ta không tin Chúa thì nhất
    định sẽ bị đọa vào địa ngục. Ai tin Chúa thì dầu làm điều bất thiện vẫn có thể được
    lên thiên đàng, còn ngược lại, không tin Chúa thì chắc chắn xuống địa ngục dầu
    người đó có làm những việc thiện. Lý luận như vậy thiếu “lô-gích” và chẳng thông
    chút nào! Rất nhiều người bị mê hoặc vì lý luận này. Nay, chúng ta xem trong kinh
    Phật, thấy mọi sự tình đều được phơi bầy một cách rành rẽ, hợp lý và tuyệt nhiên
    không có điểm nào nhằm bịt tai bịt mắt mọi người, đó là điều rất đáng vui mừng
    vậy!
    Thượng Nhân: Kiến giải này rất đúng. Trong Phật giáo, ai có điều gì nghi
    hoặc đều có thể nêu ra để được giải đáp và tuyệt nhiên không hề có sự áp đặt lòng
    tin đối với mọi người. Chẳng bao giờ có trường hợp giải đáp không được một điều
    gì thì lại nói rằng: “Đó là ý của Thiên chúa, hoặc giả đó là ý của Phật, ta không có
    quyền được đặt vấn đề”. Chính đức Phật cũng khuyến khích việc thưa hỏi. Việc
    này rất tốt bởi chúng ta không nên sống trong sự lầm lạc. Học Phật là phải hiểu đạo
    lý, mỗi ngày một sáng tỏ hơn, chớ không thể mê tín, nghĩa là tin một cách mê mờ,
    không hiểu rõ đầu đuôi, ai nói sao thì làm vậy. Học Phật là phải có con mắt chọn
    pháp (trạch pháp nhãn), lấy trí huệ chân chánh của mình để phân biệt cái nào là
    141

    Pháp, cái nào chẳng phải Pháp. Càng học Phật, đầu óc càng sáng tỏ, chớ không
    khải càng học càng trở nên hồ đồ. Cần nhận thức rõ chân lý, đó là sự khai mở trí
    huệ. Okay?
    Này ông A-nan! Lại còn như khi các Quán đỉnh vương hàng Sát-đế-lị,
    tai nạn khởi lên, như là dịch nạn, nước khác xâm lấn, phản nghịch trong
    nước, nạn về tinh tú, sao xấu mọc ra, nhật thực nguyệt thực, mưa gió trái
    mùa, đến mùa chẳng mưa, các Quán đảnh vương và Sát-đế-lị, bấy giờ đối với
    hết thảy hữu tình, khởi lòng từ bi, tha những tù tội, mà theo các pháp, cúng
    dường đã nói, cung kính cúng dường đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang
    Như Lai, thời thiện căn ấy và sức bổn nguyện đức Như Lai kia, khiến cho cả
    nước, liền được an ổn, mưa gió đúng thời, lúa cấy được mùa, hết thảy hữu
    tình, vô bệnh mừng vui, ở trong khắp nước, không có những thần bạo ác dược
    xoa, não hại hữu tình, những hình tướng ác thảy đều biến mất.
    Phục thứ A Nan! Nhược Sát đế lị, Quán đỉnh vương đẳng, tai nạn
    khởi thời, sở vị nhân chúng tật dịch nạn, tha quốc xâm bức nạn, tự giới
    bạn nghịch nạn, tinh tú biến quái nạn, nhật nguyệt bạc thực nạn, phi thời
    phong vũ nạn, quá thời bất vũ nạn, bỉ Sát đế lị Quán đỉnh vương đẳng, nhĩ
    thời ưng ư nhất thiết hữu tình, khởi từ bi tâm, xá chư hệ bế, y tiền sở
    thuyết cúng dường chi pháp, cúng dường bỉ Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly
    Quang Như Lai, do thử thiện căn, cập bỉ Như Lai bổn nguyện lực cố, linh kỳ
    quốc giới, tức đắc an ổn, phong vũ thuận thời, cốc giá thành thục, nhất
    thiết hữu tình vô bệnh hoan lạc, ư kỳ quốc trung vô hữu bạo ác, Dược xoa
    đẳng thần, não hữu tình giả, nhất thiết ác tướng giai tức ẩn một.
    142

    Công đức của bộ kinh này quả là không thể nghĩ bàn. Nếu chúng ta tụng
    niệm kinh Bổn Nguyện Công Đức của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thì có thể
    tránh được mọi thứ tai nạn và hết thảy loài thứ ác quỷ đều bó tay không hại được
    chúng ta. Bởi vậy, đức Phật lại một lần nữa bảo ông A-nan: “Này ông A-nan! Lại
    còn như khi các Quán đỉnh vương hàng Sát-đế-lị”, Sát-đế-lị tức là một giai cấp
    Ấn độ, cũng tôn quý như giai cấp Bà-la-môn; trong hàng Sát-đế-lị thì có một Quán
    đảnh vương, tức là người được tấn phong thái tử, trong một buổi lễ gọi là lễ “quán
    đảnh”; người đó sau này sẽ lên ngôi vua.
    “Tai nạn khởi lên”, khi trong nước gặp những tai nạn như hạn hán, lụt lội,
    gió bão; “như là dịch nạn”, bệnh ôn dịch gây nhiều chết chóc trong dân chúng;
    “nước khác xâm lấn”, hoặc nạn xâm lấn do nước láng giềng hay một nước khác
    mang quân tới, “phản nghịch trong nước”, hoặc giả trong nước có phần tử phiến
    loạn nổi lên chống lại quốc vương;
    “Nạn về tinh tú, sao xấu mọc ra”, đây là nói các sao trên trời biến đổi
    hình dáng một cách khác thường. Có khi người ta thấy vì sao nào đó như bốc hỏa,
    có vì sao thì nổ tan, có khi sao băng đầy trời, hoặc trường hợp sao chổi tiến sát địa
    cầu. Những sự biến dạng kỳ quái này thường là nguyên nhân sanh ra các tai nạn
    như đao binh, hỏa tai, thủy nạn, ôn dịch lưu hành trên trái đất.
    “Nhật thực nguyệt thực”, nạn nhật thực và nguyệt thực. Mặt trời hay mặt
    trăng đương soi sáng rồi bỗng nhiên biến mất, đó là nhật thực và nguyệt thực. Mặt
    trời vốn nóng, khi nhật thực thì đổi thành mát; ánh trăng thì đương mát đổi thành
    nóng. Đó chính là những sự tình bất thường.
    “Mưa gió trái mùa, đến mùa chẳng mưa”, Chưa cần có mưa thì trời lại
    đổ mưa, không muốn có gió thì trời lại nổi gió. Khi mưa thì mưa lớn, còn gió thì
    làm đổ nhà đổ cửa. Gió mưa như vậy là trái mùa, không đúng thời tiết, là một tai
    nạn. Đến khi cần mưa thì lại xảy ra cảnh hạn hán, lại cũng là một cái nạn.
    143

    “Các Quán đảnh vương và Sát-đế-lị, bấy giờ đối với hết thảy hữu tình”,
    giữa những lúc tai nạn như vừa kể, các Sát-đế-lị cũng như vị sẽ kế thừa ngôi báu
    phải có lòng nghĩ tới mọi người, phải sám hối giống như vua Thang đời nhà
    Thương xưa, mà nói rằng: “Tôi, đứa nhỏ tên Lý, xin dâng một con trâu mộng đen,
    để cáo lên Hoàng Hoàng Hậu Đế”; đây là lời vua Thang tế Trời. Vua thưa lên ra
    sao? Vua nói đại ý rằng nếu trẫm có tội thì hình phạt kia không nên giáng xuống
    đầu của trăm họ. Giả dụ họ có gây nên nghiệp tội, thì nhà vua phải nhận mọi trách
    nhiệm, bởi vua đã không biết cách giáo hóa thần dân. Vua Thang cáo trời đất và
    nhìn nhận mọi sự lầm lỗi của mình.
    Vì ý nghĩa đó cho nên trong khi gặp nạn, các vua quán đảnh phải “khởi
    lòng từ bi, tha những tù tội”, khởi lòng từ bi mà ra lệnh ân xá cho kẻ tù tội. Họ
    phải tự nghĩ rằng: “vì sao những tai họa đó xảy đến? Phải chăng ta không có lòng
    từ bi?” Phải nghĩ như vậy, để phát tâm đại từ bi, ân xá cho những người phạm tội,
    đương bị tù giam, ngay cả những người đáng tội chết; “mà theo các pháp, cúng
    dường đã nói, cung kính cúng dường đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang
    Như Lai”, y theo cách thức vừa nói trên để cúng dường đức Thế Tôn Dược Sư
    Lưu Ly Quang Như Lai.
    “Thời thiện căn ấy và sức bổn nguyện đức Như Lai kia”, do căn lành
    cúng dường đức Dược Sư và cũng do sức đại nguyện của Ngài; “khiến cho cả
    nước, liền được an ổn, mưa gió đúng thời”, mà trong nước được bình an vô sự,
    mưa thuận gió hòa, như chúng ta thường nghe những câu: “cứ năm ngày thì gió,
    mười ngày thì mưa, gió không làm cây rên xiết, mưa không làm đất lở”. Lại có
    câu:
    Thiên nhai tiểu vũ nhuận như tô
    Thảo sắc dao khán cận khước vô
    Tối thị nhất niên xuân hảo xứ
    Tuyệt thăng yên liễu mãn hoàng đô.

    Sơ Xuân Tiểu Vũ
    Thiên nhai tiểu vũ nhuận như tô
    Thảo sắc dao khán cận khước vô
    Tối thị nhất niên xuân hảo xứ
    Tuyệt thăng yên liễu mãn hoàng đô
    Hàn Dũ
    --Dịch nghĩa--
    (mưa phùn đầu xuân)
    (mưa phùn làm đường đi bóng loáng)
    (từ xa nhìn như có màu cỏ, lại gần chẳng có gì)
    (đây là lúc đẹp nhất của mùa xuân trong một năm)
    (vì khắp kinh đô các hàng liễu như mờ trong sương khói)
    -- Bản dịch của SongNguyễn HànTú --
    Mưa Phùn Đầu Xuân
    Thấm mưa đường bóng như thoa mỡ
    Nhìn ngỡ xa xa cỏ xanh mờ
    Trong năm đẹp nhất nàng Xuân thắm
    Khói ôm bóng liễu khắp hoàng đô
    --Bản dịch của Nguyễn Minh--
    Mưa phùn đường láng như bơ
    Xa trông sắc cỏ mơ hồ lung lay
    Mùa xuân đẹp nhất lúc này
    Liễu trong sương khói phủ đầy thành đô
    145

    Tạm dịch:
    Lất phất mưa rơi ướt tựa dầu
    Xa trông lầm tưởng cỏ xanh mầu
    Bốn mùa chỉ độc xuân là quý
    Tơ liễu khói giăng khắp đế đô
    Mưa nhỏ tưới xuống, trông giống như phủ lên mặt đất một lớp mỡ. Đó là
    loại mưa làm đất cát phì nhiêu, làm cho cỏ cây tươi tốt, chớ không phải như những
    trận mưa trút nước khiến cho cả khối đất bị vỡ nát cuốn trôi. Còn gió thì hiền hòa,
    chẳng phải là những cơn bão lốc làm đổ nhà cửa, đổ cây cối. Gió mưa thuận hòa
    thì “cốc giá thành thục”, lúa cấy thì được mùa; “hết thảy hữu tình, vô bệnh
    mừng vui”, như vậy thì hết thảy các loại hữu tình, con người cũng như mọi chúng
    sanh đều không bị bệnh tật, sống trong cảnh an vui; trong nước không thấy các
    cảnh giết người, cướp của, đốt nhà, hay những hành vi bạo lực. Nay thì ngày ngày
    xảy ra những việc ấy, rất là đáng ngại, cũng bởi vì chúng ta bất hạnh sanh vào thời
    nhiễu loạn như vậy.
    “Ở trong khắp nước, không có những thần bạo ác Dược xoa, não hại
    hữu tình, những hình tướng ác thảy đều biến mất”, những loại ác thần như
    dược xoa - còn gọi là tốc tật quỷ, quỷ chạy nhanh - không còn quấy nhiễu các
    chúng sanh, rồi hết thảy các loại hình tướng quái dị cũng đều biến mất không xuất
    hiện nữa.
    --Vô D anh--
    Mưa nhỏ bên trời óng ánh tơ
    Xa gần sắc cỏ gợn hững hờ
    Trong năm Xuân đẹp nơi đây nhất
    Phủ khắp thành vua rạng liễu mờ.
    146

    Các Quán đảnh vương hàng Sát-đế-lị, sống lâu mạnh khỏe, vô bệnh tự
    tại, lợi ích đều tăng. Này Tôn giả A-nan! Nếu mà các vị hoàng hậu hoàng phi,
    công chúa thái tử, vương tử đại thần, phụ tá cùng với thể nữ trong cung, các
    quan và dân, mắc bệnh chịu khổ, và ách nạn gì, cũng nên dựng cây phướn
    thần năm sắc, thắp đèn tiếp sáng, phóng sanh các loài, rải các thứ hoa, đốt các
    hương quý, bệnh thời khỏi hết, tai nạn giải thoát. Bấy giờ Tôn giả A-nan hỏi
    ngài Cứu Thoát: Bạch thiện nam tử! Tại làm sao mà mạng người đã hết, có
    thể tăng thêm? Ngài Cứu Thoát nói: Bạch Đại đức! Ngài há chẳng nghe Như
    Lai nói có chín thứ chết uổng (hoạnh tử) ư? Bởi vậy khuyên làm phướn đèn
    nối mạng, tu mọi phước đức. Vì tu phước đức không bị ách nạn tới lúc mạng
    chung.
    Nhi Sát-đế-lị Quán đỉnh vương đẳng, thọ mệnh sắc lực, vô bệnh tự
    tại, giai đắc tăng ích. A Nan! Nhược đế hậu phi chủ, trữ quân vương tử, đại
    thần phụ tướng, trung cung thãi nữ, bách quan lê thứ, vị bệnh sở khổ, cập
    dư ách nạn, diệc ưng tạo lập ngũ sắc thần phan, nhiên đăng tục minh,
    phóng chư sanh mạng, tán tạp sắc hoa, thiêu chúng danh hương, bệnh
    đắc trừ dũ, chúng nạn giải thoát.
    Nhĩ thời A Nan vấn Cứu Thoát Bồ tát ngôn: Thiện nam tử, vân hà dĩ
    tận chi mệnh, nhi khả tăng ích?
    Cứu Thoát Bồ tát ngôn: Đại đức! Nhữ khởi bất văn Như Lai thuyết
    hữu cửu hoạnh tử da? Thị cố khuyến tạo tục mệnh phan đăng, tu chư
    phước đức, dĩ tu phước cố, tận kỳ thọ mệnh, bất kinh khổ hoạn.[/COLOR]
    Last edited by chi2730; 07-08-2012 at 11:04 PM.
    Cầu sanh Tây Phương!.

  4. #4

    Mặc định

    147

    “Các Quán đảnh vương hàng Sát-đế-lị, sống lâu mạnh khỏe, vô bệnh tự
    tại, lợi ích đều tăng”, các ách nạn đều qua khỏi, các ông hoàng sát-đế-lị, được tấn
    phong quán đảnh, ai nấy đều sống lâu, khang kiện, được tự tại vì vô bệnh, lợi ích
    đều tăng.
    “Này Tôn giả A-nan! Nếu mà các vị hoàng hậu hoàng phi, công chúa
    thái tử, vương tử đại thần, phụ tá cùng với thể nữ trong cung, các quan và
    dân, mắc bệnh chịu khổ, và ách nạn gì, cũng nên dựng cây phướn thần năm
    sắc, thắp đèn tiếp sáng, phóng sanh các loài”, Này ông A-nan! Nếu các hoàng
    hậu, hoàng phi, công chúa, trừ quân - tức là thái tử, người kế vị ngôi báu - các
    vương tử, các vị đại thần hoặc quan phụ tá, các thể nữ trong cung, hết thảy các
    quan cho đến thứ dân, vì bệnh hoạn mà đau khổ, hoặc giả vì các ách nạn khác, thời
    cũng phải dựng phướn thần năm sắc, đốt bốn mươi chín ngọn đèn, tiếp sáng luôn
    luôn không để đèn tắt, bày trước bảy pho tượng đức Dược Sư, rồi phải phóng sanh
    các loại, những chúng sanh sắp sửa phải chết.
    “Rải các thứ hoa, đốt các hương quý, bệnh thời khỏi hết, tai nạn giải
    thoát”, rải các loại hoa để cúng dường đức Dược Sư, đốt các loại hương quý như
    trầm thủy hương, trầm hương, đàn hương, chiên đàn hương loại nhãn “ngưu đầu”
    v.v.. Được vậy, mọi thứ bệnh đều hết, các thứ tai nạn đều được giải trừ.
    “Bấy giờ Tôn giả A-nan hỏi ngài Cứu Thoát:”, lúc bấy giờ Tôn giả A-
    nan lại hỏi Bồ tát Cứu Thoát; Ngài đại diện các chúng sanh mà hỏi thật kỹ càng:
    “Bạch thiện nam tử! Tại làm sao mà mạng người đã hết, có thể tăng thêm?”
    Bạch Thiện nam tử! Cớ làm sao người ta đã tới lúc tận mạng, mà đời sống còn
    được kéo dài thêm, sức khỏe còn được tốt thêm, lợi ích được cả hai đàng như vậy?
    Đó là điều khó hiểu.
    “Ngài Cứu Thoát nói: Bạch đại đức! Ngài há chẳng nghe Như Lai nói
    có chín thứ chết uổng ư? Bồ-tát Cứu Thoát đáp lại như sau: Này Đại đức! Chẳng
    lẽ Tôn giả chưa được nghe đức Như Lai nói về chín loại chết uổng (hoạnh tử) do
    148

    các tai vạ bất ngờ xảy đến hay sao? “Bởi vậy khuyên làm phướn đèn nối mạng,
    tu mọi phước đức. Vì tu phước đức không bị ách nạn tới lúc mạng chung”, bởi
    các lẽ ấy, kinh Phật mới khuyên các chúng sanh phải sắm phướn và đèn, tu mọi
    phước đức. Bởi sắm sửa các thứ cúng dường và làm những việc phước đức nên
    cuộc đời của họ chẳng gặp khổ nạn, không bị các cảnh chết uổng vì tai bay vạ gió.
    A-nan hỏi rằng: Chín loại chết uổng là như thế nào? Bồ-tát Cứu Thoát
    đáp lại như sau: Nếu các hữu tình, bệnh tuy không nặng, nhưng không gặp
    thầy, và không có thuốc, hoặc có gặp thầy, lại bị lầm thuốc, bệnh không đáng
    chết, mà bị chết uổng; lại như tin theo bọn thầy yêu nghiệt, tà ma ngoại đạo,
    nói bậy họa phước, sinh ra sợ hãi, lòng những hoang mang, coi bói tìm họa,
    giết các chúng sanh, để cầu thần giúp, gọi các yêu quái, nhờ chúng phù hộ,
    kéo dài mạng sống, rốt cuộc chẳng được, ngu si mê hoặc, tin điều tà vạy, đầu
    óc điên đảo, bèn chết bất kỳ, đọa vào địa ngục, chẳng biết ngày ra, đây là thứ
    nhất trong loại chết uổng.
    A Nan vấn ngôn: Cửu hoạnh vân hà? Cứu Thoát Bồ tát ngôn: Nhược
    chư hữu tình, đắc bệnh tuy khinh, nhiên vô y dược, cập khán bệnh giả,
    thiết phục ngộ y, thọ dĩ phi dược, thực bất ưng tử, nhi tiện hoạnh tử; hựu
    tín thế gian tà ma ngoại đạo yêu nghiệt chi sư, vọng thuyết họa phước,
    tiện sinh khủng động, tâm bất tự chánh, bốc vấn mịch họa, sát chủng
    chủng chúng sanh, giải tấu thần minh, hô chư võng lượng, thỉnh khất
    phước hựu, dục ký diên niên, chung bất năng đắc, ngu si mê hoặc, tín tà
    đảo kiến, toại linh hoạnh tử, nhập ư địa ngục, vô hữu xuất kỳ, thị danh sơ
    hoạnh.
    149

    “A-nan hỏi rằng: Chín loại chết uổng (hoạnh tử) là như thế nào?” ở trên
    ông A-nan có nghe nói tới chín lối chết uổng, nên ông hỏi thêm cho mọi người
    được biết một cách rành rẽ. Ông hỏi: Chín loại chết uổng là những loại nào?
    “Bồ-tát Cứu Thoát đáp lại như sau: Nếu các hữu tình, bệnh tuy không
    nặng, nhưng không gặp thầy, và không có thuốc”, Bồ-tát Cứu Thoát nói: như
    trường hợp các chúng sanh tuy mắc bệnh nhẹ, ví dụ cảm mạo vì gió, chẳng hạn, ho
    hay đau sơ sơ, nhưng không kiếm ra thuốc để điều trị, hoặc không có thầy thuốc
    đến trị bệnh cho.
    “Hoặc có gặp thầy, lại bị lầm thuốc, bệnh không đáng chết, mà bị chết
    uổng”, hoặc gặp được thầy thuốc thì trúng phải thầy thuốc dở, cho thuốc không
    đúng bệnh, kết quả bệnh không đáng chết mà bị chết uổng. Ví dụ như con bệnh
    đau bụng lại cho thuốc chữa mắt, hay vốn đau cổ họng lại cho thuốc đau đầu.
    Những loại y sĩ đó, nếu cho trị bịnh thì bệnh nhân chỉ có chóng chết mà thôi; “lại
    như tin theo bọn thầy yêu nghiệt, tà ma ngoại đạo”, lại còn tin theo bói toán,
    đoán số mạng, thuyết phong thủy v.v.. đó là những thuật của bàng môn, ngoại đạo;
    “nói bậy họa phước, sinh ra sợ hãi”, tin bọn thầy bùa quỷ quái, nói bậy bạ những
    điều họa phước, nên sinh lòng hoảng kinh. Đại khái họ nói những câu: “Cái này
    ghê lắm! Ông có thể bị tai nạn xe hơi đây! Trong vòng một trăm ngày, nhớ đừng
    có ra khỏi nhà nghe!” hoặc giả: “Ấy! Bà phải coi chừng, chồng bà ngoại tình đấy!”
    Toàn là những giọng điệu làm cho mọi người đương sợ hãi lại càng sợ thêm. Dọa
    người ta như vậy là họ muốn gì đây? Ý họ là thúc mọi người mau mau nhờ họ giúp
    đỡ.
    - Đây rồi! Tôi có cách này. Quý vị chỉ cần đưa cho tôi hai trăm ngàn, tôi có
    thể giải trừ hết tai nạn.
    150

    “Lòng những hoang mang, coi bói tìm họa”, bởi tâm hoang mang, mới đi
    coi bói toán, tìm thầy để hỏi: “Nhờ thầy coi giùm, khí sắc của tôi ra sao? Liệu tôi
    có gặp chuyện gì rắc rối không?” Thầy nói:
    - Không sao! Đưa cho tôi ba trăm.
    Mất ba trăm thì tai qua nạn khỏi. Thầy bói dặn phải làm những thứ gì?
    - Đi kiếm cho tôi một con mèo! Giết một con mèo thì hết nạn.
    “Giết các chúng sanh, để cầu thần giúp, gọi các yêu quái, nhờ chúng
    phù hộ”, họ xúi biểu như vậy đó! Xúi biểu giết hại chúng sanh, giết mèo giết
    chuột, họ nói để làm công đức cúng dường Diêm vương, để Diêm vương xá tội
    cho. Họ còn kêu các loài yêu quái, loại quỷ đầu trâu, mặt ngựa, nói là để nhờ
    chúng phù hộ cho khỏi bị tử vong.
    “Kéo dài mạng sống, rốt cuộc chẳng được”, dầu có muốn kéo dài tuổi
    thọ, nhưng đâu có làm được. Đó chính là: “ngu si mê hoặc, tin điều tà vạy, đầu
    óc điên đảo”, chỉ là một sự ngu si, u tối, tin điều càn rỡ, điên đảo; “bèn chết bất
    kỳ, đọa vào địa ngục, chẳng biết ngày ra, đây là thứ nhất trong loại chết
    uổng”, không những không khỏi bệnh mà còn mau chết, sau đó còn bị đọa địa
    ngục, chưa biết ngày nào mới ra khỏi được. Đó là kết quả của tà kiến, muốn sống
    thêm nên đã làm hại kẻ khác. Đây là loại chết uổng (hoạnh tử) thứ nhất.
    Hai là luật vua, bắt tội tử hình, ba là săn bắn, làm thú vui chơi, hoặc mê
    tửu sắc, chơi bời vô độ, bị loài phi nhân, đoạt mất tinh khí, bốn là hỏa tai, năm
    bị chết đuối, sáu là các loại ác thú cắn chết, bảy là sẩy chân từ các vách núi,
    tám bị thuốc độc, bị phải bùa ngải, hoặc quỷ thây ma, chín là gặp cảnh đói
    khát mà chết. Đó là chín loại, Như Lai đã nói. Ngoài ra chết uổng còn nhiều
    loại nữa không thể kể hết.
    151

    Nhị giả, hoạnh bị vương pháp chi sở tru lục. Tam giả, điền liệp hi hí,
    đam dâm thị tửu, phóng dật vô độ, hoạnh vi phi nhân đoạt kỳ tinh khí. Tứ
    giả, hoạnh vi hỏa phần. Ngũ giả, hoạnh vi thủy nịch. Lục giả, hoạnh vi
    chủng chủng ác thú sở đạm. Thất giả, hoạnh đọa sơn nhai. Bát giả hoạnh
    vi độc dược, yếm đảo chú trớ, khởi thi quỷ đẳng chi sở trúng hại. Cửu giả,
    cơ khát sở khốn, bất đắc ẩm thực, nhi tiện hoạnh tử. Thị vị Như Lai lược
    thuyết hoạnh tử, hữu thử cửu chủng, kỳ dư phục hữu vô lượng chư hoạnh,
    nan khả cụ thuyết.
    Phần trên nói về trường hợp chết uổng vì đau ốm mà không gặp thầy, không
    có thuốc, hoặc được thầy thuốc trị bệnh nhưng lại cho lầm thuốc, châm cứu hay mổ
    xẻ không đúng cách mà phải mạng vong. Bây giờ, nói đến “hai là luật vua, bắt tội
    tử hình”, loại thứ hai là trường hợp những người, chẳng biết có tội hay không có
    tội, chẳng biết oan hay ưng, nhưng bị pháp luật xử phải chết. Chẳng qua đấy là quả
    báo, cái quả của chín loại chết uổng.
    “Ba là săn bắn, làm thú vui chơi”, thứ ba nói đến những kẻ săn bắn, đi
    vào núi săn hươu, nai, các con thú rừng, hoặc giả bắn các thứ chim, coi đó là một
    thú tiêu khiển, hoặc là những kẻ “ham mê tửu sắc, chơi bời vô độ, bị loài phi
    nhân, đoạt mất tinh khí”, tham đắm sắc dục, không biết tiết chế, còn rượu thì
    uống vô chừng, đến khi đã say còn lái xe, rủi xe gặp nạn thì mình cũng uổng mạng.
    Bởi không có chừng mực, không biết tự chế, nên dễ bị các loài phi nhân cướp mất
    tinh khí. Phi nhân là chỉ các giống yêu tinh, như sơn tinh thủy quái; chúng chẳng
    kể gì đạo lý, chúng đoạt lấy tinh khí của người để tu luyện nhằm kéo dài sanh
    mạng của chúng.
    “Bốn là hỏa tai”, thứ tư là chết vì lửa đốt, có thể là cháy nhà rồi bị nạn.
    “Năm bị chết đuối”, thứ năm là chết đuối.
    152

    “Sáu là các loại ác thú cắn chết”, thứ sáu là trường hợp bị ác thú cắn, hoặc
    giả bị chó sói ăn thịt, bị hổ vồ, bị rắn cắn.
    “Bảy là sẩy chân từ các vách núi”, thứ bảy là sẩy chân trên vách đá và rớt
    xuống chết uổng.
    “Tám bị thuốc độc, bị phải bùa ngải, hoặc quỷ thây ma”, thứ tám là
    những trường hợp như uống phải chất độc, hoặc bị người ta làm pháp yểm. Đại
    khái pháp yểm như sau: người ta làm một hình nộm bằng rơm, lấy một tờ giấy ghi
    rõ giờ, ngày, tháng và năm sanh của nạn nhân rồi dán vào hình nộm. Sau đó người
    ta bắn tên vào người nộm, cứ như vậy trong suốt một trăm ngày thì nạn nhân sẽ
    chết; có người mắc bùa chú cũng bị chết uổng (hoạnh tử); đây là tà chú, khi niệm
    những chú đó để làm hại người nào thì tâm thần của nạn nhân không còn làm chủ
    được mình, thường thường đi tới chỗ tự sát; lại có những câu chú sai khiến con quỷ
    dựng được các thây ma đứng dậy rồi đi lại trong đêm khuya, đó là trường hợp quỷ
    thây ma (thi quỷ).
    “Chín là gặp cảnh đói khát mà chết”, thứ chín là chết vì đói khát. Đói mà
    không có gì để ăn, khát không có gì để uống, bởi cơ sự đó mà bị chết uổng.
    “Đó là chín loại, Như Lai đã nói. Ngoài ra chết uổng còn nhiều loại nữa
    không thể kể hết”, đó là những điều Phật tóm lược về chín loại chết uổng, còn
    như nói rộng ra nữa thì còn nhiều các nạn khác, không sao kể cho đủ được.
    Nói về chín loại chết uổng (hoạnh tử) thì ngày nay trên thế gian không thiếu
    gì nạn nhân đã mắc phải cảnh này. Đó chẳng phải là điều ngẫu nhiên, mà là kết quả
    của những hành động coi thường nhân quả của họ ngày trước. Tỷ dụ trường hợp
    uống lầm thuốc chẳng hạn. Cớ làm sao lại xảy ra chuyện đó? Chính là trong một
    kiếp nào đó, họ đã dùng thuốc độc để hại người. Đã từng gieo cái nhân hại người
    như vậy thời kiếp này phải chết uổng vì lầm thuốc, vì giải phẫu không đúng cách,
    vì châm cứu sai.
    153

    Lại như kẻ tử tội. Đây là do phán quyết của luật pháp. Lý ưng pháp luật phải
    công bằng, nhưng trong trường hợp chết uổng này thì có thể là oan, nên cho tới lúc
    chết mà nạn nhân cũng không biết lý do tại sao.
    Thứ ba nói về thú đi săn. Người ta kéo vào núi để săn bắn. Các loại cầm thú
    đều chạy một cách điên cuồng, chạy thục mạng, nhưng không chạy khỏi cái chết.
    Ai mà nhẫn tâm khi chứng kiến thảm trạng như vậy! Lại coi đó là một thứ tiêu
    khiển, lấy sanh mạng chúng sanh làm trò du hý, thực là vô lý hết sức! Lại như đam
    mê tửu sắc, ham rượu và sắc dục một cách phóng đãng quá độ, dẫn tới sự say sưa,
    mất tự chủ rồi làm mồi cho loại phi nhân. Phi nhân nghĩa là không phải giống
    người, là loại yêu quái, chuyên hút lấy tinh khí của người. Một khi quý vị bị đoạt
    tinh khí thì quý vị đã mất hết “xăng nhớt” (gasoline) của quý vị rồi còn gì!
    Thứ tư là hỏa tai, nạn nhân bị lửa thiêu chết. Nguyên nhân nào vậy? Chỉ vì
    trước đây quý vị thích ăn thịt “barbecue”, thịt nướng. Nướng thịt kẻ khác thì bây
    giờ mình bị nướng lại.
    Thứ năm là thủy tai, bị chết đuối. Đó là quả báo về những hành động thuở
    trước đã dìm các sinh linh chết ngộp dưới nước. Tỷ dụ quý vị cho đàn kiến chết
    chìm dưới nước, rồi một ngày nào đó đích thân quý vị cũng sẽ có dịp được thí
    nghiệm cảnh bị dìm dưới nước nó ra sao. Lúc đó, khi bị nếm mùi rồi, thân quý vị
    chìm sâu dưới nước, quý vị chỉ còn uống nước cho bụng quý vị trương lên, vậy là
    xong cuộc đời.
    Thứ sáu là bị ác thú cắn. Quả báo này phát sinh từ kiếp xưa ở cái nết độc ác
    thích ăn thịt các loãi dã thú như chồn, óc khỉ, chân gấu nướng trên lửa v.v.. nên
    kiếp này bị dã thú ăn thịt lại. Lại nói ăn cá, phải chọn cá còn đương quậy nhẩy, ăn
    tươi như vậy mới ngon! Kết quả bây giờ mới đổi thành nạn nhân của các con thú.
    Súc vật cũng có loại ngôn ngữ của súc vật và biết đâu, khi ăn thịt nạn nhân chúng
    cũng nhấm nháp, khen ngon: “Ồ! Thịt anh này ngon ghê! Món tiết canh cũng ngon
    nữa!” Và chúng cũng xúm lại tranh nhau ăn.
    154

    Thứ bảy là sẩy chân nơi vách núi. Cớ làm sao ra cơ sự này? Đó là quả báo
    của hành động cướp giật năm xưa. Lấy túi tiền của người ta chưa đủ, còn thừa lúc
    sơ ý, xô người ta xuống vực sâu. Tôi có một số người bạn đồng học hồi đó cũng có
    người bị kẻ gian xô xuống vách núi, may mà họ tin Phật nên không bị rớt xuống
    vực sâu. Sau đó họ leo lên được thoát nạn. Chuyện này tôi biết rõ lắm.
    Thứ tám là bị đầu độc. Lý do chết uổng này là do kiếp trước quý vị đã tìm
    cách đầu độc người khác, quý vị muốn khống chế người ta, nay thì quý vị bị người
    khác khống chế lại. Chúng ta có câu: “nhân nào thì quả ấy”, quý vị gây ra nghiệp
    nào thì lãnh quả của nghiệp ấy. Bởi vậy cho nên mới xảy ra chuyện bùa ếm. Người
    ta làm những hình nộm, trong đó họ để sợi tóc hay móng tay của nạn nhân, hay họ
    ghim một tờ giấy trên có ghi tám chữ (bát tự) thuộc về năm sanh, tháng sanh, ngày
    sanh và giờ sanh của nạn nhân (theo âm lịch, năm tháng ngày giờ đều được ghi
    bằng can và chi như Giáp tý, Ất sửu v.v..). Người ta trù ếm bằng cách bắn tên,
    hoặc đốt, hoặc chôn hình nộm này, đại khái tượng trưng cách chết uổng của nạn
    nhân.
    Còn quỷ thây ma (thi quỷ) là nói tới trường hợp có người niệm chú làm cho
    một thây ma đứng dậy và làm theo đúng sự sai khiến của người đó, ví dụ họ nói
    như sau: “Vào đêm nay, ngươi phải đi cho ta một trăm dặm, ta sẽ có mặt ở chỗ ấy,
    chỗ ấy... đợi ngươi”. Dưới hiệu lực của câu chú thây ma cứ theo đúng lệnh, đứng
    dậy rồi đi giống như một người còn sống vậy.
    Loại thứ chín là chết đói, chết khát, chết lạnh, chết nóng. Có những địa
    phương gặp nạn đói, không có gì để ăn, nên rất đông người bị đói mà chết. Những
    người đó cứ há miệng ra cười khanh khách, họ cười xong là chết. Tại sao họ cười
    vậy? Như là họ muốn nói: “Bà con hãy coi tôi đây! Kiếp xưa tôi đã bỏ đói mọi
    người nên bây giờ tôi gặp quả báo này. Các người biết chưa?” Đại khái là như vậy,
    họ muốn bảo: “Các người hãy coi tôi làm gương, đừng có bắt chước tôi.” Thật là
    nhân nào quả ấy, không sai mảy may.
    155

    Lại nữa A-nan! Vua Diêm-ma ấy, giữ sổ danh bộ, của người thế gian,
    nếu các hữu tình, bất hiếu ngũ nghịch, làm xấu Tam Bảo, hại phép quân thần,
    hủy điều tín giới, thời vua Diêm-ma, tùy tội nặng nhẹ, xét hỏi xử phạt, bởi vậy
    nay ta, khuyên các hữu tình, đốt đèn dựng phướn, phóng sanh tu phước, để
    vượt ra khỏi khổ ách tai nạn.
    Bấy giờ trong chúng, có mười hai vị đại tướng dược xoa, cùng ngồi
    trong tòa, đó là: Đại tướng Cung Tỳ La, Đại tướng Phạt Chiết La, Đại tướng
    Mê Xi La, Đại tướng An Để La, Đại tướng Ngạch Nễ La, Đại tướng San Để
    La, Đại tướng Nhân Đạt La, Đại tướng Ba Di La, Đại tướng Ma Hổ La, Đại
    tướng Chân Đạt La, Đại tướng Chiêu Đỗ La, Đại tướng Tỳ Yết La; đó là mười
    hai đại tướng dược xoa, mỗi vị kèm theo bảy ngàn dược xoa, là những quyến
    thuộc, tất cả đồng thanh, cùng bạch Phật rằng: Thế Tôn! Ngày nay chúng con,
    nhờ oai lực Phật, được nghe danh hiệu Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như
    Lai, nên không còn sợ các nẻo đường ác. Tất cả chúng con đều cùng một lòng,
    cho tới hết đời, quy Phật Pháp Tăng, thề xin giúp đỡ hết thảy hữu tình, lợi ích
    an lạc. Chẳng kể ở đâu, làng hay thành thị, các nước các ấp, trong chốn rừng
    hoang, nếu có kinh này, lưu truyền ở đấy, hoặc như có người thọ trì danh hiệu
    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cung kính cúng dường, quyến thuộc chúng
    tôi, phù hộ người đó, giúp họ giải thoát hết mọi tai nạn, những điều nguyện
    cầu, cũng cho toại nguyện. Hoặc người nào muốn, thoát khỏi các thứ tật ách
    thời nên đọc tụng kinh này, lấy chỉ năm sắc, kết tên chúng tôi, khi nào toại
    nguyện mới gỡ mối chỉ.
    Phục thứ A Nan! Bỉ Diêm ma vương, chủ lĩnh thế gian danh tịch chi
    ký, nhược chư hữu tình, bất hiếu ngũ nghịch, phá nhục Tam Bảo, hoại
    156

    quân thần pháp, hủy ư tín giới, Diêm ma pháp vương, tùy tội khinh trọng,
    khảo nhi phạt chi, thị cố ngã kim khuyến chư hữu tình, nhiên đăng tạo
    phan, phóng sanh tu phước, linh độ khổ ách, bất tao chúng nạn.
    Nhĩ thời chúng trung hữu thập nhị Dược Xoa đại tướng, câu tại hội
    tòa, sở vị: Cung Tỳ La đại tướng, Phạt Chiết La đại tướng, Mê Xi La đại
    tướng, An Để La đại tướng, Ngạch Nễ La đại tướng, San Để La đại tướng,
    Nhân Đạt La đại tướng, Ba Di La đại tướng, Ma Hổ La đại tướng, Chân Đạt
    La đại tướng, Chiêu Đỗ La đại tướng, Tỳ Yết La đại tướng, thử thập nhị
    Dược Xoa đại tướng, nhất nhất các hữu thất thiên Dược Xoa, dĩ vi quyến
    thuộc, đồng thời cử thanh bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã đẳng kim giả,
    mông Phật uy lực, đắc văn Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai danh
    hiệu, bất phục cánh hữu ác thú chi bố, ngã đẳng tương suất, giai đồng
    nhất tâm, nãi chí tận hình, quy Phật Pháp Tăng, thệ đương hà phụ nhất
    thiết hữu tình, vị tác nghĩa lợi, nhiêu ích an lạc, tùy ư hà đẳng thôn thành
    quốc ấp, không nhàn lâm trung, nhược hữu lưu bố thử kinh, hoặc phục thọ
    trì Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai danh hiệu, cung kính cúng dường giả,
    ngã đẳng quyến thuộc, vệ hộ thị nhân, giai sử giải thoát nhất thiết khổ
    nạn, chư hữu nguyện cầu, tất linh mãn túc, hoặc hữu tật ách, cầu độ thoát
    giả, diệc ưng độc tụng thử kinh, dĩ ngũ sắc lũ, kết ngã danh tự, đắc như
    nguyện dĩ, nhiên hậu giải kết.
    “Phục Lại nữa A-nan! Vua Diêm-ma ấy, giữ sổ danh bộ, của người thế
    gian”, ông A-nan! Lại còn điều này nữa, ông vua Diêm-la kia quản lý các danh bộ
    của người thế gian, cả danh bộ dương và danh bộ âm; “nếu các hữu tình, bất hiếu
    ngũ nghịch”, nếu những ai ăn ở không hiếu thảo với cha mẹ, phạm mười điều ác,
    157

    hoặc phạm tội ngũ nghịch. Ngũ nghịch là sao? Đó là các tội: giết cha là một, giết
    mẹ là hai, giết thầy là ba - giết thầy cũng như giết A-la-hán - phá sự hoà hợp của
    Tăng đoàn là bốn và làm chảy máu Phật là năm.
    Giết sư phụ của mình là một tội trong ngũ nghịch. Tôi giảng cho quý vị nghe
    như vậy thì tôi dám chắc không ai dám giết tôi đâu. Giết A-la-hán cũng được coi
    như tội ngũ nghịch thứ ba này. Bây giờ đến tội phá hòa hợp Tăng, có thể lấy thí dụ
    như sau: trong đạo tràng các Tăng chúng đương sống trong sự yên ổn, hoan hỷ,
    quý vị đến nơi ấy phá hoại sự an lạc của họ. Còn tội làm chảy máu Phật thì nay
    Phật không còn trụ thế, tội này bao gồm những hành động như phá hủy hình và
    tượng của Phật, hoặc giả đập bể tượng Phật bằng đất, đốt tượng Phật bằng gỗ, như
    vậy gọi là làm chảy máu Phật. Đây chỉ kể những việc làm cố ý. Nếu chỉ vì vô ý mà
    gây nên sự hư hại đến tượng Phật thì không có tội. Quý vị nên lưu ý điểm này, về
    sau đừng có hồ đồ la hoảng lên: “Tôi làm bể tượng Phật mất rồi, làm sao bây giờ?
    Tôi có bị đọa địa ngục không? Sư phụ ơi! Cứu con với!” Cái đó là very stupid!
    (quá ngu ngốc).
    “Làm xấu (phá nhục) Tam Bảo”, gây điều tiếng xấu cho Tam Bảo, đại
    khái nói những câu: “Phật là mê tín, người nào tin Phật là mê tín. Mấy người xuất
    gia chẳng tu gì hết, chẳng giữ giới gì cả. Ồ! Những kinh điển bảo là do Phật nói,
    toàn là đời sau ngụy tạo cả”. Đó là những hành động “phá nhục Tam Bảo”; “hại
    phép quân thần, hủy điều tín giới”, làm hại nghĩa vua tôi, hủy hoại tín giới, tức
    là sự ngay thẳng. Tỷ dụ bảo rằng: “Chẳng cần thủ tín làm gì, cứ nói dối đại đi! Chỉ
    lần này thôi!” Đại khái là như vậy xúi biểu người khác nói láo, chẳng giữ sự trung
    thực.
    “Thời vua Diêm-ma, tùy tội nặng nhẹ, xét hỏi xử phạt”, vua Diêm-la lúc
    đó sẽ tùy theo tội nặng hay nhẹ, xem xét rồi xử phạt kẻ có tội; “bởi vậy nay ta,
    khuyên các hữu tình, đốt đèn dựng phướn, phóng sanh tu phước, để vượt ra
    khỏi khổ ách tai nạn”, bởi vậy ta nay khuyên các hữu tình nên đốt đèn, bốn mươi
    158

    chín ngọn, dựng phướn trường thọ, rồi phóng sanh các loại để tu phước, khiến cho
    các khổ ách sẽ được vượt qua, không còn gặp tai nạn gì nữa.
    “Bấy giờ trong chúng, có mười hai vị đại tướng dược xoa, cùng ngồi
    trong tòa”, lúc bấy giờ trong chúng có mười hai vị đại tướng dược xoa, tức quỷ
    dạ-xoa loài quỷ chạy nhanh, cùng có mặt tại pháp hội; “đó là”:
    “Cung Tỳ La đại tướng, chữ “la” có khi đọc là “loa”
    Phạt Chiết La đại tướng,
    Mê Xi La đại tướng,
    An Để La đại tướng,
    Ngạch Nễ La đại tướng,
    San Để La đại tướng,
    Nhân Đạt La đại tướng,
    Ba Di La đại tướng,
    Ma Hổ La đại tướng,
    Chân Đạt La đại tướng,
    Chiêu Đỗ La đại tướng,
    Tỳ Yết La đại tướng” ,
    “Đó là mười hai đại tướng dược xoa, mỗi vị kèm theo bảy ngàn dược
    xoa, là những quyến thuộc, tất cả đồng thanh:”, đó là mười hai vị đại tướng
    dược xoa, mỗi vị có một đoàn quyến thuộc là bảy ngàn dược xoa, tất cả đều đồng
    thanh bạch lên Phật rằng: “Thế Tôn! Ngày nay chúng con, nhờ oai lực Phật,
    được nghe danh hiệu Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”, bạch Thế
    Tôn! Chúng con nay nhờ oai lực của Phật, được nghe đến danh hiệu của đức Dược
    Sư Lưu Ly Quang Như Lai; “nên không còn sợ các nẻo đường ác”, do đó chúng
    con không còn sợ rơi vào các cảnh giới ác nữa (tam ác đạo); “Tất cả chúng con
    đều cùng một lòng, cho tới hết đời, quy Phật Pháp Tăng, thề xin giúp đỡ hết
    thảy hữu tình, lợi ích an lạc”, chúng con tất cả đều cùng một lòng quy Phật Pháp
    159

    Tăng cho đến hết đời và thề xin gánh vác việc giáo hóa chúng sanh, giúp đỡ họ,
    mang cho họ nhiều lợi ích để họ được sống trong sự yên ổn và hoan lạc.
    “Nếu có kinh này, lưu truyền ở đấy, hoặc như có người thọ trì danh
    hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”, bất kể nơi nào, ở thôn trang, thành thị,
    các nước, các ấp, hoặc giả trong rừng hoang vắng, nếu ở những nơi đó có lưu
    truyền kinh này, hoặc có người thọ trì danh hiệu đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như
    Lai; “cung kính cúng dường, quyến thuộc chúng tôi, phù hộ người đó, giúp họ
    giải thoát hết mọi tai nạn”, và cung kính cúng dường, thì quyến thuộc chúng con
    sẽ che chở cho họ, giúp họ giải thoát khỏi mọi khổ nạn.
    “Những điều nguyện cầu, cũng cho toại nguyện”, những điều gì họ cầu
    mong đều giúp cho họ toại nguyện; “hoặc người nào muốn, thoát khỏi các thứ
    tật ách thời nên đọc tụng kinh này, lấy chỉ năm sắc, kết tên chúng tôi, khi nào
    toại nguyện mới gỡ mối chỉ”, hoặc giả khi gặp tật bệnh mà muốn vượt qua thì nên
    đọc tụng kinh này, nghĩa là kinh Bổn nguyện Công Đức của đức Thế Tôn Dược Sư
    Lưu Ly quang Như Lai, lấy chỉ năm màu (ngũ sắc), kết thành tên của chúng tôi.
    Khi nào toại nguyện thì mới gỡ mối chỉ ra.
    Đây cũng là một loại pháp chú. Pháp chú chẳng phải nhất định thuộc Mật
    tông. Những người theo Mật tông cố ý huyền bí hóa tông của họ nên mới lấy tên là
    Mật tông. Sự thật chú có nghĩa là chú nguyện, một sự nguyện cầu hay cầu đảo. Chỉ
    năm sắc thì tượng trưng cho năm phương hướng, mỗi phương hướng có một ma
    vương. Khi năm sợi chỉ kết lại thành một mối thì nó mang biểu hiện của sự an ổn
    đến cho những tình trạng bất an ổn. Chỗ này các vị đại tướng dược xoa phát
    nguyện rằng nếu có người dùng chỉ năm màu kết thành tên của họ thì họ sẽ làm
    cho lời cầu nguyện của người đó được thỏa mãn.
    Khi được thỏa nguyện rồi thì nên gỡ các mối chỉ ra, theo ý nghĩa là thỉnh
    thần đến thì có lúc phải tiễn thần đi. Nếu cứ giữ mãi các mối kết chỉ thì thần dược
    xoa vẫn cứ ở nguyên tại chỗ, khiến cho thần không được tự do. Khi đã được tai qua
    160

    nạn khỏi thì chúng ta đừng có tham, cố giữ họ lại, cái đó không tốt. Bởi vậy họ mới
    nói khi nào hết cần thì gỡ mối chỉ ra.
    Bấy giờ Thế Tôn tán dương các vị Đại tướng dược xoa: Tốt lắm! Tốt
    lắm! Đại tướng dược xoa! Các ông báo đáp ơn đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly
    Quang Như Lai, thường nên như vậy lợi ích an lạc cho khắp hữu tình.
    Nhĩ thời Thế Tôn tán chư dược xoa Đại tướng ngôn: Thiện tai! Thiện
    tai! Đại dược xoa tướng, nhữ đẳng niệm báo Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly
    Quang Như Lai ân đức giả, thường ưng như thị lợi ích an lạc nhất thiết hữu
    tình.
    “Bấy giờ Thế Tôn tán dương các vị Đại tướng dược xoa: Tốt lắm!
    Tốt lắm! Đại tướng dược xoa!”, lúc bấy giờ, đức Phật nghe các Đại tướng dược
    xoa phát nguyện như vậy nên khen rằng: Tốt lắm! Tốt lắm; “Các ông báo đáp ơn
    đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thường nên như vậy lợi ích an
    lạc cho khắp hữu tình”, đức Phật bảo mười hai ông Đại tướng dược xoa rằng: các
    ông không quên ân đức của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, muốn báo đáp
    ân đức đó, thời phải luôn luôn nhớ lời phát nguyện này mà mang lại lợi ích an lạc
    cho mọi hữu tình, cho họ lìa khổ được vui.
    Nhĩ thời A Nan bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Đương hà danh thử pháp
    môn? Ngã đẳng vân hà phụng trì? Phật cáo: A Nan! Thử pháp môn danh
    thuyết ‘Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức’, diệc danh
    thuyết ‘Thập Nhị Thần Tướng Nhiêu Ích Hữu Tình Kết Nguyện Thần Chú’;
    161

    diệc danh ‘Bạt Trừ Nhất Thiết Nghiệp Chướng’, ưng như thị trì. Thời Bạc
    Già Phạm thuyết thị ngữ dĩ, chư Bồ tát ma-ha-tát, cập đại Thanh văn, quốc
    vương, đại thần, bà-la môn, cư sĩ, thiên long dược xoa, kiện thát phược, a-
    tố-lạc, yết lộ trà, khẩn nại lạc, mạc hô lạc già, nhân phi nhân đẳng, nhất
    thiết đại chúng, văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
    Bấy giờ A-nan bạch đức Phật rằng: Thế Tôn! Pháp môn này nên đặt tên
    là gì, và chúng con phải phụng trì ra sao? Phật bảo A-nan: Pháp môn này gọi
    là pháp nói ‘Những Công Đức Bổn Nguyện Của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang
    Như Lai’, cũng gọi là pháp nói ‘Thần Chú Kết Nguyện Của Mười Hai Vị
    Thần Tướng Lợi Ích Hữu Tình’, cũng gọi là pháp ‘Bạt Trừ Hết Thảy Mọi
    Thứ Nghiệp Chướng’, phải nên phụng trì theo cách như vậy. Khi Bạc-già-
    phạm nói lời ấy rồi, các đại Bồ-tát và đại Thanh văn, quốc vương, đại thần,
    bà-la-môn, cư sĩ, thiên long, dược xoa, kiện-thát-phược, a-tố-lạc, yết-lộ-trà,
    khẩn-nại-lạc, mạc-hô-lạc-già, nhân và phi nhân, hết thảy đại chúng, nghe lời
    Phật nói, đều vui mừng lớn, tin nhận phụng hành.
    “Bấy giờ A-nan bạch đức Phật rằng: Thế Tôn!” lúc bấy giờ, sau khi đức
    Phật nói những lời tán thán các vị Đại tướng dược xoa, thì vị Tôn giả Khánh Hỷ,
    tức là Đại đức A-nan, mới bạch lên Phật rằng: “Pháp môn này nên đặt tên là
    gì?”, Kinh này gọi là kinh gì? Pháp môn là pháp môn gì? Tên của kinh này nên đặt
    là gì?; “Chúng con phải phụng trì ra sao?”, chúng con phải thọ trì và đọc tụng
    Kinh này như thế nào?
    “Phật bảo A-nan: Pháp môn này gọi là pháp nói ‘Những Công Đức Bổn
    Nguyện Của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai’”, đức Phật từ bi bảo Tôn
    giả A-nan rằng tên của kinh này gọi là công đức các lời nguyện kiếp xưa, tức bổn
    162

    nguyện của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai; “cũng gọi là pháp nói
    ‘Thần Chú Kết Nguyện Của Mười Hai Vị Thần Tướng Lợi Ích Hữu Tình’”,
    cũng có thể gọi là những lời nguyện của mười hai vị thần tướng dược xoa, dùng
    chú “Dược Sư Quán Đảnh Chân-ngôn” nhằm lợi ích cho các hữu tình; “cũng gọi
    là pháp ‘Bạt Trừ Hết Thảy Mọi Thứ Nghiệp Chướng’”, cũng gọi là bạt trừ hết
    thảy mọi nghiệp chướng; “phải nên phụng trì theo cách như vậy (ưng như thị
    trì)”, theo đúng như vậy mà thọ trì.
    “Khi Bạc-già-phạm”, lúc ấy, đức Bạc-già-phạm, đây là một danh hiệu
    khác của Phật; “nói lời ấy rồi, các đại Bồ-tát và đại Thanh văn”, nói xong
    những lời trên, các Bồ-tát ma-ha-tát - tức là các đại Bồ tát trong hàng Bồ tát - cùng
    các đại Thanh văn, tức các vị tu pháp Tứ đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo, tức nói các vị
    trong hàng A-la-hán; “quốc vương, đại thần, bà-la-môn”, vua, quan và ba-la-
    môn, tức hàng quý tộc, “cư sĩ, thiên long dược xoa”, các cư sĩ có đức hạnh, trời ,
    rồng, dạ xoa, cùng với: “kiện-thát-phược, a-tố-lạc, yết-lộ-trà, khẩn-nại-lạc,
    mạc-hô-lạc-già”, tức là càn-thát-bà, a-tu-la, khẩn-na-la, ca-lâu-la, ma-hầu-la-già;
    “nhân phi nhân đẳng”, người và những loại không phải là người; “hết thảy đại
    chúng, nghe lời Phật nói, đều vui mừng lớn, tin nhận phụng hành”, hết thảy
    đại chúng trong pháp hội, nghe Phật nói Kinh Công Đức Các Bổn Nguyện Của
    Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đều vui mừng khôn xiết, hết lòng tin lời
    Phật dạy để thọ trì và tuân hành.
    ※※※
    ※※※
    ※※※
    Như vậy là tối hôm nay đã lược giảng xong bộ Kinh Công Đức Các Bổn
    Nguyện của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Quý vị có ý kiến gì không? Nếu
    có, chúng ta cứ mang ra đây để tất cả cùng nghiên cứu, cùng trao đổi ý kiến với
    nhau để mở rộng thêm trí huệ. Không phải quý vị chỉ biết ngồi nghe một mình tôi
    163

    nói. Từ lúc bắt đầu nghe giảng cho đến bây giờ, ai thấy có điều gì gọi là nghi vấn,
    hoặc có ý kiến gì đặc biệt, thì xin nêu ra, để chúng ta cùng thảo luận.
    Hai vị Phật, một vị ở phương đông là đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai,
    một vị ở phương tây là đức A-di-đà Như Lai. Ở phương đông là Phật A-súc, cũng
    là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai; ở phương tây là đức Phật A-di-đà, giáo chủ
    của pháp môn Tịnh độ.
    Hai vị Phật, một vị thuộc Kim Cang bộ, một vị thuộc Liên Hoa bộ; đặc điểm
    trong bộ Kim Cang là pháp “hàng phục”, còn trong bộ Liên Hoa là pháp “nhiếp
    thọ”.
    Pháp hàng phục trong bộ Kim Cang, còn gọi là pháp “chiết phục” thì lấy
    lòng hỷ xả để đưa chúng sanh đến chỗ quy thuận, trong khi đó, pháp nhiếp thọ của
    bộ Liên Hoa thì lấy lòng từ bi để thâu phục chúng sanh.
    Tại sao Kim Cang bộ lại đặt trọng tâm vào hỷ và xả? Số là khi Phật hàng
    phục thiên ma và ngoại đạo, Ngài không có tâm sân hận. Ngài dùng tâm hỷ và xả,
    một phương cách đối trị để giáo hóa, khiến chúng bỏ đường tà để theo về chánh
    pháp. Mục đích của Phật là dẫn dắt chúng tới chỗ thoát vòng sanh tử.
    Lấy từ bi để nhiếp thọ, lấy hỷ xả để hàng phục, trong công cuộc giáo hóa
    chúng sanh chứng tỏ rõ công năng của các pháp “tứ vô lượng tâm”.
    Tinh thần của Kim Cang thường biểu lộ qua cặp mắt trợn lên một cách giận
    dữ. Thật ra cặp mắt tuy giận dữ mà lòng không giận dữ, chỉ thuần có hỷ và xả,
    hoan hỷ và bao dung. Còn như hình Bồ tát với cặp mắt nhìn xuống là hoàn toàn
    không có ý nghĩa giận dữ. Phật A-di-đà đối với chúng sanh không giận dữ, Ngài
    không dùng phương cách hàng phục mà dùng tâm từ bi để tiếp dẫn chúng sanh.
    Trong nghi thức “Thiền môn nhật tụng”, có câu chú gọi là “Nhị Phật chú”,
    như sau:
    Nhị Phật diễn hóa tại Ta-bà
    164

    Đông A-súc, Tây Di-đà
    Thập tam điều đại giới phạm ba-la
    Phạ Diêm-la
    Cần sám hối
    Tội tiêu ma.
    (Tạm dịch: Hai vị Phật giáo hóa cõi Ta-bà. Phía đông là Phật A-súc, phía
    tây là Phật A-di-đà, Mười ba điều phạm giới Ba-la-di, nếu sợ vua Diêm-la thì phải
    sám hối. Tội sẽ tiêu tan)
    Theo nguyên tắc, ai phạm giới Ba-la-di thì không sám hối được, tuy nhiên
    nếu có tâm sám hối chân thực thì tội cũng có thể tiêu tan. “Nhị Phật chú” thuộc về
    “câu triệu pháp môn”. Chữ “câu” là giữ lại, “triệu” là gọi đến. Giả dụ có người bị
    ma chướng hay bị quỷ ám, nếu đọc chú lên thì có thể gọi được quỷ tới. Chú này rất
    linh nghiệm, có điều rất ít người biết đến và cũng không biết cách niệm chú.
    Trong Phật giáo còn có “Phổ am chú” thuộc loại pháp hàng phục. Truyền
    thuyết kể lại rằng Tổ sư Phổ Am lúc xưa là một người giết heo. Sau người đi tu,
    không còn giết heo nữa, người bèn dùng mười hai con dao giết heo, luyện thành
    phi đao, tức là dao bay. Khi niệm chú Phổ Am lên thì những con dao giết heo kia
    sẽ bay lên không gian, khiến tà ma đều sợ hãi, bởi vậy chú Phổ Am thuộc loại pháp
    hàng phục.
    “Dược Sư Quán Đảnh Chân Ngôn” của kinh này cũng là một phần trong
    Nhị Phật chú. Chân ngôn có oai lực giải trừ hết thảy các chất độc, làm tiêu tan mọi
    thứ tội. Gặp ai trúng độc, quý vị niệm chú lên, chất độc sẽ được giải trừ. Có điều,
    quý vị phải thành tâm mới có hiệu nghiệm. Trong kinh Công Đức Các Bổn Nguyện
    Của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì chú này rất quan trọng. Kinh thì dài,
    nhiều lúc gấp gáp không đủ thì giờ để đọc tụng toàn cả bộ kinh, nên người ta phải
    chọn phần nào ngắn gọn và chủ yếu. Người ta chọn chú “Dược Sư Quán Đảnh
    Chân Ngôn” là vì lý do đó. Bởi có duyên lành nên chúng ta mới gặp được Pháp
    165

    môn này. Chúng ta phải thường thường trì tụng chú “Dược Sư”, giúp chúng ta
    tránh mọi thứ tai nạn, căn lành còn thêm tăng trưởng.
    Chúng ta nên thay phiên nhau nói pháp, không lẽ cứ để cho một mình tôi nói
    pháp hoài. Tôi muốn được nghe quý vị lớn tuổi nói pháp. Tại nước Mỹ, điều này
    chưa từng xảy ra, nhưng nay chúng ta phải cố gắng dụng công để vươn lên, nghiên
    cứu sâu rộng Phật Pháp rồi thay thế tôi trên giảng tòa. Ai cũng có kinh nghiệm
    riêng của mình và đây là một dịp để trao đổi kinh nghiệm với nhau, bởi sự thể hội
    vào các cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của Phật Pháp tùy thuộc căn duyên của từng
    người. Quý vị cần phải mạnh dạn lên, trước mặt đại chúng cứ việc công khai bộc
    bạch hết những điều mình tâm đắc. Điều đó quý lắm! Tựa như chúng ta nói những
    chuyện bình thường trong gia đình với nhau, không có điều gì câu thúc. Không bị
    câu thúc, không chướng ngại, có như vậy mới tiếp thâu được chỗ kỳ diệu trong
    Phật Pháp.
    Thế giới này đầy khổ ải. Trong kinh A-di-đà có mấy chữ “ngũ trược ác thế”,
    đó là kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược và mạng trược.
    Kiếp trược là sao? Đó là một thời đại không trong sạch, nhiều sự ô nhiễm.
    Thời gian thì như vậy, còn không gian cũng bị ô nhiễm nữa. Bây giờ không khí
    đương bị ô nhiễm. Chúng ta cũng là một loài chúng sanh mang khí huyết trong cơ
    thể, đều phải hít thở không khí đó, dù quý vị muốn hay không muốn. Không có
    biện pháp nào làm cho không khí trong sạch được. Khí độc đầy rẫy, mùi tử khí
    nặng nề. Không có một địa phương nào được sống trong cảnh an lạc, chỗ nào cũng
    thấy bạo lực, khủng bố, giết người, đốt nhà, cướp của, trộm cắp, có những độc tố
    như vậy thì con người tránh sao khỏi cảnh điên cuồng. Kẻ không bị điên thì cũng
    không thể sung sướng được. Sống trong thế giới đó thì có khác gì sống trong say
    mà chết trong mộng vậy! Có cách nào làm khác được đâu!
    166

    Nói về kiến trược thì hãy xem như không khí đã ô nhiễm, thời gian ô nhiễm,
    những gì mắt chúng ta thấy, tai chúng ta nghe đều chẳng có thứ nào được trong
    sạch cả. Chúng ta chứng kiến nào là cảnh giết người, đốt nhà, cướp của, trộm cắp,
    hút và buôn bán ma túy, cờ bạc, điện ảnh, những loại như vậy làm cho cái thấy
    cũng thành ô nhiễm, khiến cho chúng ta không còn khả năng phân biệt cái nào là
    trong sạch và cái nào là không trong sạch. Thiếu khả năng nhận thức rõ rệt, con
    người sẽ bị cuốn theo chiều hướng chung của thế giới, chiều hướng của sự ô
    nhiễm.
    Tình trạng đó sẽ mang lại kết quả gì? Mang đến phiền não và từ đó mà có
    phiền não trược. Điều này không được xứng ý, điều kia chẳng được toại lòng,
    không suôn sẻ kiểu này, không thuận lợi kiểu khác, ở đâu cũng thấy phiền não. Lấy
    một thí dụ: quý vị vốn ham cờ bạc, quý vị chỉ thấy toàn là những người đến sòng
    bài rồi mang về nhà rất nhiều tiền bạc. Quý vị không thấy những trường hợp thua
    bạc. Quý vị không chịu hiểu rằng số người được bạc chẳng thấm gì so với số người
    thua. Sòng bạc là như vậy, có điều mắt quý vị chỉ nhìn thấy mấy người được bạc
    mà thôi. Người ta gọi đây là trường hợp cảnh giới chuyển, nên quý vị bị cuốn hút
    vào sòng bạc. Càng đánh quý vị càng thua, quý vị càng thua càng phải đánh tiếp để
    gỡ vốn lại, nhưng đâu có gỡ được. Kết quả thành khuynh gia bại sản. Đó là phiền
    não!
    Lấy một thí dụ khác: thấy người ta làm ăn phấn chấn, quý vị thấy ham, cũng
    muốn bắt chước làm theo. Mắt quý vị không thấy những người đã từng bị thất bại,
    nên khi tới lúc việc làm ăn của quý vị bị thua lỗ quý vị liền trách trời: “Người ta
    buôn bán đều thành công cả, cớ sao ông trời chẳng chịu giúp tôi?” Bởi có phiền
    não nên quý vị đổ oán cho tất cả, chẳng kể ai, oán cả trời, cả đất và trách cứ mọi
    người. Càng sinh phiền não thì chính cái thân quý vị càng gặp trắc trở. Quý vị bảo
    vận mạng của quý vị không tốt. Quý vị chửi rủa trời đất, nhưng chửi mãi không có
    kết quả gì thì quý vị bèn đổ oán vào các chúng sanh. Quý vị cho cái này sai, cái kia
    167

    quấy, bốn bên xóm giềng phiền phức, quý vị chẳng hợp với ai. Cái đó gọi là chúng
    sanh trược. Bởi vì chúng sanh trược nên quý vị không có giao tình với ai, mọi sự
    liên hệ với người đều không được thanh tịnh khiến thân phận của quý vị không
    suôn sẻ. Đây là mạng trược.
    Trên đây là lấy pháp thế gian để giảng về thế giới ngũ trược. Năm món này
    phải giảng thật tường tận, bởi trong mỗi món còn chứa đựng vô số các trược, kể ra
    không hết được. Đức Phật Thích-ca trông thấy các chúng sanh trong thế giới Ta-bà
    sống với bao nhiêu thứ khổ, điên đảo, phiền não, tranh chấp, Ngài thấy sống như
    vậy chẳng hứng thú gì. Ngài là một vị thái tử, vốn sanh trưởng từ nơi quyền quý,
    luôn sống trong cung vua, chẳng đi đâu ra ngoài dân dã. Một hôm, Ngài cùng kẻ
    tùy tòng ra ngoài thành đi du ngoạn. Khi ra cửa thành phía đông, Ngài thấy một
    chuyện kỳ lạ. Đó là cảnh một người phụ nữ sanh ra một hài nhi. Vừa ra khỏi lòng
    mẹ đứa bé đã mở miệng kêu: “Khổ! Khổ! Khổ! Khổ! Khổ!”
    Ngài lấy làm lạ, bèn hỏi: “Chuyện gì đây? Sao lại thế này?”
    Kẻ tùy tòng đáp: “Đây là người ta sanh con”
    Ngài nhác thấy máu chảy trên thân người mẹ, còn đứa con thì khóc. Ngài
    bèn quay về vì chẳng còn thấy hứng thú đi chơi nữa. Vậy là cuộc du ngọan ở cửa
    thành phía đông chấm dứt. Ngài nghĩ bụng: “Ở phía đông có con nít khóc, vậy
    ngày mai ta đi ra cửa phía nam”.
    Ngày thứ hai, khi ra khỏi cửa thành phía nam, Ngài thấy một người già, da
    nhăn, đầu bạc, chân bước đi run rẩy, như muốn té lăn xuống đất. Răng thì rụng hết,
    tai điếc, mắt mờ, trông rất khổ sở.
    Ngài hỏi kẻ tùy tòng: “Sao hình dung người này kỳ lạ quá?”. Thật ra trong
    hoàng cung Ngài chưa tùng thấy người nào như vậy.
    Người hầu giải thích rằng: “Đây là một người già, đã sống quá lâu trong đời
    rồi, nên bây giờ cái cơ thể của ông ấy không chịu làm việc nữa. Con mắt, cái tai,
    cái mũi đều đình công cả rồi. Cái lưỡi chưa đình công, nhưng ông ấy có ăn được gì
    168

    đâu: răng chẳng còn nữa, nhấm nháp chẳng biết ngon. Tóm lại, mọi bộ phận trong
    người đều nghỉ việc, cho nên trông ông ấy thiểu não như vậy đó! Tay thì cầm
    không vững, chân thì cất không nổi bước, tóc bạc hết. Lưng còn còng nữa!
    Đức Phật nói: “Quả là khổ vô cùng!” Nguyên đức Phật muốn đi coi đá banh,
    hoặc coi mọi người luyện võ, nhưng trông thấy cảnh đó, đức Phật quay về không đi
    chơi nữa.
    Ngày thứ ba, Ngài đi thẳng ra phía cửa tây. Lần này đức Phật gặp một bệnh
    viện, ở trong đó có những người đau ốm, nằm kêu la như: “Đau quá! Đau quá!”.
    Người thì nói:” Đau chịu không nổi! Cho tôi chết còn sướng hơn”. Trông thấy
    cảnh tượng người bệnh rên rỉ, đau đớn, Ngài chẳng còn thấy hứng thú đi chơi nữa.
    Ngày hôm sau Ngài chọn cửa thành phía bắc và lần này Ngài trông thấy một
    nhà quàn. Ở đấy người ta bán các quan tài.
    Ngài hỏi: “Quan tài này dùng để làm gì?”
    Người ta trả lời: “Cái đó dùng để chôn người chết”.
    Trong nhà quàn lúc đó có nhiều người nằm dài, hơi thở không còn, mắt thì
    nhắm lại. Đó là những thây người đã chết. Đức Phật lại một lần nữa cảm thấy mất
    hứng, Ngài bảo: “Làm người chẳng hay ho gì, ai cũng bị cái khổ sanh, già, bệnh,
    chết. Phải làm sao đây?”.
    Ngay lúc đó có một vị sa môn đi qua. Vị sa môn hiện rõ tướng Tỳ-kheo.
    Đức Phật mới hỏi: “Người này là thế nào?”
    Vị sa môn thì ăn bận theo kiểu người xuất gia.
    Người hầu bèn đáp: “Sao không hỏi ngay người đó?”
    Đức Phật hỏi:
    - Ông là ai?
    - Tôi là một tỳ-kheo.
    - Tỳ-kheo thì làm những gì?
    169

    - Tỳ-kheo là người muốn chấm dứt sanh tử, muốn thoát khỏi cái khổ của
    sanh, già, bệnh, chết.
    - Hay lắm! Thoát được cái khổ của sanh, già bệnh, chết, thì tôi cũng muốn
    thử lắm!
    Từ lúc đó đức Phật Thích-ca lập chí, quyết trở thành một Tỳ-kheo.
    Đó là các nhân duyên khiến cho đức Phật từ bỏ mọi phú quý trên đời, từ bỏ
    ngai vàng để xuất gia tu hành. Sáu năm trên núi Tuyết, đức Phật tu khổ hạnh, mỗi
    ngày ăn một hạt mè và một hạt thóc. Mục đích của Ngài là tu thành Phật. Ngài
    ráng chịu đựng những gì mà thế gian không chịu đựng nổi, Ngài nhịn đói như vậy,
    nhẫn nại như vậy, hành động như vậy, những điều đó thế gian không ai làm được.
    Ngôi vua quý báu đâu có dễ bỏ qua, nhưng Ngài xả bỏ được; đói mà chỉ ăn một hạt
    mè, một hạt thóc, thì đói vẫn hoàn đói, vậy mà Ngài vẫn chịu đựng được. Đó là căn
    bản để Ngài thành Phật.
    Chúng ta thử kiểm điểm xem. Trong chúng ta có người nào được làm một
    thái tử như đức Phật chưa? Chẳng ai có tư cách đó. Vậy mà Ngài đã bỏ ngôi vị đó
    để đi tu. Còn như chúng ta, thử hỏi có thứ gì quý báu để chúng ta chẳng thể xả bỏ
    được? Cái này chẳng thể bỏ được, cái kia chẳng thể bỏ được, cho đến lúc chết liệu
    có mang các thứ đó đi theo mình chăng? Đức Phật bỏ nước, bỏ lại thành trì - thành
    Xá-vệ - bỏ cả vợ con, tất cả những thứ ngoài thân mình, để vào núi tuyết tu.
    Lúc đầu có năm người đi theo chăm sóc. Thân phận của Ngài là thái tử, nên
    vua cha sai hai người tin cẩn đi theo, hoàng hậu cũng sai ba người nữa, tất cả đều
    có phận sự trông nom và hộ trì đức Phật phòng có điều gì bất trắc, chớ không phải
    có ý ngăn trở đức Phật tu hành.
    Trong núi tuyết, đức Phật ăn mỗi ngày một hạt mè và một hạt lúa mì. Trong
    số đi theo có hai người không chịu đựng nổi lối sống khổ hạnh này, nên họ bỏ đi.
    Ba người kia thì dốc một lòng theo Phật, cùng tu khổ với Phật. Vì cố nhịn đói nên
    hồi đó đức Phật gầy ốm, thân hình như que củi, da bọc xương, nhưng chưa bị chết
    170

    vì đói. Lúc đó, có một thiên nữ trông thấy tình trạng này, nàng dâng lên Phật một
    bát cháo sữa bò. Đức Phật Thích-ca, một mặt muốn đáp ứng sự cúng dường của
    thiên nữ, mặt khác nhận thấy đói thêm nữa sẽ đi đến chỗ nguy kịch, Ngài bèn thọ
    dụng bát cháo cúng dường. Lúc bấy giờ ba người đi theo cùng tu với Phật, trông
    thấy đức Phật ăn cháo nên sửng sốt hỏi: “Như vậy thì thành Phật làm sao được.
    Muốn thành Phật là phải khổ hạnh. Bây giờ lại ăn cháo như vậy thì không được
    rồi!” Thôi! Chúng tôi đi đây!”
    Vậy là cả năm người trở về vườn nai (Lộc uyển), bỏ lại đức Phật một mình,
    không nhòm ngó đến nữa.
    Quý vị thử nghĩ lại coi. Đức Phật công đức sâu dày như vậy mà Ngài vẫn
    đưa mình vào những hoàn cảnh khó khăn, tự mình đương đầu với thử thách, chịu
    đựng những gì mà người khác không chịu đựng nổi, quả là Ngài đã phát nguyện
    Bồ-đề rộng lớn, ý chí kiên cường. Ở trên núi tuyết, hồi đó có thể đức Phật ngồi
    thiền, có lúc đi kinh hành, tản bộ, có lúc Ngài leo lên núi, đứng trên cao ngắm cảnh
    trời xa, đại khái là như vậy. Tới lúc năm người kia bỏ đi, thì chỉ còn một mình đức
    Phật ở lại trong cảnh bơ vơ lạc lõng. Nếu là người khác, chắc hẳn trong lòng không
    khỏi nghĩ rằng: “Ta hãy trở về hoàng cung, rồi lên ngôi vua thôi! Ở đây chịu khổ
    để làm gì?”
    Đức Phật không về. Ngài đi tới gốc cây Bồ-đề và phát nguyện rằng: “Ta sẽ
    ngồi ở đây. Chừng nào ta chưa thành Phật, ta thề sẽ không bao giờ đứng dậy, và ta
    sẽ ngồi cho đến chết”. Phát nguyện xong, đức Phật ngồi thiền, thiền luôn trong bốn
    mươi chín ngày.
    Chúng ta chỉ mới ngồi cỡ 5 chữ đồng hồ (35 phút) đã kêu đau chân: “Ối!
    Đau! Đau! Đau chết được!” Hôm qua có một vị cũng như vậy. Y phải quán đề tài:
    “Hãy coi như đã chết!” Vậy mà vị đó cũng không vượt được. Bây giờ lại ngồi thiền
    tới bốn mươi chín ngày, không đứng dậy, và lẽ tự nhiên là không ăn, không uống,
    ở chỗ đó mà chịu đói chịu khát, thiệt không thể tưởng tượng nổi! Nghĩ lại đức Phật
    171

    dụng công với tinh thần đó, liệu chúng ta có thể phát tâm Bồ-đề như vậy được
    chăng?
    Rồi tới một đêm, khi ngước nhìn lên trời, thấy ngôi sao sáng, hốt nhiên Ngài
    bừng ngộ! Ngài khám phá ra tận cùng của chân lý về vũ trụ, nhân sinh. Ngài hoàn
    toàn khai ngộ thành Phật. Lúc vừa thành đạo, Ngài thốt ra câu: “Kỳ lạ thay! Kỳ lạ
    thay! Kỳ lạ thay! Hết thảy các chúng sanh, ai cũng có sẵn trí huệ và đức tướng của
    Như Lai, tất cả đều có thể thành Phật”. Đức Phật có ý nói rằng tất cả các chúng
    sanh đều có Phật tánh, có đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, đủ cả vạn
    đức trang nghiêm, không khác gì Phật. Tuy nhiên, “bởi vọng tưởng chấp trước nên
    không thể chứng được vậy!”. Chúng ta học Phật Pháp, khỏi cần học nhiều, chỉ cần
    nhớ câu này là đủ: “Bởi vì vọng tưởng chấp trước, nên không chứng được”.
    Vọng tưởng của chúng ta thì chao ôi! Lúc trên trời, lúc dưới đất, hốt nhiên ở
    nam, hốt nhiên ở bắc, khi thì nhớ bạn trai, khi nhớ bạn gái, nào cha, nào mẹ, con
    trai, con gái, đến quý vị chị em. Ôi! Cả một ngày tư tưởng bận rộn, cho đến tối
    trong giấc mơ cũng chỉ là vọng tưởng, thấy chị, thấy em, thấy cái này, thấy cái kia,
    đủ thứ chuyện, chẳng ra chuyện gì, vậy mà không sao xả bỏ cái chấp trước đó
    được. Nói đến giấc mơ thì câu chuyện trong mơ ở đâu mà sanh ra vậy? Nó sanh ra
    từ sự chấp trước. Có chấp trước mới có chất liệu tạo thành giấc mơ. Nếu quý vị
    không chấp trước, không có gì điên đảo, thì đâu có mộng tưởng. Quý vị muốn xa
    lìa mộng tưởng và điên đảo thì quý vị bắt buộc phải phá chấp trước. Cho nên người
    ta nói “chí nhân vô mộng”, nghĩa là bậc đại trí huệ không có mộng mơ, bởi vị đó
    không có vọng tưởng. Vị đó là bậc chân nhân, là một vị thánh, không phải như
    người thường.
    Đức Phật không còn chấp trước, không còn vọng tưởng nên Ngài chứng quả
    vị Phật. Chúng ta nên nhớ câu: “bởi vọng tưởng chấp trước nên không thể chứng
    được”, mà cố gắng diệt trừ vọng tưởng chấp trước, như vậy mới xa lìa mọi điên
    đảo mộng tưởng, và đạt được Niết-bàn rốt ráo.
    172

    Sau khi khai ngộ, đức Phật xét qua nhân duyên, Ngài tự hỏi: “Ta đã thành
    Phật, vậy trước tiên ta phải độ cho chúng sanh nào?” Có người bảo: “Ồ! Phật mà
    cũng có vọng tưởng. Khởi lên ý nghĩ độ người, đó chẳng phải là vọng tưởng sao?”.
    Người nào nói câu đó là lấy lòng dạ phàm phu để đo lường tâm lượng của bậc
    thánh. Nói như vậy là sai. Đấy không phải là vọng tưởng. Phật dùng Diệu Quan
    Sát Trí xem xét các nhân duyên, coi chúng sanh nào có cơ duyên đầy đủ thì Ngài
    sẽ độ người ấy trước.
    Với Diệu Quan Sát Trí, đức Phật xét tới năm người đi theo Ngài lúc trước,
    bấy giờ đương ở trong vườn nai và thấy rằng họ dụng công đã tới mức. Ngài nghĩ
    chỉ cần tới đó, thuyết giảng mấy câu, hoặc có khi nhác trông thấy Phật, chẳng cần
    nói năng gì họ cũng có thể khai ngộ được. Chúng ta nên nhớ rằng năm vị Tỳ kheo
    đó tuy đã bỏ đi nơi khác, nhưng ảnh hưởng của đức Phật đối với họ vẫn còn sâu
    đậm. Họ cũng tha thiết với mục đích tu hành để mong dứt bỏ đường sanh tử, họ
    cũng không màng tới cảnh phú quý nơi thế gian. Khi họ bỏ đức Phật, có lẽ tâm
    trạng của mỗi người mang một ý nghĩ rằng: “Ta cứ tu, khi nào đắc đạo ta sẽ giúp
    cho thái tử khai ngộ”. Tuy nhiên, các chi tiết này không có ghi lại trong kinh điển.
    Chẳng qua đó chỉ là những điều ức đoán ngu độn của tôi mà thôi. Có thể họ nghĩ
    bụng rằng: “Ít lâu nay ta đã dành nhiều thời gian để trong nom cho thái tử, chẳng lo
    cho việc của riêng ta. Nay ta hãy rời khỏi nơi này, ráng dụng công tu, ngày sau ngộ
    rồi ta sẽ quay lại độ cho thái tử”. Trong lòng họ đã gieo những nhân duyên đó, nên
    chi, đức Phật khai ngộ trước, đã đến kiếm họ để độ cho họ. Họ muốn giúp Phật
    khai ngộ, thì Phật lại giúp họ khai ngộ. Chính là gieo nhân nào thì gặp quả ấy.
    Với đủ cả bốn trí, Diệu Quan Sát Trí, Thành Sở Tác Trí, Bình Đẳng Tánh
    Trí và Đại Viên Kính Trí, đức Phật quan sát các cơ duyên, thì thấy người đầu tiên
    Ngài nên độ là Tôn giả Kiều Trần Như. Do đó Phật khai ngộ cho Tôn giả, và cũng
    là một dịp để đáp ứng lại lời nguyện xưa của Ngài.
    173

    Trong thời quá khứ xa xưa đó, Tôn giả Kiều Trần Như là quốc vương Ca-
    lợi, còn đức Phật là một tiên nhẫn nhục, ở trong núi tu hành. Một hôm vua Ca-lợi
    vào rừng đi săn, mang theo cả cung nga thể nữ. Trong lúc nhà vua mải mê săn bắn,
    các cung nga đi lang thang tới chỗ của tiên nhẫn nhục. Cũng từ một nhân duyên
    sẵn có khiến họ có lòng cảm mến, nên họ xúm lại vây quanh tiên nhẫn nhục. Lần
    đó cuộc đi săn thất bại nên nhà vua mất hứng thú. Vua gom tùy tùng lại để ra về thì
    thấy các cung nga thể nữ đương xúm xít bên cạnh một người lạ mặt, râu và tóc để
    dài, móng tay cũng mọc dài. Nhà vua tỏ ý ghen tức mới hỏi kẻ lạ mặt: “Ngươi ở
    đây làm gì?”. Tiên nhẫn nhục trả lời: “Tôi ở đây tu hạnh nhẫn nhục”.
    Vua Ca-lợi nói: “Hạnh nhẫn nhục ngươi tu ra sao mà ngươi lại quyến rũ các
    cung nữ của ta như vậy? Ngươi không phải là người tốt”.
    Nói xong nhà vua rút gươm chặt luôn chân và tay của tiên nhẫn nhục và hỏi
    tiên có tâm sân hận không.
    Tiên nhẫn nhục trả lời: “Tâm không sân hận”.
    Vua Ca-lợi nói: “Ta không tin. Ngươi bị chặt tay chặt chân mà còn nói
    không sân hận. Trên thế gian này làm gì có chuyện đó. Ngươi nói láo. Ngươi có cái
    gì để chứng tỏ rằng ngươi không hề sân hận chăng?”
    Tiên nhẫn nhục đáp: “Nếu tôi không có lòng sân hận thì tay và chân của tôi
    sẽ mọc ra như cũ. Nếu có sân hận thì tay và chân sẽ không mọc được”.
    Vừa nói xong quả nhiên chân và tay của tiên lại mọc trở lại. Vua Ca-lợi nhất
    định bảo tiên là loài yêu quái, rồi ra lệnh đốt núi. Lúc bấy giờ các vị thần hộ pháp
    lấy làm phẫn nộ bèn làm một trận mưa đá đổ xuống đầu vua Ca-lợi.
    Tiên nhẫn nhục khởi lòng từ bi và nói rằng: “Trong tương lai khi nào thành
    Phật, thì trước tiên ta sẽ độ cho người đã chặt tay và chặt chân ta”. Bởi có lời
    nguyện đó nên khi đức Thích-ca Mâu-ni thành đạo xong, và sau khi quan sát các
    quan hệ nhân duyên từ thuở xa xưa cho đến hiện tại, Ngài đã đi tới chỗ vườn nai
    kiếm năm tìm năm anh em Kiều Trần Như để độ cho họ.
    174

    Sở dĩ gọi là “lộc dã uyển” hay vườn nai là bởi thời xưa có rất nhiều hươu nai
    sống ở đây. Trong một kiếp xa xưa đức Phật là một vua nai, đã từng chăn dắt tất cả
    đàn nai. Bây giờ thành Phật, Ngài giáo hóa nhân gian. Ngài đi tới vườn nai, gặp lại
    năm người bạn tu. Họ vốn chẳng phải là Tỳ-kheo, vì đi theo Phật họ mới thành Tỳ-
    kheo. Gặp mấy người đó, đức Phật lần đầu tiên chuyển bánh xe pháp. Ngài nói
    pháp Tứ đế.
    Tứ đế gồm bốn đế: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.
    Chuyển bánh xe pháp thứ nhất, đức Phật nói: “Đây là khổ, nó có tính cách
    bức bách”. Ngài bảo đời sống con người là khổ. Khổ có ba thứ khổ, có tám thứ
    khổ, vô lượng thứ khổ, chúng đều bức bách thân tâm của chúng sanh, khiến chúng
    sanh không có an lạc, không được tự tại, chúng giống như những người khách đến
    nhà bức bách gia chủ, đuổi gia chủ đi.
    Ba khổ gồm khổ khổ, hoại khổ, và hành khổ. Khổ khổ là thế nào? Là trong
    cái khổ lại còn có khổ. Không có cơm ăn đã là khổ lắm rồi, lại còn không có áo
    mặc nữa, tức là trong cái khổ còn thêm khổ nữa. Không những thiếu cơm ăn, thiếu
    áo mặc, luôn cả nhà ở cũng không có, quý vị nghĩ thử coi vậy là có khổ hay
    không? Đó là nghĩa của khổ khổ, trong cái khổ còn có khổ nữa, khổ nọ chồng lên
    khổ kia, biết ngày nào cho hết khổ.
    Nếu không bị cái khổ khổ do bần cùng mang lại thì lại gặp cảnh hoại khổ
    của trường hợp phú quý. Tỷ dụ quý vị có nhiều tiền, nhiều của, rồi bỗng chốc một
    ngày nào tiền của quý vị bị mất sạch, hoặc bị mất trộm, hoặc bị nạn cháy nhà, hoặc
    bị cơn lũ lụt cuốn trôi, tiền của tan rã, phú quý bị hủy hoại. Đây là trường hợp hoại
    khổ.
    Có người bảo rằng: “Tôi ấy à! Chẳng có cái khổ vì cảnh bần cùng, cũng
    chẳng có gì là giầu sang cho lắm. Bởi vậy, tôi chẳng có khổ khổ mà cũng chẳng
    gặp hoại khổ”. Nói như vậy là không đúng, bởi quý vị có hành khổ. Từ tuổi thơ
    đến tuổi thanh niên, từ thanh niên đến tuổi già, từ già đến chết, mỗi khắc, mỗi giây
    175

    biến đổi không ngừng suốt hành trạng trong một đời, đó cũng là một cái khổ gọi là
    hành khổ.
    Nhóm tám khổ thì kể ra như sau: sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, hợp
    lại thành tứ khổ; ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thịnh
    khổ, đó là bốn khổ nữa, cộng lại thành bát khổ.
    Sanh ra là khổ vì kinh nghiệm sanh không phải là một cảm giác thoải mái.
    Sanh ra cũng tương tự như trường hợp bị ép giữa hai trái núi, như một con rùa khi
    nó thoát ra khỏi cái mai của nó một cách khó khăn. Sanh ra đời rồi thì giai đoạn
    tuổi già sẽ từ từ đi tới và tuổi già là khổ. Lúc đó các bộ phận trong cơ thể sẽ dần
    dần ngưng nghỉ không làm việc nữa. Khổ là vì lẽ đó.
    Ngoài sanh khổ, già khổ còn có bệnh khổ. Cái khổ của bệnh tật rất là khó
    chịu đựng. Đau bệnh đến nỗi phải rên rỉ, kêu la, có khi như điên như dại, những
    loại khổ này không ai chịu thế cho mình được. Tuy nhiên, ở đây, chúng ta thấy có
    một sự bình đẳng. Chẳng kể quý vị là ai, dù là vương, công, hầu, bá, hay chỉ là kẻ
    đi ăn xin; dù là vua, giầu sang trùm bốn biển, nhưng đến khi mắc phải bệnh khổ thì
    ai cũng như ai. Ai không gặp cảnh này thì không có vấn đề, nhưng một khi quý vị
    gặp cảnh ngộ đó thì đau khổ vẫn không tránh được.
    Ba cái khổ vừa nói cũng chưa ghê gớm bằng cái thứ tư là chết khổ. Con
    người đến lúc chết là giẫy dụa, hòng níu lấy mạng sống, nhưng thần chết không
    chịu nghe, cứ nhất định lôi đi. Cái đau khổ đó có khác gì hoàn cảnh của một con bò
    đương sống mà bị người ta lột da vậy.
    Bây giờ nói đến bốn khổ sau. Đối với số đông thì điều chấp nặng nề là tình
    yêu nam nữ. Thương ai muốn cho người đó sống, ghét ai thì muốn cho người đó
    chết. Khi đã thương yêu rồi thì mọi thứ khác đều quên lãng, lý trí cũng bị suy yếu.
    Tình yêu giống như một thứ keo bền chắc cơ hồ không có sức mạnh nào có thể
    phân tán ra được. Tôi nói như vậy có thể có vị không tin. Vậy quý vị hãy lưu ý tới
    những trường hợp mà báo chí gọi là các vụ song sinh Xiêm (Siamese twins), thỉnh
    176

    thoảng xảy ra ở các nơi trên thế giới. Khi sanh ra, thân thể chúng dính liền với
    nhau, phải dùng giải phẫu mới tách chúng ra được. Hãy tưởng tượng xem chúng bị
    đau đớn biết chừng nào, đó là ái biệt ly khổ, cái khổ do yêu thương mà bị tách ra.
    Nguyên do là vì yêu thương quá sâu xa, đại khái như câu người ta nói: “Trên trời
    thì nguyện làm chim liền cánh, dưới đất thì nguyện làm cây liền cành”, yêu nhau
    bền chắc như vậy, cho nên kiếp sau mới thành trẻ song sinh Xiêm.
    Cũng có một lối giải thích khác về các trường hợp vừa kể, tuy không mấy tốt
    đẹp. Nguyên trong các kiếp trước, các trẻ song sinh Xiêm là những người có đồng
    tính luyến ái với nhau. Kiếp này chúng là những người thuyết pháp cho số đồng
    tính luyến ái này. Luyến ái kẻ đồng phái với mình, phải chăng đó là một thứ tình
    yêu điên đảo? Yêu nhau mà chẳng muốn lìa nhau thì khi chết đi sẽ trở lại đầu thai
    thành trẻ song sinh Xiêm, để rồi bị giải phẫu mới tách lìa ra được. Con người kể ra
    cũng tàn nhẫn. Trông thấy chúng như vậy, họ sanh lòng đố kỵ nên muốn tách
    chúng ra làm hai. Họ bảo rằng: “Không thể để như thế này được! Chúng mày
    không thể sống nổi!” Đó là lý do họ làm cuộc giải phẫu. Cũng có một lý do khác là
    do lòng từ bi, bởi khi trông thấy các đứa trẻ khó thể sống nổi, các thầy thuốc mới
    tìm cách ra tay phẫu thuật, mà không quản gì tới công trình rất khó nhọc của họ.
    Thực vậy, họ phải cẩn thận lắm để tách ra từng phần nhỏ một trên thân thể của
    những hài nhi đó.
    Thế gian này lắm chuyện phiền hà! Mấy chục năm về trước, ít có những vụ
    song sinh Xiêm. Ngày nay đồng tính luyến ái gia tăng nên các vụ này xảy ra luôn,
    nước nào cũng có.
    Ngày trước chỉ có những trường hợp song sanh thường, hai đứa trẻ chung
    một bào thai, nhưng sự luyến ái của chúng không đi đến chỗ hồ đồ để thành một
    chất keo dính chặt chúng vào nhau. Còn như luyến ái đến cùng cực để không chịu
    chia lìa nhau thì kết cục sẽ trở thành những trẻ song sanh Xiêm. Tới lúc đó, dầu
    quý vị không muốn rời nhau cũng không được, bác sĩ sẽ chia cắt phân đôi ra, lúc
    177

    đó đau đớn biết là chừng nào! Vả lại giải phẫu cũng có nhiều phần rủi ro, có khi
    không cứu sống được. Chắc hẳn lúc đó, chúng nghĩ rằng: “Nếu chẳng được chung
    một thân với nhau, thì thà chẳng làm người nữa”. Bởi chúng không muốn lìa nhau,
    nay hoàn cảnh bắt phải chia lìa thì thà chết còn hơn. Luyến ái nhau mà phải chia lìa
    nhau, đó là ái biệt ly khổ.
    Thứ đến là oán tắng hội khổ. Đây là ghét, ghét ai thì cứ trông thấy mặt
    người đó đã thấy mất vui rồi và chỉ muốn tránh xa đi nơi khác. Tuy nhiên, điều kỳ
    cục là muốn tránh mà tránh không được, đi tới đâu cũng gặp lại, có khi làm việc
    chung vớí nhau nữa. Quý vị ghét người ta ư? Vậy mà quý vị vẫn phải gần gũi với
    họ. Oán ghét mà ở một chỗ với nhau, đó là một cái khổ, gọi là oán tắng hội khổ.
    Còn cầu bất đắc khổ là nói khi chúng ta cầu mong một chuyện gì nhưng
    chuyện đó không tới, trong lòng nẩy sinh phiền não, đêm ngủ không an giấc, ngày
    ăn không biết ngon, cho đến đứng ngồi cũng không yên nữa, trong lòng lúc nào
    cũng như dầu sôi lửa bỏng vậy. Đó cầu bất đắc khổ.
    Cuối cùng, ghê gớm nhất lã ngũ ấm xí thịnh khổ. Ngũ ấm là sắc, thọ, tưởng,
    hành, thức, mấy thứ này kiên cố lắm, chẳng ai dứt bỏ được chúng. Ảnh hưởng của
    chúng rất lớn, chúng che khuất Phật tánh của mọi người. Tuy nhiên, nếu hiểu biết
    ngũ ấm một cách rốt ráo thì chúng chẳng còn gì gọi là thực thể, mà chỉ là một đám
    mây nổi bồng bềnh trên hư không. Ngược lại, nếu không hiểu rõ ngũ ấm thì chúng
    vẫn còn là một thứ áp lực nặng nề. Hiểu rõ minh bạch thời quý vị sẽ “quán thấy
    năm uẩn đều là không” (Bát Nhã Tâm Kinh), và “bổn lai chẳng có vật nào, chỗ nào
    còn bám bụi nữa? (Pháp Bảo Đàn Kinh)”.
    Bây giờ chúng ta hãy tự mình kiểm tra lại coi, liệu có ai có thể nói rằng
    mình không có tám loại khổ đó chăng? Quý vị bảo: “Tôi không khổ, tôi chẳng có
    ba khổ, tôi chẳng có tám khổ, một khổ cũng chẳng có”. Quý vị nói như vậy chính
    là đã tự dối mình. Tôi xin nói thêm một điều nữa. Cái khổ do cầu mà chẳng được,
    cùng với hai thứ khổ kia là oán hận mà hội ngộ, yêu thương mà chia lìa, các loại
    178

    này cũng na ná giống nhau. Thí dụ như ai đó cầu mong được một chức vụ nào mà
    không đạt được: khổ tâm lắm! Làm ăn mong cho được phát tài, kết quả lại chẳng
    được; cầu danh, danh chẳng có, cũng đều khổ cả. Lại nói rõ hơn: cầu gặp bạn trai
    hoặc cầu gặp bạn gái mà chẳng được toại nguyện, càng khổ biết chừng nào! Khổ
    đến nỗi đêm ngủ thao thức, ngày ăn không biết ngon. Từ đời xưa đã có những loại
    thực là ngu si như mang chứng bệnh tương tư, thậm chí đi đến chỗ cùng nhau tự
    kết liễu tính mạng. Quý vị thấy như vậy là khổ hay không khổ? Chẳng qua là vì tại
    thế gian này căn bệnh chấp trước quá nặng, nó là một thứ điên đảo, nhận giặc làm
    con, lấy điều khổ làm điều vui. Càng cầu bao nhiêu thì cái điều cầu mong càng có
    giá, vậy mà khi đạt được nó rồi người ta cảm thấy nó cũng vậy mà thôi.
    Trong giới thanh niên, người ta thường nói có một loại thuốc có thể làm cho
    người ta khai ngộ. Hai mươi năm trước đây, loại LSD (mê ảo dược) rất thông dụng
    tại nước Mỹ, còn ngày nay thì marijuana (cần sa) lại rất thịnh hành. Giới trẻ hiếu
    kỳ, chẳng biết ất giáp ra sao, mong có cơ hội dùng thử. Thử được rồi liền mắc bệnh
    ghiền, còn ai chưa thử thì vẫn còn mơ hồ chưa hiểu thuốc đó ra sao. Có thực các
    loại thuốc độc đó mang lại sự khai ngộ chăng? Hút marijuana vào là biến thành
    thần tiên ư? Đại khái là những ý nghĩ đó xuất hiện trong đầu óc những kẻ hiếu kỳ.
    Bởi tính hiếu kỳ, tính ưa cái mới chuộng cái lạ, mà giới trẻ gặp phải những thứ độc
    hại đó. Từ đó về sau, ma túy sẽ là cái mồi ngon ngọt để họ thưởng thức. Mỗi lần
    hút vào là một lần họ thấy như bay bổng, như đê mê, chẳng còn thiết tha việc gì
    khác, đến làm vua cũng chẳng ham. Quý vị thấy như vậy có phải là điên đảo
    không, có phải là khổ không?
    Tám khổ nói ở trên chỉ là đại cương, còn đi vào chi tiết thì còn nhiều thứ khổ
    lắm, vô lượng vô biên thứ khổ, kể ra không hết được, mà kể ra cho ai nghe? Nói ra
    người ta cũng không tin. Đức Phật nhận ra cái khổ, cho nên điều chân lý thứ nhất
    Ngài nói là Khổ đế. Ngài bảo: “Đây là khổ, đặc tính của nó là bức bách”. Chúng ta
    cần phải biết tới cái sức mạnh bức bách của nó.
    179

    Chân lý thứ hai là “Tập”: “Đây là tập, đặc tính của nó là chiêu cảm”. Tập
    nghĩa là tích tụ, tụ tập. Tụ tập cái gì? Tụ tập phiền não. Bởi nhận thấy các chúng
    sanh khổ nên đức Phật phát nguyện cứu độ chúng sanh; nhận thấy rằng phiền não
    do tụ tập lại mà thành, nên đức Phật phát nguyện đoạn trừ phiền não. Nguyện rằng:
    “Chúng sanh vô biên thề nguyện độ
    Phiền não vô lượng thề nguyện đoạn”
    “Đây là tập, đặc tính của nó là chiêu cảm”. Tự mình gieo nhân, nên gặp quả
    báo, tự mình chuốc lấy và tự mình có cảm ứng, cho nên gọi là chiêu cảm. Những
    phiền não ấy nhiều không kể được, nói một cách tổng quát thì là tám vạn bốn ngàn
    phiền não, nhưng thực ra phiền não là vô lượng vô biên.
    Chân lý thứ ba là “Đạo”; “Đây là Đạo, đặc tính của nó là có thể tu”. Đây là
    đạo Bồ-đề, đạo của trí huệ, đạo thành Phật, đạo đưa tới dứt đường sanh tử. Tính
    cách của đạo này là có thể tu. Nếu như quý vị tu hành thì quý vị có thể đạt được
    Đạo, không tu thì không đạt được. Cho nên có câu:
    “Pháp môn vô lượng thề nguyện học
    Phật đạo vô thượng thề nguyện thành”
    Chân lý thứ ba là “Diệt”: “Đây là diệt, đặc tính của nó là có thể chứng”. Diệt
    đây có nghĩa là niềm vui của tịch diệt. Có câu nói:
    “Các hành là vô thường
    Thuộc về pháp sanh diệt
    Sanh và diệt đều diệt
    Tịch diệt là niềm vui”
    Chư hành vô thường
    Thị sanh diệt pháp
    Sanh diệt diệt dĩ
    Tịch diệt vi lạc.
    180

    Trong một kiếp quá khứ, đức Thích-ca đã từng hy sinh thân mạng để đổi lấy
    một nửa bài kệ trên. Số là, trong thời kỳ tu khổ hạnh, có lần Ngài gặp một vị trời
    thuộc Tịnh Cư thiên, lúc ấy giả trang làm quỷ dạ xoa. Vị trời này muốn khảo
    nghiệm trình độ tu của vị lão tu hành (vị tu hành kỳ cựu) này, muốn thử xem tâm
    thành cũng như sự hy sinh của vị ấy tới mức nào. Dạ xoa bèn tiến lại và khi đi
    ngang trước mặt ông ta, dạ xoa tự ngâm nga một mình hai câu: “các hành là vô
    thường, thuộc về pháp sanh diệt”.
    Vị lão tu hành nghĩ thầm: “Ủa! Quỷ này ca hát gì đây? Đây chẳng phải là
    một bài hát mà là hai câu của một bài kệ. Hai câu này có ý nghĩa lắm!”
    Ngài bèn hỏi: “Ngươi nói cái gì đấy?”
    Quỷ dạ xoa đáp: “Ta nói rằng ở các hành là vô thường, thuộc về pháp sanh
    diệt”.
    Vị lão tu hành: “Bài ngươi đọc đó còn thiếu hai câu nữa phải không?”
    Quỷ: “Đúng lắm! Còn thiếu hai câu nữa”.
    Vị lão tu hành: “Vậy ngươi hãy đọc ra cho ta nghe với”.
    Quỷ: “Đọc ra cho ngươi ư? Ta đương đói không còn hơi sức để đọc tiếp hai
    câu kia. Ngươi phải cho ta thứ gì để ta ăn. No bụng rồi ta mới đọc được”.
    Vị lão tu hành: “Được! Ngươi muốn ăn thứ gì ta sẽ kiếm cho ngươi đặng
    ngươi được no bụng rồi đọc hai câu kệ cho ta nghe”.
    Quỷ dạ xoa nói: “Ta phải ăn thịt người sống, uống máu người sống thì ta
    mới no bụng được. Liệu ngươi có dám xả thân ngươi, để ta ăn thịt và uống máu
    ngươi không?”
    Đức Phật thầm nghĩ: “Sớm nghe được đạo, tối chết cũng cam; pháp này đổi
    lấy cái chết cũng đáng. Ta được nghe xong rồi có chết cũng không tiếc, vả lại
    chừng nào ta chưa được nghe hai câu kệ đó lòng ta vẫn còn đeo đuổi, vĩnh viễn
    181

    khôn nguôi”. Bởi vậy đức Phật bảo: “Được lắm! Ngươi cứ đọc ra cho ta nghe. Ta
    bằng lòng hiến trọn thân ta cho ngươi”.
    Dạ xoa bèn đọc hai câu kệ như sau: “Sanh và diệt đều diệt, tịch diệt là niềm
    vui”.
    “Các hành là vô thường” có nghĩa là trên thế gian hết thảy mọi thứ đều vô
    thường; “thuộc về pháp sanh diệt”, tức là hết sanh thì đến diệt, hết diệt lại đến
    sanh, cho nên gọi là pháp sanh diệt; “sanh và diệt đều diệt”: khi nào sanh và diệt
    đều không còn nữa, tới trạng thái tịch diệt, một trạng thái không sanh không diệt;
    lúc đó “tịch diệt là niềm vui”, một niềm hoan lạc chân chánh và vĩnh viễn.
    Nói xong câu kệ, quỷ bèn đòi ăn thịt vị lão tu hành.
    Vi lão tu hành nói: “Khoan đã! Đừng ăn thịt ta vội!”
    Quỷ dạ xoa: “Sao? Ngươi muốn nuốt lời ư? Không được đâu!”
    Lão tu: “Ta không nuốt lời. Ngươi hãy để cho ta lấy dao khắc bài kệ đó trên
    thân cây, cho người thế gian đời đời được trông thấy, đặng họ phát tâm Bồ-đề tu
    thành đạo quả”.
    Quỷ dạ xoa: “Ý kiến của ngươi được lắm! Ta để cho ngươi khắc đó!”
    Lão tu lấy dao lột vỏ cây ra rồi khắc kệ lên thân cây. Trong khi đó quỷ dạ
    xoa đứng bên hối thúc: “Ngươi khắc lẹ tay lên một chút! Ta đói lắm rồi, chịu
    không nổi nữa!”
    Vị lão tu hành ráng sức làm mau hơn, và khi bài kệ đã khắc xong, quỷ dạ
    xoa nói: “Bây giờ thì chẳng khách khí gì nữa, ta phải ăn thịt và uống máu của
    ngươi đây!”
    Lão tu: “Chờ thêm một chút nữa!”
    Quỷ dạ xoa: “Lại còn chờ nữa ư? Ta đã chờ cho ngươi khắc kệ lên cây rồi.
    Ngươi cứ tìm cách trì hoãn mãi, ngươi muốn cái gì nữa?”
    Lão tu: “Ta nghĩ rằng bài kệ mà ta vừa khắc trên cây, sau một thời gian sẽ bị
    mưa gió phá hủy, khó có thể tồn tại được. Hiện nay, ta sẵn có con dao đục đá, ta
    182

    muốn khắc bài kệ đó trên đá, như vậy nó sẽ vĩnh viễn không bị xóa mờ. Ngươi hãy
    ráng chờ ta thêm chút nữa, đàng nào ta cũng phải ghi lại bài kệ trên đá mới xong”.
    Quỷ dạ xoa: “Cũng được! Cho ngươi được toại nguyện. Ngươi khắc đi!”
    Khi vị lão tu hành khắc xong, quỷ đòi ăn thịt. Ngài bằng lòng nói: “Bây giờ
    ngươi ăn thịt ta đi!”. Nói xong, ngài nhắm mắt lại chờ quỷ dạ xoa tới để ăn thịt
    mình.
    Bỗng nhiên lúc đó ở trên không trung có tiếng nói vọng xuống: “Hay lắm!
    Hay lắm! Lão tu hành thực có lòng hy sinh to lớn, vì pháp quên thân mình, trong
    tương lai nhất định sẽ thành Phật”. Ngài bèn mở mắt ra thì chẳng thấy quỷ dạ xoa
    đâu. Trước mặt ngài là một vị trời của Tịnh Cư thiên.
    Bởi vậy đây gọi là câu chuyện “xả thân mạng vì nửa bài kệ”. Bỏ cả sanh
    mạng mà chẳng sợ mảy may. Là những người học Phật, chúng ta liệu có được tấm
    lòng chí thành và khẩn thiết như vậy chăng? Chúng ta có dám đổi sanh mạng mình
    để lấy nửa bài kệ, hay một bộ kinh không?
    Tuy nhiên, hiện nay trên thế giới cũng không thiếu những người dốc lòng tu
    hành. Vạn Phật Thành của chúng ta vẫn thường khuyến khích mọi người đọc tụng
    và thuộc lòng bộ kinh Lăng Nghiêm. Có người thuộc hai quyển, có người thuộc ba
    quyển, nhưng chưa thấy ai thuộc cả bộ kinh. Trước ngày vía đức Phật A-di-đà
    khoảng một tháng, có một nữ Phật tử phát nguyện đóng cửa học thuộc kinh Địa
    Tạng và kinh Phạm Võng, hẹn trong vòng một tháng đọc tụng thuộc lòng hai bộ
    kinh trên. Lúc đó tôi đồng ý rồi cho người đi theo để trông nom, cung cấp đồ ăn và
    nước uống đặng giúp vị này thành tựu lời phát nguyện. Quả nhiên, trong hạn kỳ
    một tháng, người đó đọc thuộc cả kinh Địa Tạng và kinh Phạm Võng. Đó là người
    đầu tiên tại Vạn Phật Thành thuộc hai kinh này. Quý vị muốn biết danh tính của
    người đó chăng? Tên gì? Họ gì? Điều này tôi không thể nói cho quý vị hay, bởi tôi
    không muốn quảng cáo cho ai cả. Người đó là một phần tử tu hành tại Vạn Phật
    Thành, và ở đây ai ai cũng như vậy.
    183

    Gần đây, có một vị cư sĩ ở Los Angeles tên là Hà Quả Lâm - Hà Diệu Lâm,
    làm nghề châm cứu. Ông đến Vạn Phật Thành, bế quan trong mười ngày thì đọc
    thuộc lòng được bộ kinh Kim Cang. Tại sao tôi nói tên của ông ta là Hà Quả Lâm -
    Hà Diệu Lâm cho quý vị biết? Bởi đó là một thầy châm cứu, tôi quảng cáo không
    công cho ông, điều đó chẳng quan hệ gì.
    “Đặc tính của Đạo là có thể tu”, “đặc tính của diệt là có thể chứng”, chứng
    được niềm vui của sự tịch diệt. Vậy ai có thể chứng được? Người nào tu hành một
    cách chân thực thì có thể chứng. Bởi vậy cho nên, biết Khổ, hiểu khổ, thì đoạn
    Tập, nghĩa là đoạn trừ phiền não; mộ Diệt, hâm mộ niềm vui tịch diệt, nên mới tu
    Đạo. Do đó mới nói: “Biết khổ, đoạn tập, mộ diệt, tu đạo”.
    Lần đầu chuyển pháp luân, Phật nói:
    Đây là khổ; tính bức bách
    Đây là tập; tính chiêu cảm
    Đây là đạo; có thể tu
    Đây là diệt; có thể chứng.
    Thực ra phải nói theo thứ tự là: khổ, tập, đạo, diệt, nhưng vì người Trung
    quốc đã đổi lại để đọc cho thuận miệng nên mới nói là: khổ, tập, diệt, đạo.
    Lần thứ nhì, chuyển pháp luân, Phật nói:
    “Đây là khổ, ta đã biết, không cần biết thêm nữa”. Câu này có nghĩa là ta đã
    biết khổ, ta không muốn chịu cái khổ đó nữa, và ta cũng không muốn biết thêm về
    khổ.
    “ Đây là tập, ta đã đoạn trừ, ta không phải đoạn trừ thêm”, có nghĩa là ta đã
    đoạn trừ tập rồi, không còn cái gì để đoạn trừ nữa, ta đã hết phiền não rồi.
    “ Đây là Đạo, ta đã tu”, nghĩa là ta đã tu xong Đạo Bồ-đề, đã thành Phật rồi.
    “ Đây là diệt, ta đã chứng”, nghĩa là ta đã hiểu trọn vẹn các pháp khổ, tập,
    diệt, đạo.
    Lần thứ ba chuyển pháp luân, Phật nói:
    184

    “Đây là khổ, người phải biết; đây là tập, người phải đoạn trừ; đây là Đạo,
    người phải tu; đây là diệt, người phải chứng”.
    Sau ba lần Phật chuyển pháp luân về pháp Tứ đế thì Tôn giả A-nhã Kiều
    Trần Như chứng ngay được quả A-la-hán. Nay, chúng ta cũng nghe xong Pháp này
    rồi, có vị nào chứng được quả A-la-hán chưa, tôi cũng không rõ!

    --- Kết thúc.


    Nguồn : Từ trang nhà QuangDuc.
    Last edited by chi2730; 07-08-2012 at 10:20 PM.
    Cầu sanh Tây Phương!.

  5. #5

    Mặc định

    Do C convert từ PDF sang word nên có một số chỗ bị lỗi font nên quý Đạo hữu có thể tải trực tiếp bài giảng ( file PDF ) từ link Mediafire mà C đã upload lên. Mong hoan hỷ.


    Link đính kèm : http://www.mediafire.com/view/?p2k93qg2klbinfc
    Cầu sanh Tây Phương!.

  6. #6

    Mặc định

    Công đức của bạn bất khả tư nghì

  7. #7

    Mặc định

    Cho N ké đóng góp cùng với bạn luôn nghe :)

    Đây là kinh Dược Sư mà N đã kiểm tra từng chữ theo bản kinh mẫu N đã mượn dc:

    MSWord: http://www.mediafire.com/?1ytapxtsz0ce3aq
    PDf: http://www.mediafire.com/?wmdmszm3k3v3d39
    Last edited by Nhất Niệm; 29-12-2012 at 07:01 PM.
    Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. Pháp môn Tịnh Độ thệ nguyện học. Như Lai vô biên thệ nguyện sự. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

  8. #8

    Mặc định

    Kinh N in và đóng thành quyển để ấn tô'ng cho Sư Thầy nè :) Vì làm cho chùa sử dụng nên N làm kinh trang nghiêm hơn bình thường :)





    Last edited by Nhất Niệm; 31-12-2012 at 05:18 PM.
    Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. Pháp môn Tịnh Độ thệ nguyện học. Như Lai vô biên thệ nguyện sự. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

  9. #9

    Mặc định

    Dạ..Cảm ơn Chị.
    Cầu sanh Tây Phương!.

  10. #10

    Mặc định

    Chúc bạn mau thành phật
    Bát nhã

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Vài lời bàn luận về bộ kinh DƯỢC SƯ
    By silicon11 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 26
    Bài mới gởi: 31-08-2012, 09:55 PM
  2. Trả lời: 4
    Bài mới gởi: 11-06-2012, 02:39 PM
  3. Tìm Hiểu Về Kinh Dược Sư
    By ngoc ha 63 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 4
    Bài mới gởi: 10-05-2012, 12:48 PM
  4. ĐỀ THI TU HÀNH CỦA LÃO HÒA THƯỢNG QUẢNG KHÂM
    By bachliencu in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 5
    Bài mới gởi: 13-10-2011, 08:07 AM
  5. Xin các bác tu Mật chỉ giáo?
    By bienvasong in forum Mật Tông
    Trả lời: 13
    Bài mới gởi: 23-12-2010, 11:06 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •