11.- Tôn Tẩn
giáng cơ ngày 29-2-1935

a) Thiên thai văng vẳng tiếng tri âm,
Đạp máy âm dương đến cõi phàm,
Lược sách binh thi dâng bửu bối,
Bao trùm hậu khí giúp nhà Nam.


b) Hoàng quyền nghiêng ngửa chìu dân quốc,
Đế Pháp chơi vơi thống bạch cờ.
Thành bại một trường lưu quyết trận,
Thừa cơ Việt mới định xa thơ.


12.Aristide Briand
giáng cơ bằng Pháp ngữ ngày 29-8-1934

a) Ôi ! thỏa hiệp chung trên thế giới luôn luôn bị làm trái lại bởi các cuộc chiến đấu vì chủng tộc và sự xung đột vì quyền lợi. Chúng ta cũng chưa biết nghe tiếng nói của “Người an ủi Thiêng Liêng” giờ đây đang vang vội khắp loài người. Tất cả mọi trái tim phải đoàn tụ về Người hay tôn giáo của Người. Khi nào chúng ta có thể thấy được bên Tây Phương ánh sáng vinh quang của Người thì đó là bình minh của kỷ nguyên mới của toàn thế giới.

(Ô! l’entente universelle sest………………………………………) .

b) Hãy cầu nguyện với Thượng Đế để tư tưởng cao cả của người hiện ra, thế giới đã khát thứ nước nồng đượm của người. Bằng một tiếng kiêu lanh lảnh, nổi đau khổ của nhân loại đòi hỏi sự hiện đến của “Người Cứu Vớt” vĩ đại trong số người của vị “Thầy Thiêng Liêng”.
(Phần Pháp ngữ ……………………….)

13.- Victor Hugo
giáng cơ bằng Pháp ngữ ngày 9-8-1934:

Những kẻ nào dám vi phạm vào Thiêng Liêng dù xa, dù gần đều phải bị trừng phạt. Hãy coi Pasquier và nhiều kẻ khác đã bị giết bởi phán quyềt của Thượng Đế. Không một ai có thể tránh được những cơn thịnh nộ của Trời, nếu chống lại vô vi. Hãy tưởng tượng ra và tin tưởng vào sự công bằng của Thương Đế.

(Có chữ Pháp ngữ dẫn giải phía dưới đây).

14.-Tiêu Diêu Đạo Sĩ
hay Bradaya La Hán giáng cơ lối 1941-1946 tại Madagascar:
.........................

15. Đức Togo
giáng cơ bằng Pháp ngữ ngày 1-7-1934:


a) Ta có nhiệm vụ tới đây chuyển tới quí vị lời chào của nước Nhựt chúng ta và đặt lời cám ơn của ta về việc tôn giáo quang vinh của quí vị đã nâng cao tinh thần tương lai của toàn thể dân tộc ta.
(Có chữ Pháp ngữ dẫn giải phía dưới đây).

b) Hội nghị cuối cùng những quốc gia Đông Phương quyết định bải bỏ tất cả căn cứ hải quân của những cường quốc Âu Châu. Đông Dương sẽ ở những điểm chiến lược được nhắm tới, và dù muốn dù không nó phải được trả lại cho người Việt Nam.
(Có chữ Pháp ngữ dẫn giải phía dưới đây).


16. -Phan Sào Nam
giáng cơ ngày 13-4 Đinh Hợi (1957)

Bần Đạo đến đây là trả lời cốt yếu cuộc lễ hôm nọ và tỏ sự vui vẻ của nước Việt Nam đã được nổi danh cùng lân bang chủ quốc, mà nhứt là Cao Đài được lừng tiếng tung hô từ năm 1946 đến nay, các nước đều để ý. Hiện giờ sự tín nhiệm Cao Đài đối với các đảng phái thì được phần chú ý hơn. Vậy mọi sự hành trình chỉ một sự chơn thật là thắng hết các cơ quan trong cuộc đời đang tranh đấu.


17. - Tạ Thu Thân
nhập xác tại thành Tarascon (Pháp Quốc)
năm 1946 giữa 1.000 chiến sĩ Việt Nam .

-Ta nói cho các chiến sĩ rõ biết: Nếu vị nào có óc lập quốc thì phải về Tòa Thánh Tây Ninh mà hành sự, sau nầy mới được thành công. Còn đi nơi nào khác hơn chỉ làm cho chết, hay là đến chết mà thôi chớ không khi nào thành công được.

18. - Nguyễn An Ninh
nhập xác tại thành Thrascon (Pháp Quốc)
năm 1946 giữa 1.000 chiến sĩ Việt Nam.

-Duy tâm cách mạng vô hình còn dể hơn làm cách mạng hữu hình. Khi còn ở thế thì ta lo việc nước theo hữu hình, còn nay ta đã thác rồi thì ta cũng vẫn lo việc nước về mặt vô hình đó vậy.

19. - Bảo Đại
từ Hương Cảng viết thơ cho Đức Hộ Pháp
ngày 21-11-1946 có câu:

-Tôi mong rằng một ngày sắp tới, trong một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, tôi sẽ có dịp gặp Ngài để tỏ lòng luyến ái của tôi, và chào Ngài bằng những danh từ:

“Vị Giáo Chủ của một Đạo giáo hoàn toàn Việt Nam .
“Vị Lãnh Đạo sáng suốt, quyền lợi tương lai rực rỡ”.

20. - Duy Tân giáng cơ ngày 11-8 Ất Mùi (1955):

Mở lối nghĩa nhân quét sạch thù,
Qua vòng tân khổ quốc gia thu.
Cái gia khô cổ nay nhờ Đạo,
Về cõi Hư Linh cũng vận trù.


21. - Thành Thái giáng cơ ngày 11-8 Ất Mùi (1955):

Tách bước đồ lưu nhớ hận nhà,
Buồn cho thân thế trở về già.
Mong nhờ liệt sĩ toan trau sửa,
Đấp đếm non sông gấm vóc ta.


22. - Tự Đức

giáng cơ xưng Dực Tông Hoàng Đế ngày 12-1-1941 cho bài thi Trông Chồng điệu 20 vận, đọc 6 cách: Xuôi, ngược, bỏ 2 chữ đầu, bỏ 2 chữ cuối, đọc xuôi 5 chữ, đọc ngược 5 chữ.
Trông Chồng
Gương tà nguyệt khuyết đã ngoài song,
Hắc hẻo sao trông quá rất trông.
Thương bấy thiết tha lòng héo liễu,
Nhớ thôi vàng võ má phai hồng.
Vương sầu siết kể chi nguôi bắc,
Khổ tủi thêm buồn bã chạnh đông.
Chàng hỡi biết ai chăng bội bực,
Loan hàng viết thảo tỏ tình chung.