Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 26

Ðề tài: Truyện ma sưu tầm !

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định Truyện ma sưu tầm !

    1/ Ma đêm giao thừa !


    Câu chuyện xảy ra vào năm 1978, tại mật khu Dương Minh Châu, một địa danh thuộc ranh giới tỉnh Tây Ninh, Hậu Nghĩa, biên giới Cao Miên. Mật khu này, sau khi CS vào, được cải danh thành công trường Hồ Chứa Nước Dầu Tiếng, dưới quyền điều khiển của một cán bộ đảng viên trung kiên, danh xưng là chủ nhiệm công trường, đám công nhân ngụy chúng tôi thường gọi người cán bộ này là Chú Chín.
    Chú Chín, như đã nói, vốn là một cán bộ miền Nam tập kết, có nhiều tuổi đảng, chú là người sinh trưởng ở miền Nam nên dù đã tập kết và trở thành đảng viên trung kiên của CS, Chú Chín vẫn có phong thái chân chất, ngôn ngữ thật thà và duy tâm như hầu hết những người sanh trưởng ở miền Nam nước Việt.

    Tánh tình chú Chín nhân ái thâm trầm và, có một điều thật là lạ, cho dù chú đã đi tập kết, chiến đấu và sinh hoạt lâu năm như vậy trong hàng ngũ những người CS, Chú vẫn còn giữ được tánh nết nhu mì, biết thương người và đặc biệt hơn cả, Chú rất thương mến các anh chị em công nhân trong công trường làm việc dưới quyền điều động của chú, bất kể người công nhân đó thuộc thành phần con cái "ngụy quân ngụy quyền" bị trưng dụng đi làm thanh niên xung phong hay là những anh em cựu binh lính chế độ cũ như chúng tôi.

    Thái độ của chú Chính khác xa với bản chất kiêu binh hống hách, nói phét như cuội vốn là cá tánh của giai cấp lãnh đạo CS mà chúng tôi thường thấy. Cho nên, đám công nhân chúng tôi bớt cảm thấy mặc cảm và, cũng có khi để tâm tìm hiểu thêm về con người riêng tư của Chú Chín.

    Địa thế của công trường vốn dĩ là mật khu Dương Minh Châu trong thời chiến, nên nằm sâu tít trong rừng đèo heo hút gió, cây cối um tùm rậm rạp với rừng cỏ tranh che lấp đầu người. Có hai con đường độc đạo, quanh co nhỏ hẹp, nằm khuất trong đám cỏ tranh dành để đi bộ từ công trường ra tới xóm nhà dân cách khoảng chừng hai cây số với đầy rẫy những lỗ bom đào sâu dưới đất, miệng rộng như những cái ao khổng lồ. Người đi bộ nếu lỡ trượt chân rớt xuống, không có người trông thấy để tìm cách thả dây kéo lên thì xem như chết chắc vì khó lòng một mình người đó co ù thể tìm cách nắm được các nhúm cỏ tranh trơn tuột mà leo lên miệng hố cong vòng như cái lòng chảo sâu hoắm này.

    Đã có ít nhất vài ba lần, các công nhân cơ hữu thuộc đội lao động thanh niên xung phong, vào những buổi chiều chán ngán cơm hẩm cá thiu ở công trường, họ chịu khó đi bộ ra xóm nhà dân bỏ tiền túi ra để có những bữa cơm "cải thiện", thay thế cho những bữa ăn quá đỗi đạm bạc, chỉ có vài bát cơm hẩm trong khẩu phần ẩm thực với vài ba con cá khô mục hoặc nhúm rau xanh tự trồng với vài muỗng nước muối mặn chát thay thế cho món ăn mặn hàng ngày.

    Các anh chị em công nhân ở đây, phần lớn, là thành phần con cái chế độ cũ được Công Ty Xây Dựng Thủy Lợi 9 tọa lạc ở Thị Nghè điều lên vùng khỉ ho cò gáy này để tham gia lao động công trường. Công việc chung của họ là hàng ngày tiếng quân trên một con đường độc đạo khá rộng lớn, xe cộ có thể chạy qua lại được để tự khiêng những tảng đá khổng lồ do nhóm anh em tài xế chúng tôi lái những chiếc xe Liên Sô hiệu MA, xe ZIN ba số 5 lấy đá từ núi đá Biên Hòa hoặc Châu Thới chở về. Công việc thật là nhàm chán và nặng nhọc dưới ánh nắng thiêu đốt với từng cơn gió lốc phủ ngập đất đỏ thổi tới, bám lên những thân xác trẻ tuổi đầy hoa mộng còm cõi của họ hàng ngày.

    Chúng tôi, tuy cũng là công nhân, nhưng có điều may mắn hơn là được điều động đi làm phụ xế trên những chiếc xe Zin 3 con 5 hoặc những chiếc xe MA của Liên Sô vĩ đại, hàng ngày được đi ra khỏi công trường về Châu Thới lấy đá để chở về đổ trên con đường lớn này để hoàn thành qui hoạch một con lộ tiêu chuẩn nối liền công trường với các thị xã xa xôi lân cận.

    Nhờ được lái xe có giấy lệnh công tác của công trường do Chú Chín ký nhận, mỗi xe chúng tôi đều có trang bị súng ống cá nhân, có cán bộ chỉ đạo dẫn đầu mỗi lần đi công tác chở đá, nên nhóm anh em tài xế chúng tôi, từ tài xế chính (thường là những cán bộ, bộ đội) cho đến tài xế phụ là những người thuộc chế độ VNCH có chuyên môn cao như chúng tôi được tuyển dụng. Ngay từ những ngày đầu ra quân đi chở đá trên các tuyến đường thường lệ, tài xế chính, tài xế phụ chúng tôi dù có khác nhau về ý thức hệ hoặc danh xưng trong chế độ mới của VC, cũng đã rất "tâm đầu ý hợp" trên cả hai phương diện "làm tốt" công tác lẫn những "kỳ công" thu hoạch lợi nhuận trên các chuyến xe từ công trường đến nơi lấy đá bằng những chuyến buôn lậu có kế sách hẳn hòi.

    Lợi tức thường từ những chuyến xe trống, nhưng với nhiều cách che giấu tinh vi, chúng tôi lùng sục mua rẻ những mặt hàng lấy từ những con buôn từ vùng biên giới gồm nào là thịt, mỡ heo, củi, gạo, đường, sữa, thuốc lá, v.v... Thật là những con số lợi nhuận rất đáng ca ngợi và hoan hỉ đối với cách lái xe lương tháng vài chục bạc èo uột như chúng tôi.

    Từng bọc tiền lời kiếm được thường xuyên mỗi ngày đưa địa vị lao động của nhóm anh em tài xế chở đá chúng tôi đến một giai cấp tiền bạc rủng rỉnh đề huề, dù chỉ ngụy trang dưới một hình thức ngấm ngầm, hoàn toàn trái nghịch với bộ dạng lem nhem dầu mỡ, mồ hôi dầm dề trên những bộ quần áo bảo hộ lao động bạc phếch vì nắng cháy của đám lái xe chúng tôi. Lúc đã kiếm chác được khá nhiều tiền, chúng tôi cũng biết cách "xử lý" đúng điệu với Chú Chín chủ nhiệm công trường, anh phó chủ nhiệm, ban an ninh, đội bảo vệ... Tóm lại, kẻ nhiều người ít, tùy theo chức năng, tùy theo tình hình mà chia chác để giữ mối kiếm ăn lâu dài trong khi cả nước đang dần dần kéo nhau đi vào thời kỳ lang thang đói rách. Bọn công nhân chúng tôi thừa đủ kinh nghiệm khôn ngoan nên luôn luôn áp dụng cung cách ăn đồng chia đủ với tất cả mọi thành phần cán bộ viên chức thẩm quyền liên hệ, ngay cả các đội kiểm tra kinh tế trên các tuyến đường chúng tôi qua lại hàng ngày, chúng tôi cũng không quên đáp lại xứng đáng thái độ làm ngơ của "các đồng chí" mỗi lần nhận ra đoàn xe chở đá từ Công Trường Hồ Chứa Nước Dầu Tiếng hàng chục chiếc xe nối đuôi nhau chạy qua.

    Từ lúc có tiền rừng bạc bể trong tay, anh em tài xế chánh, tài xế phụ của chúng tôi cũng không quên những đứa em đứa cháu hiện là những công nhân lao động thuộc nhóm thanh niên tiên tiến của công trường. Điều mà chúng tôi không bao giờ xao lãng về đám thanh thiếu nữ trẻ này, là đa số họ thuộc con cái "ngụy quân ngụy quyền", vốn là những chiến hữu ruột thịt trước đây của chúng tôi. Gặp các em thường xuyên, nhìn các em từng ngày đốt tàn tuổi xuân trên từng viên đá thô nhám trĩu nặng, thân thể mỗi ngày thêm khô héo tàn tạ trong những mùa mưa nắng khắc nghiệt của công trường, lòng tự ái ngấm ngầm không thể bộc lộ của đám tàn binh thua cuộc, chúng tôi chỉ biết im lặng thương xót ngậm ngùi cho tuổi trẻ các em. Nên chi, chuyện cho các em quá giang xe ra khu xóm dân thị xã kiếm thêm những bữa cơm "cải thiện", hay dúi cho các em dăm ba trăm bạc tiền Hồ, các em nữ chút tiền mọn để chi tiêu cho những nhu cầu gương lược trang điểm của con gái là chuyện không có gì cần suy nghĩ của đám tài xế đội lốt "giác ngộ tốt" như chúng tôi.

    Các em cũng biết thân phận cam chịu những thua thiệt của hàng ngũ con cháu "ngụy quân ngụy quyền" bằng cách ngấm ngầm liên kết với nhau, gắn bó và chia xẻ nhau tất cả những tâm tư tình cảm tự nhiên nhất của tuổi trẻ. Các em âm thầm chịu đựng những tháng ngày lầm than ở công trường, bên ngoài không hé răng tỏ lộ một lời than van thống trách nhưng bên trong thì sùng sục lửa căm hờn. Rất ý hợp tâm đầu, các em tự biết, đám tài xế phụ chúng tôi tự biết. Chúng tôi kín đáo trao đổi và ngấm ngầm bảo vệ và cảm thông lẫn nhau. Trong số các em, có một cặp nam nữ trẻ tuổi mà tôi biết rõ tông tích, lý lịch. Đứa con trai trên Trần Mạnh Hùng, con của một sĩ quan VNCH cao cấp, thân phụ của Hùng, dĩ nhiên đã lên đường đi cải tạo "10 ngày" chưa thấy dạng trở về sau 2 năm 2 tháng. Đứa con gái, chỉ cần nhìn qua dáng dấp đích thị là một tiểu thư với tấm thân mình hạc xương mai, khuôn mặt bầu bĩnh thông minh đôn hậu như ánh trăng rằm. Bảo Quỳnh là tên đứa con gái, cựu nữ sinh Gia Long học giỏi, đàn dương cầm lại rất hay.

    Bảo Quỳnh và Mạnh Hùng là cặp thanh niên trẻ tuổi và thầm lặng nhất của công trường. Họ yêu thương nhau, quấn quít bên nhau như bóng với hình đêm ngày sát cạnh, bất chấp những giáo điều lệnh lạc do chỉ thị của Đoàn của Đảng. Họ sống lủi thủi và lao động bên nhau cho đến một hôm công trường rộn rã lao xao về sự vắng mặt trong buổi điểm danh sáng của Bảo Quỳnh. Mạnh Hùng thì thần sắc như kẻ mất hồn. Em không thể trả lời trước ban Chủ Nhiệm về sự vắng mặt của cô bạn gái hiền lành xinh đẹp trong khi mọi người đều xác nhận chiều ngày hôm trước, hai người còn dẫn nhau đi bộ ra quán bà Tư Thái ngoài thị xã ăn cơm với đĩa dưa cải chua và 2 cánh gà rồi cùng dẫn nhau trở về công trường vào lúc trời vừa nhá nhem tối, có cơn mưa lất phất đầu mùa. Đám thanh niên trẻ đều khẳng định chính mắt họ nhìn thấy hai người ra khỏi nhà bà Tư Thái, trở về công trường theo con đường nhỏ quanh co dưới đám cỏ tranh rậm rạp. Lúc bấy giờ, trời còn tranh tối tranh sáng, nhưng đã không nhìn rõ bóng người, nếu người đi sau cách người đi trước chỉ trong dăm mười thước ngắn ngủi.

    Vậy, Bảo Quỳnh đã thất lạc ở đâu? Trong khi Mạnh Quỳnh đã trở về được đến công trường đến sáng hôm nay, tự nhiên hóa thành người không còn thần trí?

    Đến nước này chú Chín, Chủ nhiệm công trường đã không còn giữ yên lặng, ông ban hành một thông báo, trong đó, chú có lập lại những điều như trước đây chú đã từng căn dặn đám thanh niên:

    - Bây đi đâu thì đi tao không ngăn cản. Nhưng phải nhớ trở lại công trường trước khi trời tối. Trong đêm, nếu phải đi vệ sinh thì phải vào nhà xí, không được đi bừa bãi ngoài hàng rào quanh công trường kẻo ma nó dẫn đi trong đêm thì ráng chịu, tao không có cách gỡ. Tưởng chú Chín đem ma ra làm chỉ thị dọa những đứa nhát gan theo lệ thường. Nào dè, cho đến hôm nay, Bảo Quỳnh tư nhiên biến mất, chú Chín mới tiết lộ cho đám tài xế chúng tôi biết như sau:

    - Bảo Quỳnh mất tích chắc có lý do. Tao biết rõ lý do đó, nếu tao đoán không sai. Kể từ nay, đội thanh niên phải tuyệt đối chấp hành lệnh công trường, không được đi đứng bậy bạ trong đêm. Vùng đất này, tao đã từng sống trong thời chiến, tao biết quá rõ, ma quỷ lền khên không ngán chi người phàm. Chuyện bắt người trong đêm tối, dẫn sâu vào rừng sâu cho ăn toàn đất đá, vài ngày sau chỉ còn cái xác lạnh là chuyện đã từng xảy ra. Dạo chiến tranh còn, thiếu chi bọn lính cái đã xui xẻo bị ma dẫn đi cho ăn toàn đất đá, lúc tìm được đem về thì đã thành con ma dại, dở tỉnh dở mê không ra cái giống gì! Tao cá với bọn mày con Bảo Quỳnh là một sự tái diễn, nếu mình không phân tán thành nhiều toán đi lùng kiếm thì chỉ nội nhật hôm nay nó sẽ trở thành cái xác không hồn.

    Nhìn khuôn mặt khắc khổ đầy trang nghiêm của chú Chín, nhóm tài xế chúng tôi bắt buộc phải tin những điều chú vừa nói là sự thật. Nghĩ đến đây, tóc gáy chúng tôi dựng đứng, mặt mũi người nào cũng thất sắc y như bị gặp ma.

    Theo lệnh, chúng tôi đội tài xế gồm mười mấy chiếc xe của công trường chia nhau đi mỗi xe mỗi hướng. Phía sau thùng xe trống là các thanh niên xung phong. Chúng tôi rời công trường trong cái se lạnh của những ngày tháng cuối năm. Mặt trời mới vừa chớm khỏi những ngọn cây cao rải rác đó đây trong rừng, sương đêm còn đọng đầy trên từng cành cây bụi lá.

    Sau nửa giờ lái xe len lỏi qua những tàn cây cao, che kín bởi đám cỏ tranh và phải lái thật khéo và tinh tế để tránh xe rơi xuống các hố bom sâu bị che kín bởi lá cây che lấp lâu ngày, xe chúng tôi ra khỏi đám cây cao um tùm ẩm thấp, nhìn thấy cả một cánh đồng cỏ hoang dưới nắng cháy của những ngày cuối năm.

    Trước mắt chúng tôi hiện ra một hình ảnh kinh hoàng không phải trong đêm thâu u tối mà ngay giữa thanh niên bạch nhật có hàng chục con mắt chứng kiến: thân xác của Bảo Quỳnh nằm bất động trong một vũng nước lầy, quần áo tả tơi rách nát để lộ ra một thân thể lõa lồ với mảnh lưng trần trắng xanh như màu bạch ngọc đang ngả sang màu tái của xác chết không hồn. Chúng tôi thận trọng cầm súng xuống xe, từng bước tiến đến chỗ Bảo Quỳnh đang nằm bất động. Chú Chín đã đoán không sai.

    Bảo Quỳnh đã bị ma đất trong rừng dẫn đi trong đêm tối, nó dẫn cô gái đáng thương này đi ngay trong cơn khiếp sợ mê sảng của Mạnh Hùng nên cho dù hai người có đang cùng đi chung, bị tách ra, Mạnh Hùng vẫn không còn tỉnh táo để chống lại ý muốn của loài ma rừng độc địa hòng cứu lấy cô bạn gái đáng thương. Ma rừng sai khiến bước chân không hồn của cô gái đi càng sâu vào rừng bao nhiều càng tốt, sau đó, ma đất xúi bẩy cô gái tự cào đất nhét kín vào mồm và nuốt vào cổ họng giống như người ăn xôi bắp cho đến khi đất ướt dẻo đọng kín cổ họng, không thở được nữa thì chết luôn. Nhưng sự độc địa của loài ma rừng này không phải chỉ có vậy. Trước cái chết kinh dị của người nữ công nhân vắn số và trẻ tuổi này, nàng sẽ trở thành một loại hồn ma linh thiêng và cực kỳ tàn nhẫn. Có nghĩa là hồn ma Bảo Quỳnh sẽ có ngày hiện về để gieo rắc thêm những cái chết khác nếu hồn ma còn vương vấn duyên nợ với bất cứ ai khi còn sống, hồn ma còn nặng nghĩa ân tình. Vậy ai sẽ là người phải nhận chịu số phận xui rủi này nếu không phải là Mạnh Hùng, vốn là người khi còn sống, Bảo Quỳnh đã tin yêu và vô cùng thương nhớ?

    Chú Chín chủ nhiệm công trường, dù là một cán bộ trung kiên vô thần của đảng CS cũng lộ vẻ thất kinh khi nhận báo cáo đầu tiên của nhóm tìm kiếm báo về cái chết hiển nhiên của Bảo Quỳnh. Việc đầu tiên chú quyết định là, ngay lập tức, xin lệnh điều Mạnh Hùng về công tác ở thành phố để hòng cứu lấy sinh mạng của em vì chú dám đoan chắc hồn ma Bảo Quỳnh sẽ có lúc trở về lấy mạng của Mạnh Hùng, phải chết chung như số phận của Bảo Quỳnh.

    Hôm đó là ngày 29 tháng Chạp. Những công nhân được hưởng đặc ân về nhà ăn tết đã được cấp giấy phép và được đội vận chuyển chở ra quốc lộ đón xe về vui xuân với gia đình. Công trường chỉ còn lại số ít cán bộ công nhân phải ở lại, chờ đợt đi phép thứ hai, sau tết. Nhưng, chú cũng không thể chờ đợi lâu hơn. Một mặt chú cho báo tin khẩn cấp cho thân nhân Bảo Quỳnh lên công trường nhận xác, mặt khác chú điện khẩn cấp về trung ương để xin quyết định cho Mạnh Hùng được sớm rời khỏi công trường.

    Nhưng trời không chiều lòng người. Thủ Trưởng ở trung ương của Công Ty Xây Dựng Thủy Lợi 9 đã về quê tận Quảng Ninh ăn tết, nên đề nghị của Chủ nhiệm công trường Hồ Chứa Nước Dầu Tiếng đành phải đợi đến ngày ông thủ trưởng lớn hơn trở lại nhiệm sở mới có thể giải quyết. Vì vậy, Mạnh Hùng, dù chỉ cần đợi cho qua mấy ngày tết ngắn ngủi, cũng phải ở lại đón xuân hiu quạnh ở công trường với tâm trạng buồn đau thương nhớ cô bạn gái khi xưa.

    Buổi chiều cuối năm nơi công trường đèo heo hút gió thật quạnh quẽ thê lương. Chú Chín ở miết trong phòng với vợ con nghe đài phát những bài hát đón xuân buồn thê thiết. Dưới hai dãy nhà ở của công nhân cũng lặng lẽ không một bóng người. Đội vận tải, với những chiếc xe ZIN, xe MA đã được bảo quản, lau chùi sạch sẽ nằm thẳng lớp im lìm, đám công nhân tài xế, phần đi phép, phần lẻn ra xóm nhà dân vui xuân nên công trường cũng chẳng có bóng dáng một ai.

    Tôi và xế chính Nguyễn Văn Sinh làm sao chịu thấu cái quạnh quẽ của những giây phút giao mùa, bèn rủ nhau cuốc bộ ra nhà bà Tư Thái làm một bữa chén cuối năm say bí tỉ cần câu.

    Hai chúng tôi, một cách mạng trái mùa, một tên lính thua trận, khoác lấy tay nhau, ngả nghiêng bước, chìm khuất trong đám cỏ tranh tối tăm tịch mịch, trở lại công trường với những cảm xúc hư không trống rỗng, không nghĩ gì tới những giờ phút còn lại của lúc giao mùa.

    Bỗng nhiên, Sinh nghêu ngao cất cao một bài hát.... "Nếu mai không nở, tao đâu biết xuân về hay chưa..." Phải vậy không mày?. Rồi Sinh phá ra cười trong đêm tối, giữa cái rùng rợn của đêm trừ tịch trong đám cỏ tranh. Quá nửa khuya, tức là qua giao thừa, chúng tôi đang say ngủ, bỗng bàng hoàng thức giấc sau những tiếng la thất thanh vọng đến từ dãy nhà công nhân. Những cái đèn màu vàng ệch được bật sáng khắp nơi. Chúng tôi vội vã chạy về phía có tiếng thét gào ban nãy. Mạnh Hùng nằm chết tự lúc nào, xác vắt ngang ngưỡng cửa, tay chân mồm miệng dính đầy đất cát giống hệt như kiểu chết oan khiên của Bảo Quỳnh.

    Thế là những kinh nghiệm ghê gớm về loại ma rừng của Chú Chín cùng những gì chú dự liệu đã xảy ra đúng như lời chú nói. Chỉ có điều là chú không thể chạy kịp được với thời gian để cố cứu mạng cho Mạnh Hùng. Phải chăng, đó là tại số mệnh. Số mệnh oan nghiệt của hai người trẻ tuổi thua cuộc vì trận chiến cha ông, vì họ đã yêu nhau đến chết cũng phải chịu chung nỗi ngậm ngùi?

    Chú Chín buồn bã nhìn xác Mạnh Hùng, miệng lẩm bẩm:

    - Mẹ! Đã biết mà không làm gì kịp.

    Rõ ràng Bảo Quỳnh đã hóa thành loài ma đất, trở về công trường để biến thành con ma nữ đêm giao thừa để bắt hồn Mạnh Hùng phải cùng đi với em sang bên kia thế giới cho trọn nghĩa yêu đương, theo như thói quen của loài ma đất.

    oOo
    xin Mẹ rủ lòng thuơng xót linh hồn Phaolo Trần Bình Nguyên rose4

  2. #2

    Mặc định

    Đánh dấu khuya đọc :D
    NHẪN!!!!!!!!!!!!!!

  3. #3

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi scorpio_89 Xem Bài Gởi
    Đánh dấu khuya đọc :D
    Chị cũng chưa kịp đọc , thấy hay copy về trước :tongue:
    xin Mẹ rủ lòng thuơng xót linh hồn Phaolo Trần Bình Nguyên rose4

  4. #4
    Lục Đẳng Avatar của kiếp mù lòa
    Gia nhập
    Oct 2010
    Nơi cư ngụ
    hoa quả sơn
    Bài gởi
    21,931

    Mặc định

    chà chà ma quỷ lộng hành ghê quá,dám làm trái ý trời...
    haiz...........................

  5. #5

    Mặc định

    2- Mặt quỷ


    Một buổi tối cách đây khoảng hơn nửa thế kỷ, ba chàng thanh niên bước vào nghỉ tạm trong một căn nhà gỗ nhỏ cũ kỹ giữa núi rừng Việt Bắc. Trong cái lạnh cóng người, họ co ro ngồi sưởi quanh ngọn lửa. Bên ngoài những cơn gió đang thét gào qua khe núi, thỉnh thoảng một con chó rừng lại hú lên ghê rợn.
    Họ là ba người bạn thân từ thuở nhỏ, cùng lớn lên giữa những câu chuyện phiêu lưu, tìm vàng, thần giữ của v...v..., và bị thúc đẩy, một phần vì óc tò mò, ưa thử thách của tuổi trẻ, một phần vì giấc mơ làm giầu tắt, từ gần một năm qua đã cùng nhau chia xẻ niềm hy vọng cũng như tuyệt vọng của việc tìm vàng.

    Đêm nay là đêm cuối cùng của họ trong chuyến đi thực hiện ước mợ Sáng sớm mai họ sẽ trở về thành phố kiếm việc làm vì cả ba không còn một xu dính túi.

    Bình, 30 tuổi, người lớn tuổi nhất trong bọn, chắc lưỡi:

    - Mấy con chó này sủa nghe ghê quá!

    Hoài, nhỏ hơn Bình 3 tuổi, chậm rãi nói:

    - Đêm nay chắc tụi nó vừa đói vừa lạnh. Tụi mình may mắn lắm mới tìm được căn nhà này để tạm trú chân.

    Hoài vừa dứt lời thì một tiếng chó tru rùng rợn nghe thật rõ như vượt lên tiếng gió gào. Tiếng tru thật gần khiến ba người đàn ông nhìn nhau lo lắng. Đức, người nhỏ tuổi nhất, càu nhàu:

    - Hồi chiều tôi đã nói là đừng vào đây rồi mà!

    Khi thấy cả Bình lẫn Hoài không trả lời, Đức nói tiếp:

    - Mấy ông đâu có biết tại sao thiên hạ không chịu ở đây. Nếu họ bỏ đi, chắc phải có lý do chứ.

    Hoài nằm xuống, vừa kéo tấm mền lên tận cổ vừa nói:

    - Nếu ông không thích nằm trong này, và nếu muốn, ông cứ tự nhiên ra ngoài ngủ với lũ chó rừng. Tụi tôi không cản ông đâu.

    Ngọn lửa vẫn cháy bập bùng trong lúc cả Bình lẫn Đức cũng nằm xuống đắp mền, khởi sự đi vào giấc ngủ. Một lúc sau, trong căn nhà gỗ hoàn toàn vắng lặng chỉ còn những tiếng ngáy đều đều của ba người đàn ông. Bên ngoài, những cơn gió vẫn tiếp tục thét gào trên các mỏm núi, dưới lòng thung lũng trong khi những tiếng tru ghê rợn thỉnh thoảng lại vang lên.

    Vào khoảng nửa đêm, đang ngủ không biết tại sao đột nhiên Hoài giật mình thức giấc. Chàng cố nghĩ xem mình đang ở đâu. Trong căn nhà gỗ giữa rừng? Đúng, căn nhà gỗ... nhưng cái gì khiến chàng giật mình thức giấc? Hoài nằm yên, nhắm mắt tập trung tư tưởng. Rồi chàng nghe thấy... tiếng thở. Tiếng thở dồn dập đầy vẻ kích thích.

    Hoài mở mắt nhìn quanh. Khi nhìn qua phía bên kia đống lửa nơi Bình đang nằm ngủ say sưa, Hoài chợt thấy toàn thân lạnh buốt. Phía trên khuôn mặt của Bình khoảng một thước là một khuôn mặt đàn bà gớm ghiếc, tóc dựng đứng, da mặt sần sùi nứt nẻ, đôi mắt vàng khè và đôi môi đỏ như máu đang lượn lờ.

    Hoài chớp mắt mấy cái nhìn thật kỹ. Chỉ có khuôn mặt, không thân mình, không chân tay!

    Trong khi Hoài chưa biết phải làm sao thì khuôn mặt ngưng lại, đôi môi đỏ loét mở ra để lộ hai cái răng nanh nhọn hoắt trước khi từ từ cúi xuống trên khuôn mặt đang say ngủ của Bình.

    Trước cảnh tượng hãi hùng đó, Hoài hét lên:

    - Bình, Bình. Dậy ngay, dậy ngay.

    Tiếng la thất thanh của Hoài khiến khuôn mặt đàn bà ngưng lại liếc nhìn Hoài bằng ánh mắt ma quái khiến toàn thân Hoài nổi ốc.

    Nghe tiếng la khẩn cấp của Hoài, Bình bừng tỉnh. Nhưng khi Bình vừa mở mắt thì khuôn mặt đàn bà gớm ghiếc đã hạ xuống chỉ còn cách mặt Bình chừng hai tấc, đôi môi đỏ như máu mở ra thở phì phò vào mặt Bình khiến Bình kinh hoàng đến bất động.

    Khi khuôn mặt ma quái xuống thấp hơn nữa và đôi môi máu mở ra để lộ hàm răng lởm chởm với hai cái răng nanh nhọn hoắt, Bình mở miệng la hét hãi hùng. Khuôn mặt ma bèn thở một luồng hơi thật dài vào miệng đang há hốc của Bình khiến tiếng la của Bình đột nhiên tắt nghẹn và đầu Bình lả sang một bên. Đúng lúc đó khuôn mặt ma quái biến mất.

    Hoài là người không tin ma quỉ, nhưng những gì xẩy ra trước mắt khiến chàng không còn suy nghĩ gì được nữa. Hoài ngồi bật dậy, lấy tay vỗ mạnh vào người Đức la lớn "dậy, dậy" trước khi chạy sang phía bên kia ngọn lửa nâng đầu Bình lên. Bình đã tắt thở.

    Chân tay rụng rời, Hoài run rẩy nói với Đức, lúc này tuy đã thức nhưng vẫn nằm yên:

    - Đức, đi ngay, đi ngay... Tụi mình phải đi khỏi nơi này lập tức... Bình... Bình chết rồi... Một khuôn mặt ma quái... khủng khiếp... tôi không tin là có ma, nhưng... tôi không biết...

    Đức vươn vai nhìn Hoài với ánh mắt chế diễu:

    - Ông điên rồi hay sao? Bộ ông...

    Nhưng Đức lập tức nín bặt khi nhận thấy những gì Hoài nói là sự thực vì ngay phía trên của Đức khoảng một thước, khuôn mặt đàn bà gớm ghiếc lại xuất hiện vật vờ, và trong căn nhà gỗ nhỏ ọp ẹp hôi hám lại tràn ngập những tiếng thở dồn dập khiến toàn thân Đức như tê liệt.

    ở bên này, khi thấy khuôn mặt ma quái từ từ hạ xuống, đôi môi đỏ như máu từ từ mở ra, Hoài vội gào lên:

    - Đức, ngậm miệng lại, ngậm chặt miệng lại.

    Nhưng đã trễ mất rồi vì sự khủng khiếp khiến Đức như bừng tỉnh, há miệng gào lên hãi hùng.

    Cũng như đối với Bình, khuôn mặt đàn bà già nua ma quái lại thở một hơi dài vào miệng Đức và Hoài thấy mặt Đức xám lại trước khi ngả vật đầu sang một bên bất động.

    Cũng như lần trước, khuôn mặt ma quái lại biến mất như không hề hiện hữu.

    Biết là Đức đã chết, Hoài run rẩy trở lại chỗ nằm của mình, chụp lấy cây súng bước vội ra cửa, không còn nghĩ tới cảnh rừng tăm tối với những tiếng chó tru đầy đe dọa.

    Khi chàng chỉ còn cách cánh cửa chừng hai thước, một tiếng chó rừng tru lên thật gần khiến Hoài đứng khựng lại, đúng lúc một cơn gió rít lên làm rung chuyển cả căn nhà gỗ.

    Hoài vừa toan bước tới thì khuôn mặt đàn bà khủng khiếp lại lờ mờ hiện trên cánh cửa, mỗi lúc một rõ dần, đôi mắt vàng khè nhìn thẳng vào mắt Hoài như thôi miên trong khi khuôn mặt nhăn nheo sần sùi và đôi môi đỏ như máu kết hợp lại thành một nụ cười ma quái khiến chàng bất động.

    Rồi cả căn phòng gỗ nhỏ lại tràn ngập những tiếng thở dồn dập đầy kích động. Hoài cảm thấy làn hơi thở nóng bỏng của khuôn mặt ma quái phủ kín mặt chàng khiến chàng như ngộp thở.

    Hoài cố thở ra thật mạnh nhưng không được trong khi khuôn mặt ma quái mỗi lúc một gần hơn. Trong một giây, Hoài nghĩ tới Bình và Đức và cố không mở miệng. Khi ngực chàng như muốn nổ tung và khuôn mặt nhăn nheo sần sùi méo mó chỉ còn cách chàng chừng một thước, không biết nhờ một sức mạnh siêu nhiên nào thúc đẩy, Hoài nâng cây súng lên bắn thẳng vào khuôn mặt đàn bà ma quái.

    Một tiếng nổ chát chúa vang lên. Khuôn mặt vụt biến mất và Hoài nghe như có tiếng gào la đau đớn. Không thể ở lại trong căn nhà gỗ với hai xác chết và với một khuôn mặt ma quái có thể hiện lên bất cứ lúc nào, Hoài đẩy tung cánh cửa, lao mình vào đêm tối, chạy bán mạng giữa núi rừng.

    Hoài chạy tới khi phổi chàng như muốn bùng cháy, nhưng tiếng thở dồn dập của chính chàng khiến chàng có cảm tưởng như tiếng thở của khuôn mặt ma quái vẫn đeo sát. Không dám ngưng lại, Hoài tiếp tục chạy mãi cho tới khi ra tới bìa rừng thì trời đã tờ mờ sáng. Tới lúc đó, Hoài mới dám ngừng lại, nằm vật xuống bãi cỏ thở dồn dập, đầu óc choáng váng gần như ngất xỉu. Nằm nghỉ không biết bao lâu, Hoài mới cảm thấy đỡ mệt và đầu óc mới sáng suốt trở lại.

    Nghĩ tới cái chết của Bình và Đức, Hoài vô cùng lo sợ vì khi hai tử thi này được tìm thấy, chắc chắn sẽ không ai tin rằng họ bị khuôn mặt ma quái giết hại mà người ta sẽ cho rằng chính chàng đã giết bạn để lấy vàng. Hoài cảm thấy chỉ có một cách duy nhất là phải đi khỏi khu vực này thật xa, hoặc nếu về được tới thành phố thì tốt nhất, trước khi hai tử thi được tìm thấy.

    Quyết định rồi, Hoài ném cây súng xuống một thung lũng sâu bên rừng rồi vội vã chạy dọc theo con đường mòn bên bìa rừng hướng về tỉnh lộ. Ra tới đường lớn, Hoài đi chậm lại.

    Khoảng nửa tiếng sau, nghe tiếng xe hơi từ phía sau vọng lại, Hoài đứng lại chờ. Từ phía xa, một chiếc xe đò hiệu Ford Canada tám chỗ ngồi lọc cọc chạy tới. Thấy Hoài giơ tay vẫy, bác tài ngưng lại la lớn:

    - Nhảy lên đi, còn nhiều chỗ lắm.

    Hoài mở cửa nhảy lên băng sau và khi xe chạy chàng mới nhận thấy ở cuối băng là một thiếu nữ trẻ đẹp đã ngồi từ trước. Máu đàn ông lại chạy rần rật trong huyết quản khiến Hoài thầm nghĩ rằng chàng thật là may mắn, vừa trốn thoát khuôn mặt khủng khiếp của mụ già ma quái thì lại gặp ngay một thiếu nữ yêu kiều. Hoài cúi đầu chào và thiếu nữ cũng mỉm cười e lệ đáp lễ.

    Những cảm giác hãi hùng cũng như sự mệt mỏi lần lần tan biến, Hoài bắt đầu cảm thấy dễ chịu và chàng ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

    Một lúc sau Hoài đột nhiên giật mình tỉnh dậy. Tim chàng đập thật nhanh. Trong vài giây, chàng không biết mình ở đâu. Trên chiếc xe đò? Đúng! Nhưng cái gì khiến chàng thức giấc? Và chàng nghe thấy... tiếng thở!

    Tiếng thở dồn dập đầy khích động khiến Hoài ngước nhìn thiếu nữ. Nàng đang nhìn chàng và đôi môi đỏ mọng của nàng dường như đang mở ra khép lại theo nhịp thở. Hoài cảm thấy như muốn ngộp thở khi nghĩ tới Bình và Đức. Chàng nhìn thiếu nữ trừng trừng trong khi cố ngồi nép mình vào cửa xe.

    Hơi thở của cô gái với đôi môi đỏ như máu dường như mỗi lúc một dồn dập hơn, một đe dọa hơn khiến Hoài vội liếc ra cửa sổ. Chiếc xe đang chạy trên sườn núi và phía cửa Hoài ngồi sát bên bờ vực.

    Hoài quay nhìn thiếu nữ. Nàng vẫn chăm chú nhìn chàng. Hơi thở của nàng dồn dập hơn và cả chiếc xe dường như tràn ngập hơi thở nóng bỏng của nàng. Hoài rên rỉ:

    - Không... không...

    Rồi gục đầu xuống. Thiếu nữ từ từ nhích tới gần chàng, cất tiếng hỏi với giọng lo lắng:

    - Ông, ông có sao không?

    Hoài co dúm người lại sát cửa xe khi khuôn mặt thiếu nữ mỗi lúc một gần hơn.

    Khi nàng đưa tay lên rờ trán Hoài, chàng cảm thấy hơi thở của nàng như phà vào mặt chàng. Hoài gào lên một tiếng não nùng, mở tung cửa xe, phóng vụt ra ngoài, bay xuống vực thẳm...

    oOo
    xin Mẹ rủ lòng thuơng xót linh hồn Phaolo Trần Bình Nguyên rose4

  6. #6

    Mặc định

    3 - Chương Tất


    Chương Tất là người huyện Trấn Phiên, tỉnh Thiểm Tây. Gia đình đã nhiều đời cư trú tại Thủy Ma Quan. Lúc chàng còn trẻ rất là dũng mãnh, hào sảng, lực lưỡng chẳng khác gì những người mục miền Bắc. Năm mười bảy mười tám tuổi, Chương đã dám vác cung một mình vào Bắc Sơn để bắn thỏ rừng, gà rừng.
    Một hôm gặp lúc trời chiều, bóng ác đã ngả về Tây, mà đường về nhà ít nữa cũng xa vài chục dặm, khó có thể về kịp, Chương bèn quyết định ở lại trong núi. nằm dưới vách đá, đánh một giấc thật say. Đến nửa đêm, Chương bỗng tỉnh dậy, cảm thấy như có người đang lấy tay vuốt ve sờ lần hai bên má chàng. Chàng mở bừng mắt ra nhìn, dưới ánh trăng lờ mờ yếu ớt, hình như có một người nằm bên cạnh. Chương ngồi bật dậy, túm chặt lấy tay người ấy xem là ai. Té ra đó là một người con gái rất đẹp. Cô ả nằm nghiêng mình ra tận bãi cỏ đầy sương, miệng nỉ non kêu, tưởng chừng như cánh tay của ả bị Chương vặn quá mạnh, đau đớn đến nỗi chịu không nổi.

    Chương cảm thấy thương hại, buông tay ả ra. Lập tức ả ngồi dậy, từ từ chỉnh lại áo quần. Lúc đó, Chương mới thấy thật rõ được diện mạo nhan sắc của ả. Quả đáng là một tuyệt thế giai nhân.

    Chương lên tiếng hỏi:

    - Nửa đêm khuya khoắt, cô em một mình bé bỏng, vì sao lại lạc vào chốn hoang sơn dã lãnh thế này?

    Ả đáp:

    - Nhà em ở cũng không xa, chỉ cách một dặm đường thôi, vô tình theo bóng trăng tản bộ đến đây, thấy có người ngủ say, thì đùa vui một chút, làm gì mà lỗ mãng quá vậy

    Chương nói:

    - Đùa thì đùa chứ, sao lại vuốt má người ta.

    Ả bị Chương hỏi vặn không trả lời được, chỉ cúi đầu nhìn xuống đất, lặng thinh không nói. Thái độ thẹn thùng bẽn lẽn thật là khả ái của ả, khiến cho Chương lập tức lòng tà bốc hỏa, lửa dục như được gió Đông Ngô, mắt hoa, thần tán, không dằn lòng được, bèn tìm tới vồ lấy ả ôm vào lòng. Ả hết sức kháng cự, vừa vùng vằng vừa nói:

    - Em chả? Em chả! Nửa như thật, nửa như giả, âm thanh ngọt ngào nũng nịu.

    Giữa lúc hai người đang giằng co, thì con tỳ nữ đột ngột từ trong một con đường nhỏ ở trong núi đi ra, thở hổn hà hổn hển, sắc mặt vừa kinh ngạc vừa bực bội, giận dữ quát mắng:

    - Cái nhà anh kia, ở đâu đến đây mà lại dám bạo hành lôi kéo con gái người ta vậy.

    Chương đáp:

    - Cô ấy tự nhào vào lòng ta đấy chứ? Ta lẽ nào lại không biết giữ lễ với người đẹp.

    Đứa nữ tỳ phá ra cười lớn:

    - Đã bạo hành lại còn lẻo mép. Thôi cô ơi, mình đi thôi, hơi sức đâu mà cãi lý, về nghĩ ngơi cho khoẻ.

    Nói rồi nàng xốc nách người con gái đứng dậy dìu đi về hướng con đường nhỏ.

    Chương đang độ thanh xuân đa tình. không kiềm chế nổi, bèn lẳng lặng đi theo sau nữ lang và đứa tỳ nữ. Quanh co ngoắt ngoéo vượt qua một số sơn thạch lởm chởm, hang sâu vạn trượng. Chừng năm sáu dặm thì đến một khu rừng thông, thấy có vài ngôi nhà ngói cao lớn, chung quanh được rào cẩn mật bằng những hàng tre xanh. Khi nữ lang và đứa tỳ nữ đi vào trong nhà, Chương bèn vào theo Đứa tỳ nữ nghe thấy tiếng chân người, hồi ngoảnh lại, bắt gặp Chương. Nàng liền mỉa mai châm biếm:

    - Người đâu có thứ mặt dầy mày dạn, đêm hôm khuya khoắt vào nhà người ta, tính dở trò gì đấy?

    Nữ lang cũng vén tay áo lên che miệng, cười khe khẽ, phụ họa:

    - Xem chừng chẳng gian dâm thì cũng đạo tặc, chứ còn làm gì!

    Giọng nói nũng nịu, êm dịu khả ái của nàng, nghe như chim oanh hót mùa Xuân.

    Chương chắp tay hành lễ, vái chào nữ lang:

    - Tiểu sinh thất lỗi với quý nương, nén xin mạo muội để vai trần vào đây chuộc tội, nào đâu dám gian tay đạo gì?

    Tỳ nữ nói:

    - A thế thì có biết đối không?

    Chương hỏi lại:

    - Nếu như biết đối thì sao?

    Tỳ nữ:

    - Tiểu thư thiên sinh lệ chất, tuổi vừa hai tám, đơn thân cánh chiếc, muốn tìm người lan ngọc kết tóc xe tơ, nên việc gia thất đến nay còn chưa định. Nhưng tiểu thư có làm hai câu đối và thề rằng hễ ai đối được thì nguyện lấy làm rể đông sàng.

    Chương từ bé vốn ham chuộng võ nghệ, chữ nhất bẻ đôi không biết, nói chi đến việc làm câu đối, nhưng chàng lẽ nào để mất người đẹp, bèn cứ mạnh bạo đáp:

    - Xin cứ ra câu đối, biết đâu chẳng đối được.

    Tỳ nữ cười tủm tỉm nói:

    - Vậy ra cũng có ý muốn làm rể đông sàng rồi! thật là việc hay, xin tiểu thư cứ việc viết câu đối ra đi.

    Bấy giờ nữ lang bèn viết câu đối vào một tờ giấy hoa tiên, rồi đưa cho tỳ nữ trao cho Chương.

    Tỳ nữ lớn tiếng đọc:

    "Chức nữ tinh thần vĩnh tương khuê, thả nhất niên lưỡng hội."

    Nguyên ý nghĩa của câu đối là sao Chức Nữ bị cách ly vĩnh viễn, song một năm được gặp nhau hai lần. Sở dĩ Chức Nữ gặp nhau hai lần là vì đó là năm nhuận có hai tháng Bảy.

    Căn bản Chương chẳng hiểu rõ gì về câu đối, nên có ý xấu hổ, mặt bừng đỏ như lửa đốt, rồi không thể chịu nổi, đưa mắt nhìn tỳ nữ ra dấu cầu cứu.

    Tỳ nữ hiểu ý Chương, kín đáo khẽ nhắc khéo cho Chương:

    "Lê hoa nguyệt ngọ thường độc tọa, mỗi bán dạ tam canh."

    Chương nhắc lại lời tỳ nữ nhưng chỉ được nửa câu là ấp a ấp úng, như đàn đứt giây không đọc được tiếp, lại còn sai mất hai chữ.

    Tỳ nữ không nhịn được cười, vội vã lấy tay áo lên che miệng. Nữ lang cũng tủm tỉm cười, nói:

    - Đây hẳn là con tỳ nữ này chỉ bậy rồi!

    Tỳ nữ đáp:

    - Người ta đã ngọng líu ngọng lô, lại không phải học trò, xin tiểu thư miễn thứ phần nào.

    Nữ lang bèn nghe lời tỳ nữ, lưu giữ Chương lại khuê phòng, cùng chàng chung chăn gối, ân ái mặn nồng. Lại tiếc đã chẳng gặp nhau sớm hơn.

    Nữ lang tặng Chương một chiếc kim xuyến, còn Chương tặng lại nàng một chiếc ngọc quyết để đeo giữ bên người.

    Nữ lang thông minh một cách đặc biệt, nhưng chỉ phải cái tính tham ăn kinh người, nhất là thịt thú vật thì phải bằng hai người lực lưỡng, và cho dù đã no kềnh bụng mà thịt dư của người khác ăn rồi lại, nàng đều đánh tuốt.

    Chương yêu say cái nhan sắc diễm kiều của nàng, nên cũng chẳng hề lấy làm kỳ lạ. Mỗi khi đi săn về, thịt thú vật Chương thường dành cho nàng phần lớn để cho nàng vui lòng.

    Nữ lang và tỳ nữ cứ cách một ngày lại ra đi một lần, mãi đến lúc tối trời mới trở về. Chương có hỏi thì nàng chỉ đáp:

    - Thiếp có người chị góa chồng cư trú một mình ở Đại Hoàng Sơn, đơn thân độc chiếc, rất đáng thương, nên thiếp thường phải đến thăm nom hỏi han chút đỉnh.

    Chương nghe nói đến Đại Hoàng Sơn thì sợ hãi thất sắc nói:

    - Đại Hoàng Sơn là hang ổ của loài chồn sói, vì sao khanh thỉnh thoảng lại đi đến đó, mà tới chiều mới về. không sợ chồn sói nó ăn thịt hay sao?

    Nữ lang chỉ lặng im không đáp, cứ đi về như cũ khiến cho Chương thập phần lo lắng, lại e nàng có ngoại tình, xin được cùng nàng cùng đi. Nhưng nữ lang cương quyết cự tuyệt.

    Chương bảo thầm trong bụng, sói tuy là giống vật giảo hoạt, nhưng tham ăn, gặp thức ăn là ăn liền.

    Trên người chàng thường sẵn có một túi hạt mộc có độc tính rất nặng, chàng bèn đem trộn với thịt dê nướng rồi đem bỏ ra ngoài sơn lộ, suốt từ Bắc Sơn đến Đại Hoàng Sơn, khoảng chừng mười hai chỗ, nhưng mong có thể giết được sói để bảo vệ cho vợ. Một hôm nữ lang cùng tỳ nữ ra đi, nhưng suốt đêm Chương không thấy nàng trở về, trong lòng lo lắng không sao chợp được mắt, cứ ngồi trông ngóng. Mãi đến lúc trời đã rạng sáng vẫn chưa thấy bóng nữ lang và tỳ nữ.

    Chương càng thêm bối rối kinh hoàng, bèn sách cung tên vào núi Đại Hoàng Sơn. Nửa đường, chàng gặp hai cái xác sói nằm chết trong một bụi cỏ. Những miếng thịt dê tẩm độc của chàng chưa bị sói ăn hết. Chàng cho là mình đã giết được hai con sói ấy, nên kéo xác chúng bỏ vào trong rừng.

    Chính lúc Chương ngẩng đầu lên nhìn thì thấy hai bộ quần áo đàn bà phất phơ trên một cành cây. Chàng nhận ra đó là chính là bộ y phục của nữ lang và đứa tỳ nữ lòng rụng rời sợ hãi, đầu toát mồ hôi lạnh. Chương kéo những bộ quần áo ấy xuống để xem xét lại cho kỹ, bỗng nghe có vật rơi vào đá đánh "keng"một tiếng.

    Chàng cầm lên coi, thì ra chiếc ngọc quyết mà chàng đã tặng cho nữ lang lúc buổi đau gặp gỡ, lại càng khiến

    Chương kinh hoàng thêm, vội vã thu thập quay trở về nhà. Về đến chốn cũ thì nhà cao cửa rộng đều biến đâu mất. Chỗ Chương và nữ lang chung sống té ra chỉ là một cái hang sói, nước chảy chung quanh, hoang sơn u tịch, cỏ cây tiêu điều.

    Bấy giờ chàng mới biết rõ là người tình của chàng chỉ là con sói cái thành tinh mà ra.

    Chương khóc than thương tiếc hồi lâu, tìm đường trở về Trấn Phiên, suốt đời không lấy người nào nữa.

    oOo
    xin Mẹ rủ lòng thuơng xót linh hồn Phaolo Trần Bình Nguyên rose4

  7. #7

    Mặc định

    4 - Vương Khản

    Vương Khản là con thứ ba một gia đình nông dân sống ở ẩn trong núi. Một hôm Khản đang dẫy cỏ ngoài đồng, bỗng một cơn gió lớn đùng đùng nổi dậy, làm cát bay đá chạy trời đất tối sầm. Khản đang tính tìm chỗ ẩn nấp, chợt thấy một người con gái, áo quần hoa lệ, nhưng đầu tóc rối bù, chân không hài vớ, từ đằng xa hộc tốc chạy tới phía chàng. Nàng vừa chạy vừa kêu gọi Khản:
    - Tam lang... cứu thiếp với!

    Trong lúc vội vàng hoảng hốt, Khản chẳng kịp tìm hiểu cho rõ lý do tại sao, buột miệng bèn hỏi:

    - Cứu nàng bằng cách nào?

    Người con gái đáp:

    - Xin cho thiếp núp nhờ ở dưới chuồng cỏ. Lát nữa có cơn lốc kéo đến, chính là kẻ đuổi bắt thiếp đấy.

    Nhờ chàng nói dối dùm thiếp đã chạy về hướng Tây rồi nhé! Nói xong nàng liền lẩn vào trong chuồng cỏ.

    Một lát sau, quả nhiên có một cơn lốc xoáy từ Đông Bắc thổi đến, cao lớn lừng lững như một cái tháp Phật, cuồng bạo và mãnh liệt như ngựa lồng, vây chung quanh thửa ruộng của Khản mấy vòng, làm cho lá rơi cây rụng tơi tả.

    Khản y lời người con gái dặn, lấy tay chỉ về hướng Tây, để đánh lừa cơn lốc.

    Lập tức có một tràng sấm nổ vang trời, và cơn lốc như hiểu ý người, ào ào chuyển hướng thổi về phía Tây, khiến cho Khản vô cùng ngạc nhiên và kinh dị.

    Đến lúc hết cơn lốc, Khản mở cửa chuồng cỏ, đã thấy người con gái ngồi núp trong đó, đang xé quần để lấy vải quấn chân.

    Nàng thấy Khản đến, thì nhoẻn miệng cười duyên, lấy tay vấn lại mái tóc, trên trán hãy còn lấm lấm mồ hôi, hơi thở chưa được đều đặn bình thường.

    Khản để ý nhìn kỹ nàng, thấy mày ngài, khoẻ mạnh, diễm lệ ít có vừa mừng vừa ngạc nhiên, bèn lấy giọng ôn tồn an ủi nàng rằng:

    - Kẻ đuổi bắt nàng đã đi xa rồi, nàng không việc gì phải sợ hãi nữa. Nhưng ta không tin, như thế mà được coi là thi ân cho nàng sao?

    Người con gái đứng dậy xá chàng, cảm tạ rằng:

    - Ân sâu đức rộng, thiếp xin ghi nhớ suốt đời.

    Khản nói:

    - Như vậy, nàng định lấy gì để trả ơn cho ta?

    Đáp:

    - Lụa là gấm vóc châu báu ngọc ngà, thiếp xin để chàng chọn lựa?

    Khản cười, nói:

    - Ta đâu có cần đến những thứ đó. Điều ta muốn, thì nó to lớn vô cùng!

    Vậy chàng có thể cho thiếp biết được không?

    Khản chỉ cười, không chịu nói ra. Người con gái hơi lộ sắc hờn giận nhìn Khản, nhưng lại tươi cười ngay, nói đùa:

    - Chàng thật là đại bất lương, thiếp không thể nào không trở thành kẻ phụ ơn được.

    Nói xong nàng muốn bỏ đi. Khản dang tay chặn lại, nhưng nàng đã lẹ làng và nhanh như hơi gió, luồn qua nách của Khản, khiến cho chàng không sao bắt kịp. Rồi thoắt biến mất, không thấy hình tích gì nữa. Khản vỡ niềm hy vọng, vừa buồn vừa hận, rầu rầu vác cày trở về nhà.

    Lúc đi gần đến đầu chiếc cầu gỗ, đã thấy người con gái ngồi ở trên một phiến đá phía bên kia bờ suối.

    Nàng thấy Khản đến, tươi cười nói:

    - Hẳn chàng đã cho thiếp là kẻ vong ân bội nghĩa rồi phải không?

    Khản thình lình gặp lại nàng, đổi buồn làm vui, sắc mặt vui vẻ hòa dịu hẳn lên, hỏi:

    - Nàng đã thoát khỏi tai nạn, chẳng tìm chỗ an nhàn mà đến, sao còn lưu luyến chốn này làm gì?

    Người con gái vội vã chạy đến nắm lấy tay Khản, đáp:

    - Đùa với chàng một chút, nỡ nào lại giận nhau vậy.

    Nếu chàng cho thiếp là kẻ vong ân phụ nghĩa, ấy là chàng chỉ mới biết đá, mà chẳng biết vàng. Xin chàng cứ cho thiếp theo về, đừng coi thiếp là thứ rau hoang cỏ dại mà bỏ nhau nhé.

    Khản nghe nàng nói vậy, thì mừng cuống bèn đưa nàng về nhà mình.

    Năm Khản vừa đúng hai mươi mốt tuổi thì cha mẹ đã qua đời, chỉ còn mỗi người em gái. Mọi việc trong nhà đều do em chàng lo liệu. Người em thấy Khản dẫn một người con gái vừa trẻ vừa đẹp về nhà thì lấy làm ngạc nhiên hỏi dò lai lịch.

    Khản cũng đem hết câu chuyện thuật lại cho em nghe. Em chàng nhìn kỹ người con gái một lúc rồi tươi cười bảo chàng:

    - Đẹp như chị ấy thế này, em còn thương nữa là anh!

    - Không có gì phải lo lắng lắm. Ngại nhất là cái mụ Tám Chung, hàng xóm nhà mình, thường nhật vẫn ngôi lê đôi mách, đặt điều bịa chuyện khắp làng, thì nay mụ ta đã bỏ đi biệt tích không về nữa. Em thấy chị ấy có vẻ ngoài tú lệ, nhẹ nhàng, tất cũng là người thông minh, khéo léo có thể dựa dẫm vào nhau chung sống qua ngày được, chỉ sợ anh phận mỏng phúc bạc, không có duyên với chị ấy mà thôi.

    Người con gái đứng dậy, sửa lại nếp áo, rồi nghiêng mình thi lễ cảm tạ người em của Khản:

    - Tôi là Bạch nữ, mang ơn lớn của Tam Lang, nên nguyện đem thân về hầu hạ chàng cho phải nghĩa. Chỉ sợ cô nương không có bụng dung nạp chứa chấp mà thôi. Nếu như cô nương đã có lòng thương tưởng, thì mọi việc xin để tôi gánh vác, tất sẽ được tốt đẹp, vững vàng còn lời người đàm tiếu chớ nên để ý làm gì vội.

    Cô em của Khản được người con gái khen ngợi tâng bốc như vậy lại càng hoan hỷ hơn, bèn đi giết gà, làm cơm để cho hai người làm lễ hợp cẩn.

    Từ đấy vợ chồng ăn ở với nhau rất là hòa mục đầm ấm. Em chồng chị dâu mà chẳng hề có chút hiềm khích nào.

    Khản hỏi về gia tộc, thân thế thì nàng đáp:

    - Thiếp là gái làng Lương, họ Bạch, năm nay vừa mười chín tuổi. Thiếp mồ côi cha mẹ từ hồi còn nhỏ, một thân một mình không chỗ nhờ cậy. Hôm qua, ngẫu dạo du Xuân, chẳng ngờ gặp phải con Tịnh gió nó bức bách, may được chàng cứu, bằng không đã về chầu Diêm Chúa rồi.

    Khản lại hỏi:

    - Vậy, trước kia nàng chỉ có một mình thì sống ở đâu?

    - Thiếp chẳng có nhà cửa chi cả, ngày ngày phiêu bạc như cánh bèo trôi. May là táp vào những nơi yên ổn, nên không bị những kẻ cường bạo khinh khi hà hiếp.

    - Như thế thì nàng sinh sống bằng cách nào?

    - May vá đôi chút mà thôi.

    Người em gái của Khản nói xen vào:

    - Miễn sao tâm hồn trong sạch thì dù có lưu lãng vô gia cư đáng kể gì. Từ nay, anh lo cầy cấy, chị lo bếp nước, còn em lo việc cơm ra đồng cho anh, thì ta lo gì không tạo một gia đình đầm ấm êm đẹp. Trước hết, ngày mai anh nên mua một sắp vải bố, để may quần áo cho chị ấy. Con nhà nông lẽ nào lại ăn mặc sặc sỡ thế này.

    Khản nói:

    - Loại vải bố lúc này hiếm, sợ không mua được.

    Bạch nữ nói:

    - Chuyện đó không khó khăn gì cả. Thiếp có cất giấu được mười sấp vải loại đó, để ở bên dưới bệ thờ trong miếu thổ địa cạnh bờ suối. Nhờ chàng chịu khó ra lấy mang về.

    Lúc đầu, Khản không tin, sau bi vợ thôi thúc đành phải đi vậy. Quả nhiên lấy được mười sấp vải bố mang về đưa cho người em gái.

    Em chàng hỏi:

    - Cổ miếu hoang lương, chị giấu vải ở đấy từ bao giờ?

    Bạch nữ tính tình cực kỳ thông tuệ. Nữ công, gia chánh chẳng việc gì nàng không biết, không rành. Người em gái của Khản so với nàng không bằng, nên càng tỏ kính nể người chị dâu hơn.

    Gặp năm bị hoàng trùng, mấy chục mẫu ruộng của gia đình Khản số thâu chỉ còn lại có hai ba phần. Hai anh em Khản ngày đêm âu sầu lo lắng. Đói, rét còn có thể chịu đựng được. chứ tiền thuế thì không có ắc không xong.

    Duy chỉ mình Bạch nữ thì vẫn vui vẻ, không lấy đó làm lo.

    Khản bàn với em đến vay tiền của lão phú hộ họ Ngưu, nhưng Bạch nữ cản lại nói:

    - Chàng và tiểu cô tính vậy là sai, theo thiếp nghĩ, lão bá hộ họ Ngưu chỉ là một tên nô lệ của tiền bạc, chẳng phải là con người tử tế đâu. Nếu chẳng có uy thế để mà làm cho lão ta nể vì thì dầu là thân tộc, bằng hữu chí thiết đến nhờ vả, lão ta cũng lờ đi.

    Huống hồ, chàng chỉ là một kẻ xa lạ với lão, lại ít tuổi, chưa có uy tín gì, đến vay chỉ xấu hổ thêm thôi. Không đời nào lão cho vay đâu. Chi bằng cứ thuận thiên mệnh, việc đến lúc nguy sẽ có cách giải. Xin chàng và tiểu cô hãy yên lòng chờ đợi.

    Khản không nghe, cứ áo quần tề chỉnh đến nhà lão Ngưu để mượn tiền. Quả nhiên đúng như lời tiên liệu của Bạch nữ. Khản bị lão Ngưu phũ phàng từ chối. Chàng ôm hận lủi thủi trở về nhà, thì lại gặp viên nã thuế đứng chờ ở cửa. Y trông thấy Khản thì lập tức lớn giọng hạch sách, núm chặt lấy chàng, không chịu thả ra.

    Khản hết lời biện giải, phân trần rồi mời y vào ngồi trong nhà. Sau đó, chàng vào trong phòng cùng vợ và em bàn cách đối phó. Bạch nữ hỏi:

    - Thuế đòi bao nhiêu?

    Khản đáp:

    - Cả số thuế thiếu năm trước là hơn ba lạng.

    - Thiếp lại cứ tưởng nợ ngàn. nợ vạn, chỉ ngần ấy có gì mà không trả nổi. Làm thiếp tốn mất mấy ngày phân vân tính toán. Ở dưới viên gạch, nằm về góc phía Bắc của miếu thổ địa, thiếp có giấu một chum bạc, chàng hãy đến đó đào lên mà lấy trả tiền thuế, vẫn còn dư nhiều để làm kế sinh nhai.

    Bất ngờ được nghe Bạch nữ nói như thế, Khản hết sức mừng rỡ, nhưng rồi lại ngờ cho đó chỉ là những lời nói bông lơn của vợ. Em chàng phải thúc dục:

    - Chuyện mười xấp vải lúc trước đã đúng, thì lần này chắc cũng chẳng sai đâu, anh nên đi ngay đi, đừng chậm trễ do dự nữa.

    Khản bèn leo qua bức tường sau nhà, vội vàng đến thẳng miếu thổ địa, đào chỗ viên gạch mà vợ chàng đã chỉ, thì quả nhiên đào được một cái chum bằng đất nung đen. Mở nắp ra coi, thấy đầy ấp trắng xóa những thỏi bạc. Khản mừng cuống lên như học trò nghèo đi thi trúng tuyển, vội vã trụt bỏ hết áo quần ra để gói bạc lại rồi vác lên vai thong dong trở về nhà. Trả đủ số cho viên lại dịch đến nã thuế, còn đãi y một bữa no say.

    Số bạc còn lại, Khản đem đổi được trăm lượng vàng bèn tậu ruộng, cất nhà, mỗi ngày một giàu. Việc buôn bán nhất nhất đều nghe lời vợ. Trong vòng có hai năm, lãi bồi lãi Khản trở thành người giầu có nhất làng.

    Bạch nữ thấy Khản thường nghĩ ngợi về chuyện không có con kế tự, thì lấy làm không vui, bảo Khản rằng:

    - Chàng vừa mới được no cơm ấm áo là đã nghĩ ngay đến chuyện lấy vợ bé. Người đâu sao bạc bẽo thế!

    Khản đáp:

    - Chẳng phải là ta phụ tình nàng đâu, chỉ vì sợ đời ta hết rồi, sẽ không có người lo lắng hương hỏa cho tổ tiên mà thôi.

    - Nếu muốn vậy, xin chàng đừng lo nghĩ chi nhiều nữa, để thiếp sinh cho chàng một đứa con vậy.

    Khản cười cho là nàng đùa.

    Tối hôm ấy, hai vợ chồng ngồi ở trong phòng, Bạch nữ dặn Khản là đừng đi ngủ trước, rồi nàng lên giường, buông mùng một mình ở trong đó, miệng lảm nhảm một hồi. Chừng ăn vừa xong một bữa cơm, thình lình Khản nghe có tiếng trẻ con oe oe khóc, rồi Bạch nữ đi ra thay quần áo bảo chàng:

    - Chàng vào mà thăm con!

    Khản vô cùng sợ hãi, mở màn ra coi, thấy một đứa con trai, quấn gọn trong chiếc tã, nằm ở trên giường, mặt mũi xinh đẹp như một bức tranh.

    Khản vừa mừng vừa lo, vội vàng báo cho người em gái biết. Em chàng cũng lấy làm hoan hỷ, bèn đặt tiệc ngay ở trong phòng để ăn mừng. Bạch nữ sau khi sinh nở vẫn ăn uống cười nói như lúc thường chẳng kiêng cữ gì.

    Anh em Khản đều thầm cho là điều lạ lùng, bèn đặt tên cho đứa bé là Dị Sinh.

    Cùng ấp với Khản, có một người phú hộ họ Lưu, gia tư cực vạn. Ông ta có người con tên Tuyền, là học trò Quốc Học ở kinh sự Đã hai mươi tuổi mà chưa có vợ, nghe đồn em Khản là người vừa đẹp vừa hiền thục, bèn nhờ mai mối đến hỏi. Khản định nhận lời, nhưng Bạch nữ hết sức ngăn cản, cho là không nên.

    Khản nói:

    - Người ta là gia đình hào phú, lại trọng lễ nghĩa.

    Tuyền cũng là người thiếu niên anh tuấn thực thà, tiểu cô về làm dâu nhà ấy cũng là xứng đáng, sao nàng lại cản trở?

    Chàng không nghe, cứ tự ý gả em cho nhà họ Lưu. Bạch nữ đành thở dài, bảo Khản:

    - Vợ chồng là duyên số trời định. Cưỡng lại, chỉ chuốc lấy những điều không may mà thôi. Họ Lưu với thiếp trước từng có hiềm khích với nhau. Nay dù là thân tộc, thiếp cũng tránh vậy, nếu Tuyền đến chơi, đừng để cho Tuyền gặp mặt thiếp, bằng cố ép, ắt sẽ sinh ra tai họa. Xin chàng nhớ kỹ, đừng quên.

    Đến khi em Khẩn lấy Tuyền rồi thì vợ chồng hòa mục, rất là êm ấm. Tuyền vẫn nghe đồn Bạch nữ là người nhan sắc diễm kiều, lòng muốn đến gặp. Tuyền đã nhiều lần xin với Khản, đều không được Khản đồng ý, bèn mưu tính với vợ đặt tiệc rượu mời Khản đến ăn, rồi thừa cơ đi tiểu, một mình lén đến nhà Khản.

    Khi tuyền đến nơi, gặp đúng lúc Bạch nữ đang cho con bú ở ngoài sân. Tuyền đường đột tìm đến chắp tay vái chào, khiến cho Bạch nữ bị bất ngờ không kịp né tránh, vội vã đưa tay áo lên che mặt, đứng sững sờ bất động.

    Tuyền nhìn kỹ nàng một hồi lâu, bỗng tỏ ra kinh hoàng sợ hãi, hoảng hốt ba chân bốn cẳng chạy một mạch về nhà. Về đến nhà, sắc mặt hãy còn tái xám như trọ Hai anh em Khản đều ngạc nhiên, gạn hỏi duyên cớ, Tuyền phải trấn tĩnh một lúc thật lâu, mới lấy lại tinh thần, quay ra hỏi lại Khản rằng:

    - Tẩu tẩu là con gái nhà ai? Huynh đệ và tẩu tẩu lấy nhau được mấy năm rồi. Trong chuyện này có nhiều điều quái dị, xin huynh cho đệ biết cặn kẽ, đừng giấu diếm chi cả.

    Mới đầu Khản còn chống chế, che đậy, không muốn nói thực. Tuyền thấy vậy, mới nghiêm sắc mặt, trịnh trọng bảo với Khản rằng:

    - Anh em trong nhà, là tình chí thân cốt nhục, huynh đừng giấu diếm. Sỡ dĩ đệ nằng nặc mà cật vấn huynh như vậy là có thâm ý cả. Sao huynh lại coi đệ là người xa lạ đến thế.

    Em Khản đã lâu, vốn cũng có bụng nghi ngờ, nay nghe chồng nói thế, thấy cũng hữu lý, bèn nói thêm vào.

    Khản bất đắc dĩ đành phải thú thực. Tuyền nói:

    - Như thế là huynh gặp hồ ly rồi đấy.

    - Làm sao mà hiền đệ biết?

    Tuyền bèn kể:

    - Chẳng giấu gì huynh, đã lâu đệ vốn có hâm mộ tẩu tẫu là người hiền thục, trong bụng vẫn áy náy là không được kiến diện bao giờ. Lúc nãy mời huynh đến ăn, chỉ cốt để giữ huynh lại đây, rồi đệ một mình thừa cơ đến bái phỏng tẩu tẩu. Chừng đến nhà huynh, thì lại gặp tẩu tẩu ở ngoài sân. Đệ không ngờ tẩu tẩu lại xinh đẹp đến thế, nên cố ý nhìn kỹ, té ra, chẳng phải ai xa lạ, tẩu tẩu chính là kẻ đã từng gieo tai họa cho đệ.

    Nguyên trước đây ba năm, một hôm đi ra đồng thăm mộ, giữa đường gặp một người con gái rất đẹp, bụng có ý yêu thầm. Chẳng ngờ, lúc về đến nhà đã thấy cô ta ở trong phòng. Nàng tự giới thiệu là họ Bạch, cùng đệ vốn có mối duyên tiền kiếp. Lúc đó, đệ sướng đến tê người, chẳng cố kỵ chi cả, bèn cùng nàng gần gũi giao hoan.

    Được gần hai tháng, người đệ cứ mỗi ngày một hao mòn gầy guộc. Cha mẹ đệ biết là bị chồn ám, tìm trăm phương nghìn kế chữa trị mà chẳng khỏi, sau phải đem lễ vật đến cầu phép của đạo sĩ họ Phương ở Sơn Đông. Được đạo sĩ trao cho hai lá bùa, trên viết chữ đỏ, dặn về nhà thì đốt một lá ở giữa trung đường, còn một lá thì lên cất giữ cẩn thận, vài năm sau sẽ có cơ hội dùng Cha mẹ đệ ngay ngày hôm ấy làm theo lời dạy của đạo sĩ. Đệ thấy một ông thần, to lớn như những ông tượng bằng đất ở trong các miếu, xông vào trong phòng lùng bắt người con gái.

    Nàng sợ hãi hoảng hốt, tóc tai rối bời, độn theo gió đào tẩu, bị vị thần đuổi theo truy nã. Về sau không trở lại nữa. Hôm đó chính là ngày huynh gặp tẩu tẩu. Đệ biết, trong việc gối chăn, huynh rất yêu thương mê đắm tẩu tẩu, tất sẽ không tin lời nói của đệ. Dù lá bùa kia vẫn còn không đủ làm bằng cớ. Tuy nhiên giả như tẩu tẩu là hồ ly thì trong người thường phát ra một mùi dị hương nồng nàn kỳ lạ, và hay kín đáo đưa tay nắn đốt xương cùng ở đít, không để cho ai sờ tới. Nếu quả đúng như thế, thì tẩu tẩu là hồ ly không sai.

    Khản nghe lời Tuyền kể chỉ há hốc mồm, trợn mắt ngạc nhiên, muốn nói mà không nói được.

    Em gái Khản nói:

    - Việc tẩu tẩu có thường sờ đốt xương cùng hay không thì em không được biết. Duy mùi dị hương thì có thật. Xin anh tính kế sớm đi, đừng để chuyện xẩy ra, sau hối không kịp.

    Khản ngẩng mặt lên trời thở dài:

    - Cứ như lời em nói, thì vợ ta là hồ ly không còn nghi ngờ gì nữa. Nhưng từ ngày lấy nhau, gia đình ta nhờ nàng mà giàu có ấm no. Con ta nhờ nàng mà có người nuôi nấng, em cũng nhờ nàng mà lấy được tấm chồng tử tế. Ơn của nàng đối với họ Vương ta thật là to lớn. Người ta bảo rằng "Lấy đức báo oán, chứ không lấy oán báo đức". Huống hồ, nàng lại là người yêu hiền thục, chẳng có gì độc hại.

    Dù rằng có khác loài đi nữa, nỡ nào mà bỏ nàng cho đành. Thôi! Thôi! anh xin hai em đừng nói những lời bất nhẫn như vậy nữa. Anh không nghe đâu.

    Tuyền cố khuyên:

    - Con ong nó còn có nọc độc, huống hồ ly là loài yêu mị. Huynh như chẳng nghe lời chúng em, thì huynh chỉ có một con đường duy nhất là tử lộ mà thôi.

    Sau khi Khản ra về, người em gái trong lòng không yên, lén đem lá bùa của chồng đem đốt ở trước cửa buồng nhà Khản. Khoảnh khắc, nổi lên mặt trận cuồng phong dữ tới, rồi Bạch nữ từ trong chạy ra, được vài bước thì té xuống đất, hóa thành một con chồn đen chạy bung ra cổng đào tẩu, đằng sau có một cơn lốc xoáy đuổi gấp theo, nhanh như điện chớp, phút chốc không còn thấy hình tích gì nữa.

    Khản được tin, tinh thần chấn động, khóc rống lên thảm thiết. Mấy ngày sau chẳng ăn uống gì, cứ tưởng niệm đến Bạch nữ rồi bi phẫn mà chết, để lại một Dị Sinh đứa con mồ côi cả cha lẫn mẹ.


    oOo
    xin Mẹ rủ lòng thuơng xót linh hồn Phaolo Trần Bình Nguyên rose4

  8. #8

    Mặc định

    5/ - Ngôi nhà ma trên vùng biển vắng


    Một buổi tối tháng Chín, sau một ngày lang thang, tôi rời bờ biển đi vào đất liền. Xa xa, tôi thấy một ngôi nhà nhỏ nằm sau một cánh đồng hoang vu dưới ánh trăng non. Từ trong ngôi nhà, một ánh đèn hiu hắt tỏa ra và tôi hướng về ngôi nhà rảo bước. Như con thiêu thân bị hút bởi ánh đèn. Tuy nhiên, là nơi lý tưởng cho bất cứ ai vừa đói, vừa mệt lại vừa lạc đường như tôi lúc đó.
    Trông thì gần, nhưng thực ra tôi phải đi bộ tới gần mười lăm phút mới đến nơi. Quanh nhà là những bụi cây rậm rạp và cho tới bây giờ tôi cũng không biết làm sao tôi có thể nhìn thấy được ánh đèn. Nhưng lúc đó vừa đói vừa mệt, mệt nhiều hơn đói, tôi không suy nghĩ gì hết mà chỉ đưa tay gõ cửa. Sau khi gõ mấy lần mà không ai ra mở cửa hoặc trả lời, tôi đánh liều xô nhẹ cánh cửa. Cánh cửa cũ kỹ với cái bản lề sét rỉ kêu lên ken két như muốn kháng cự nhưng vẫn từ từ mở ra.

    Tôi bước vào một căn phòng thật rộng, dường như chạy dài suốt cả ngôi nhà. Một cây đèn dầu lớn cháy sáng trên một mặt bàn lớn. Trên tường là một cái đồng hồ quả lắc cũ kỹ. Quanh phòng là mấy cái cửa sổ long lanh ánh cỏ. Tôi vừa toan lên tiếng hỏi xem có ai trong nhà hay không thì từ phía cuối phòng, một người đàn bà xuất hiện tiến về phía tôi. Đó là một người đàn bà mập mạp nhưng di chuyển thật lẹ làng và nhất là không gây một tiếng động nào. Trong sự im lặng đó, tôi chỉ nghe những tiếng tích tắc của cái đồng hồ trên tường.

    Tôi lên tiếng:

    - Chào bà. Tôi là một du khách bị lạc đường. Thấy ánh đèn nhà bà nên tôi tới đây xin bà vui lòng cho ở tạm một đêm. Thưa bà, có phiền gì không ạ?

    Người đàn bà không đáp mà chỉ mỉm cười lắc đầu. Tôi hơi rùng mình khi thấy nụ cười của bà ta khiến đôi môi nhỏ xiù như bị chôn vùi trong cái lỗ miệng đen ngòm. Tuy nhiên, điều khiến tôi kinh hoàng hơn là hình như tóc tai bà ta dính đầy đất cát.

    Tôi chưa bao giờ thấy một người đàn bà phốp pháp như thế. Bà ta thở phì phò những hơi ngắn và chính tiếng thở của bà khiến tôi cảm thấy an tâm hơn khi biết rằng bà ta là một người bằng xương bằng thịt, nếu không, có lẽ tôi đã bỏ chạy ra ngoài rồi. Lý do đơn giản là căn nhà nhìn từ xa đã có vẻ ma quái, bây giờ ở bên trong, bầu không khí lại lạnh lẽo như một nhà mồ.

    Vẫn không nói một lời, người đàn bà to béo mở một cái tủ nhỏ ở góc nhà, lấy ra một khúc bánh mì, một miếng phó mát và một chai nước táo. Đặt tất cả những đồ ăn thức uống đó lên bàn, bà ngồi xuống cái ghế đối diện quan sát trong khi tôi làm công việc phục vụ bao tử.

    Tuy ruột gan cồn cào, tôi cảm thấy khúc bánh mì cứng như khúc gỗ, miếng phó mát lụn vụn hình như hơi mốc và hơi chuạ Tôi cố nhai trệu trạo rồi đưa chúng xuống bao tử bằng những ngụm nước táo hình như đã lên men từ lâu rồi. Trong lúc ăn uống, thỉnh thoảng tôi lại liếc nhìn người đối diện, và lần nào cũng thấy bà ta cũng nhìn tôi chăm chăm với ánh mắt thích thú và nụ cười ma quái.

    Rồi bà ta đứng lên đi quanh phòng, kéo những tấm màn cửa sổ ra kêu xoèn xoẹt. Xong đâu đấy bà biến mất. Vừa ăn nốt những miếng cuối cùng tôi vừa nghĩ rằng có lẽ bà ta đi chuẩn bị phòng ngủ cho tôi, một người khách bất ngờ và bất đắc dĩ. Tôi không nhớ khi đó tôi có ý nghĩ là bà ta sẽ đòi tiền phòng hay không. Tôi chỉ nhớ là sự tiếp đãi nồng hậu trong im lìm của chủ nhân khiến tôi hơi thắc mắc, có lẽ phải nói là hơi chột dạ mới đúng. Tại sao, tôi không biết. Tôi chỉ nhớ là mình tự hỏi Có nên chạy ra khỏi ngôi nhà này hay không khi còn có thì giờ?".

    Nói ra thì có vẻ hơi kỳ cục, nhưng thực ra đó là ý nghĩ của tôi lúc đó, có lẽ bị thúc đẩy một phần sau khi có cảm tưởng là bà ta vừa cho tôi ăn mấy cục đất khộ Nhưng rồi tôi quyết định ở lại. Trong khi chờ đợi, tôi quan sát căn phòng. Đó đây những cây xà ngang xệ xuống thật thấp khiến những ai vô ý có thể bị đụng đầu. Mạng nhện giăng hầu như khắp nơi khiến tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao chủ nhân lại có thể để như vậy được.

    Rồi tôi nhìn cái đồng hồ quả lắc trên tường. Đó là loại đồng hồ mà trước đó tôi chưa hề nhìn thấy bao giờ vì là loại đồng hồ rất cổ. Tôi biết nó sẽ đổ chuông bất cứ lúc nào vì lúc đó đã gần mười giờ. Tuy nhiên tôi không được nghe tiếng chuông đồng hồ vì bà ta đã trở lại không lâu sau đó và ra hiệu cho tôi đi theo. Tôi nghe những tiếng tích tắc cuối cùng khi đi qua một khung cửa cuối phòng trước khi theo người đàn bà mập mạp đi quanh co qua không biết bao nhiêu hành lang nhỏ trong căn nhà lạ lùng này. Nhìn bà ta đi phía trước, tôi có cảm tưởng như đó là một khối sương mù dầy đặc tròn trịa đang lăn.

    Cuối cùng bà ta đưa tôi vào một căn phòng rộng, bên trong đã có sẵn saù bảy cây nến cháy sáng. Ba cây nến lớn được gắn trên một cái bàn rộng rãi nằm ở giữa phòng. Hai cây nến nhỏ hơn gắn trên một cái tủ nhiều ngăn và một cây nữa được đặt trên một cái ghế ở một góc phòng gần một cái giường đôi bằng gỗ có lẽ còn lớn hơn cả loại giường king size.

    Đặc điểm của căn phòng này là tất cả đồ đạc đều lớn một cách bất thường, có lẽ cũng bất thường như người đàn bà to béo. Một điểm lạ lùng khác nữa là cả tường phòng, đồ đạc, chăn mền và màn cửa đều có chung một màu cỏ úa khiến căn phòng coi có vẻ trống trải và đặc biệt là khiến tôi cảm thấy buồn ngủ. Sau khi người đàn bà bước ra, tôi ngồi trên một cạnh giường, cố làm quen với căn phòng lạ và tự nhiên tôi có cảm tưởng rằng đó là một căn phòng dành cho trẻ con.

    Không hiểu tại sao tôi biết chắc rằng căn phòng này là nơi từng có rất nhiều trẻ con. Có thể là một trung tâm giữ trẻ. Cũng có thể chúng chỉ là những đứa con của bà tạ Và một cảm giác kinh hoàng đột nhiên kéo đến khiến tôi rùng mình khi nghĩ rằng tất cả những đứa trẻ từng ở đây đã chết từ lâu, lâu lắm. Tại sao tôi có cảm giác đó, tôi không biết.

    Rồi tôi cởi đôi giầy nặng nề ra và nằm xuống. Suốt từ sáng đến giờ mới được ngả lưng lần đầu tiên, tôi cảm thấy vô cùng khoan khoái. Một luồng hơi lạnh ở đâu chợt đến khiến tôi vội vàng kéo cái mền dầy lên tận cổ.

    Tôi không tắt nến vì không hiểu sao tôi không dám nhắm mắt, sợ mình ngủ thiếp đị Tôi nhìn chòng chọc lên trần nhà, tưởng tượng đó là một bức tranh đồng quệ Không hiểu tại sao tôi có cảm tưởng là tất cả đồ đạc trong căn phòng này đều có những đôi mắt bí mật đang theo dõi nhất cử nhất động của tôi. Ý nghĩ này khiến tôi nổi gai ốc.

    Tôi cố lắng tai nghe tiếng sóng biển rì rào từ một nơi thật xa vọng lại, như từ một thế giới khác. Rồi trong sự yên lặng nặng nề đó, tôi chợt nghe những tiếng chuông leng teng nho nhỏ, tiếng kêu của loại chuông được treo trên những cây Giáng Sinh. Tiếng chuông nghe thật rõ, ngay trong phòng. Tôi tung mền ngồi bật dậy, nhảy xuống giường đi quanh phòng lắng nghe xem tiếng chuông phát xuất từ đâu.

    Cuối cùng, tôi đứng lại trước một tủ chén cao không khóa, không ngăn và trống rỗng. Dưới đáy tủ, qua ánh nến bập bùng, tôi nhìn thấy một cái chuông nhỏ lấp lánh. Cái chuông nằm yên và những tiếng leng keng không còn nữa. Nhưng rõ rệt trước đó nó đã kêu. Tôi mở tủ lượm cái chuông nhỏ lên, cầm trong tay lắc nhẹ "leng teng leng teng". Đây đúng là một món đồ chơi của trẻ con và căn phòng này đúng là căn phòng của trẻ con như tôi nghĩ.

    Tôi cầm cái chuông tới ngồi trên một cái bàn nhỏ, cái bàn của trẻ con, đối diện tủ chén và nhìn vào tủ suy nghĩ. Đột nhiên tôi thấy có hai ánh mắt long lanh của một con chuột lắt xuất hiện từ một cái lỗ nhỏ sau lưng tủ. Tôi thở dài nhẹ nhõm, không ngờ mình có thể tìm ra nguyên nhân của tiếng chuông rung một cách lẹ làng như thế.

    Trong khi tôi ngồi yên theo dõi, con chuột nhỏ từ từ bò ra cửa tủ, chạy ra ngoài. Tôi la lên: "Ê, ông bạn, đi đâu vậy?" trước khi đứng lên rượt theo nó. Khi tới một góc phòng, con chuột nhỏ biến mất và tôi thấy mình đang đứng trước một cái cửa mà từ xa tôi không thấy. Hơi ngạc nhiên, tôi đưa tay lên gõ. Từ phiá sau cánh cửa, một giọng nói thật cao, thật mỏng như tiếng gió vang lên "cứ vào tự nhiên".

    Tôi đẩy cửa bước vào và dưới ánh trăng lọt qua khung cửa sổ, tôi thấy một người đàn ông đang đứng sững nhìn thẳng vào mặt tôi. Tôi giật mình lui lại. Người đàn ông cũng lui lại cùng một lúc. Tới lúc đó tôi mới biết mình đang nhìn vào một tấm gương lớn. Sau cơn hoảng hốt, tôi quay nhìn cái mà tôi muốn thấy. Đó là người đàn bà to béo. Bà ta đang nằm trên một cái giường rộng, hai bàn tay chuối mắn đang mân mê cái mền. Đôi mắt bà ta nhìn tôi trừng trừng khiến tôi cảm thấy toàn thân lạnh toát. Tôi liếc nhìn sang bên cạnh và thấy một thanh gỗ lớn, dài khoảng hơn một thước, có lẽ là cây chặn cửa. Không hiểu sao, tôi cầm thanh gỗ lên và cảm thấy tự tin hơn. Ít nhất tôi cũng có vũ khí trong tay.

    Rồi tôi liếc nhìn lại phía người đàn bà. Bà ta đang chờn vờn ngồi dậy với một khuôn mặt hoàn toàn thay đổi. Mái tóc dính đầy đất cát của bà ta rũ rượi một cách ghê rợn, đôi mắt bà đỏ rực như mắt chó rừng trong đêm tối, đôi môi nhỏ của bà hoàn toàn biến mất trong cái lỗ miệng đen ngòm, thay thế bằng một cái lưỡi đỏ lòm giữa những cái răng nanh nhọn hoắt. Từ cái lỗ miệng khủng khiếp đó, những tiếng cười ằng ặc như người bị bóp cổ vọng ra.

    Bây giờ người đàn bà đã ngồi dậy, đôi mắt đỏ ngầu của bà ta nhìn tôi nửa như chế diễu nửa như thèm thuồng. Rồi cái khối thịt khổng lồ và tròn trịa đó bước xuống đất và lần đầu tiên tôi nhận thấy đôi chân bà ta không chạm đất, rồi như một trái banh bằng hơi sương, người đàn bà với khuôn mặt ma quái từ từ lăn tới chỗ tôi đứng trong khi cái lưỡi đỏ hỏn dài chừng hai tấc của bà ta thè ra thụt vào.

    Phản ứng của tôi là giơ thanh gỗ lên đập xuống khối sương ma quái đó. Tôi đập liên hồi tới khi người đàn bà gục xuống không cựa quậy. Khi những tiếng động tắt hẳn, dù tôi còn cảm thấy nhịp cổ tay bà ta đập nhẹ khi cúi xuống kiểm soát, tôi bước thẳng tới cánh cửa thứ nhì trong phòng, đối diện với cánh cửa mà tôi bước vào. Một tấm bảng nhỏ "cửa vườn" viết bằng nét chữ trẻ con nguệch ngoạc được dán ở phía trên. Tôi đẩy bung cánh cửa vườn này ra và nhìn vào một khu vườn như bị bỏ hoang từ hàng chục năm qua với những đám cỏ hoang cao bằng đầu người nằm sau một khoảng sân trống chừng mười, mười lăm thước.

    Suy nghĩ trong giây lát, tôi quay trở vào nhắc người đàn bà to béo lên, và điều khiến tôi ngạc nhiên là bà ta không nặng hơn một đứa bé. Tuy nhiên vì cái khối lượng thân hình khổng lồ của bà, phải vất vả lắm tôi mới lôi được bà ta qua khỏi những đám cỏ hoang rậm rạp nằm giữa những hàng cây khô tới tận cuối vườn. Trong khoảng hai tiếng đồng hồ sau đó, tôi liên tục ghim mũi cuốc xuống đất để tạo cho bà ta một nấm mồ rộng rãi, ít nhất cũng bằng cái giường của bà ta.

    Cuối cùng, tôi xoa hai bàn tay một cách thỏa mãn. Dưới ánh trăng, một cái hố rộng bằng cái giường, sâu khoảng một thước rưỡi đã hoàn tất. Ném cái cuốc và cái xẻng lên mặt đất, tôi leo lên miệng hố, nhưng hai chân tôi như bị gắn chặt xuống nấm mộ mà tôi mới đào. Trong cơn hoảng hốt, tôi liếc nhìn xác người đàn bà to béo và có cảm tưởng như bà ta đang cựa quậy. Nhưng không, đó chỉ là một cơn gió khiến tà áo của bà bay lên nhè nhẹ. Cuối cùng, với một nỗ lực phi thường, có lẽ vì quá mệt mỏi, tôi cũng leo lên được mặt đất và ngồi thở dốc.

    Rồi tôi lăn xác người đàn bà to béo đó xuống ngôi mộ mới và lấy xẻng lấp đất lên. Khi công việc kết thúc, dưới ánh trăng vằng vặc, tôi liếc nhìn đồng hồ và thấy mới gần ba giờ sáng.

    Đứng nhìn ngôi mộ mới giữa lớp cỏ cao, tôi xoa tay một cách hài lòng trước khi lững thững bước vào nhà. Chui qua cánh cửa với hai chữ "cửa vườn", tôi vô cùng kinh ngạc khi thấy mình đang đứng giữa một căn phòng với saù ngọn nến còn cháy sáng. Phòng ngủ của tôi chứ không phải căn phòng của người đàn bà to béo!

    Tôi lắc đầu mấy cái xem mình mơ hay tỉnh. Không, tôi hoàn toàn tỉnh táo! Tôi bước trở lại trước cánh "cửa vườn" thì không còn thấy tấm bảng "cửa vườn" đâu nữa! Tôi chăm chú nhìn cánh cửa và nhận thấy đó chính là cánh cửa mở vào phòng người đàn bà. Có thể nào sau khi làm việc mệt mỏi, tôi đã mở cánh "cửa vườn" vào phòng bà ta rồi mở cánh cửa thông sang phòng của tôi mà không nhớ? Thật là vô lý vì tôi hoàn toàn tỉnh táo. Không biết vì lý do nào thúc đẩy, tôi đưa tay lên gõ cửa mấy cái và giật bắn mình khi từ phía sau cánh cửa im lìm, một giọng nói thật cao, thật mỏng như tiếng gió vang lên "cứ vào tự nhiên".

    Không tin ở tai mình, tôi xô cửa nhìn vào - lần này tôi không bước vào. Căn phòng và cái giường hoàn toàn trống rỗng.

    Nhiều khi quá mỏi mệt bạn có thể không kiểm soát được cả thính giác của chính bạn nữa!

    Tôi trở lại ngồi trên cái bàn nhỏ đối diện với tủ chén. Tôi không nhớ là đã bỏ cái chuông nhỏ mà tôi lấy ra từ tủ chén ở đâu.

    Đột nhiên tôi lại nghe những tiếng leng keng nho nhỏ khiến tôi nổi gai ốc. Nhìn kỹ vào cái tủ chén trống rỗng với hai cánh cửa mở toang, tôi thấy con chuột lắt đang đùa giỡn với cái chuông nhỏ.

    Không hiểu sao một cơn giận bất thần chợt đến với tôi. Tôi rút một chiếc giầy liệng vào con chuột nhưng chiếc giầy bị cửa tủ chăn lại, rơi xuống. Tuy nhiên con chuột nhỏ cũng giật mình bỏ cái chuông, chạy tụt vào một cái lỗ sau lưng tủ. Tôi bước tới cửa tủ, cúi xuống lượm cái chuông nhỏ lên bỏ vào túi. Tôi quyết định phải rời khỏi căn nhà ma quái này ngay dù không biết đường và dù trời còn tối.

    Sau khi cột giày, tôi cầm theo một cây nến, mở cửa bước ra. Cố nhớ lại những hành lang nhỏ mà người đàn bà to béo đưa tôi đi qua trên đường tới phòng ngủ, tôi đi quanh quất một hồi trong căn nhà lạ và thấy mình trở lại trước căn phòng ngủ với năm ngọn đèn cầy cháy sáng! Một ý nghĩ chợt đến với tôi "hay là mình mở cánh cửa ăn thông sang phòng ngủ của người đàn bà rồi đi ra vườn. Từ ngoài vườn, mình chỉ việc đi quanh nhà là ra tới phía trước. Từ đó mình có thể bước ra đường một cách dễ dàng".

    Nghĩ như vậy, tôi bước tới đẩy cánh cửa ăn thông sang căn phòng người đàn bà. Trước sự ngạc nhiên của tôi, trước mắt tôi là cánh vườn hoang mà tôi đã lôi xác người đàn bà ra trước đó. Căn phòng ngủ của bà ta hoàn toàn biến mất như chưa bao giờ hiện diện trên trái đất!

    Trong khi tôi còn đang ngỡ ngàng chưa biết có nên bước ra hay không thì từ phía cuối vườn, nơi tôi mới chôn người đàn bà to béo, tôi thấy như có một cái gì lay động giữa đám cỏ cao. Định thần nhìn kỹ, tôi thấy những đầu ngọn cỏ khởi sự chuyển động và tiến lần về phía ngôi nhà như bị một cơn gió thổi thật chậm. Khi những đầu ngọn cỏ ngưng chuyển động, từ trong đám cỏ cao vút, người đàn bà to béo xuất hiện, bước vào khoảng sân trống. Đôi mắt bà ta vẫn đỏ ngầu và bây giờ đầy vẻ giận dữ. Cái miệng bà ta chỉ còn là một hàm răng nhọn hoắt trắng nhởn đang nhe ra. Bà ta lướt về phía tôi như lăn trên bánh xe. Tôi hoảng hốt đóng sập cánh cửa lại, lao mình chạy quanh những hành lang tăm tối, đầu bị những kèo nhà đập trúng bôm bốp. Có lúc tôi ngã xuống nhưng lại cố đứng ngay dậy, tiếp tục trốn chạy. Cuối cùng tôi thấy mình đang chạy trên đường hướng về biển cả.

    Tới bờ biển, lúc này không còn một ngọn gió, không còn một lượn sóng, tôi vục hai tay xuống làn nước biển lạnh buốt rồi đổ lên đầu, lên mặt. Chất muối khiến tôi nhăn mặt khi cảm thấy rát ở trên đầu, và hơi nước lạnh khiến tôi như khoẻ lại.

    Ngồi thở một lúc trên bãi biển vắng tanh, tôi đứng dậy loạng choạng bước lên mặt đường nhìn về phía ngôi nhà quái gở.

    Bây giờ tôi mới nhận ra những nét ma quái dễ sợ của căn nhà, cũng vẫn với ánh đèn hiu hắt tỏa ra. Nếu tôi đã có cảm giác này vào buổi tối, có lẽ tôi đã không tìm đến đó.

    Lúc đó tôi nghĩ rằng có thể những gì vừa xẩy ra chỉ là một giấc mơ, một cơn ác mộng, nhưng khi sờ vào những cục u trên đầu, tôi biết rằng mình vẫn tỉnh táo và những gì xẩy ra là sự thật.

    Ngay cả bây giờ, nhiều khi tôi muốn nghĩ rằng đó chỉ là một cơn ác mộng, nhưng không, tất cả những gì tôi vừa kể lại hoàn toàn là sự thật, cũng thật như cái chuông nhỏ mà tôi vẫn để trên bàn viết của tôi.

    oOo
    xin Mẹ rủ lòng thuơng xót linh hồn Phaolo Trần Bình Nguyên rose4

  9. #9

    Mặc định

    6/ Người con gái ở dốc Cầu Kiệu

    (Phạm Văn Thuận )

    Đã một năm trôi qua kể từ ngày gia đình Thanh dọn về ở khu "xóm vắng" vùng Đakao này. Gọi là "xóm vắng" vì ở cái xóm tân lập này chỉ đếm được hơn mười nóc gia và có khoảng hai mươi lăm nhân khẩu.
    Vào những năm cuối thập niên bốn mươi và đầu thập niên năm mươi của thế kỷ hai mươi thì dân số thành phố Saigon-Gia Định chỉ vỏn vẹn khoảng trên dưới hai trăm năm chục ngàn người.

    Gia đình Thanh chạy loạn chiến tranh giữa Việt Minh và quân đội Pháp từ miền Trung vào. Thật may mắn là ba của Thanh có người bạn đang là công chức ở Sở Bưu điện thành phố và, cũng đang ngụ không lâu ở cái "xóm vắng" này nên gia đình Thanh kiếm được một miếng đất nhỏ ở đây và dựng tạm một căn nhà bằng vật liệu nhẹ để phòng khi mưa nắng.

    Thanh là con trai một nên ba má Thanh đã dành tất cả những gì có được đều cho một mình Thanh. Thanh đã hai mươi tuổi rồi và tuy rất thông minh nhưng việc học thì thường bị gián đoạn luôn vì chiến cuộc.

    Nhìn cảnh gia đình luôn thiếu trước hụt sau, Thanh cũng muốn tìm một việc làm để phụ giúp cho kinh tế gia đình khá hơn và để mẹ Thanh không phải vất vả mỗi sáng với gánh xôi nặng trĩu trên vai đi dạo khắp phố phường.

    Ba Thanh thì không muốn con trai mình phải lận đận và không có tương lai nên ông thường khuyên con phải cố gắng học hành cho thành đạt. Ông thường nói: "Học đến nơi đến chốn trước là ấm cho bản thân, sau là vợ con con được nhờ chứ lúc đó ba mẹ còn đâu để mà nhờ". Tuy nghe lời dạy của ba mẹ, nhưng Thanh cũng nhờ vài người bạn cùng trường tìm cho một công việc dạy kèm trẻ tại nhà.

    Một ngày kia,Thanh được bạn bè giới thiệu một công việc như ý muốn là dạy kèm cho bốn em nhỏ. Ngày đầu tiên đi nói chuyện để nhận việc, Thanh không dấu nổi vẻ thất vọng khi được cho biết công việc dạy học được bắt đầu vào lúc 19h và chấm dứt lúc 22h30. Thất vọng là vì nơi mà Thanh mỗi tối phải đến ở tận ngã tư Phú Nhuận, cách nhà Thanh khoảng năm cây số hơn. Vùng đó hơi xa nhà mà lại quá vắng vẻ vì còn nhiều đồng ruộng.

    Thời gian mà Thanh phải đi và về vào thời điểm đó thì không làm sao có phương tiện để di chuyển được. Thấy Thanh lo lắng, ba Thanh hỏi chuyện và khi biết nguyện vọng của con thì ông nói:

    - Mỗi tối ba sẽ đưa con đi và đón con về bằng xe mobilette của ba. Ba cũng cần ra ngoài một chút vào buổi tối cho khỏe người. Khi nào gia đình mình khá một chút thì sẽ sắm cho con chiếc xe đạp.

    Nghe ông nói vậy Thanh cũng ậm ừ cho qua chuyện vì Thanh biết là cả ngày ông làm trong Sở Bưu điện, tối về ông cũng muốn có những giây phút bên mẹ Thanh cho bà vui vì mẹ Thanh là một tiểu thư đài các khi quen ba Thanh. Cũng vì chiến tranh nên gia đình phải tạm thời gặp khó khăn.

    Ngày đầu tiên nhận việc, Thanh rất vui vì bốn em mà Thanh dạy kèm đều rất ngoan. Bốn em này ở cùng một xóm và học cùng một trường công lập Võ Tánh trên đường Võ Di Nguỵ Các em rất yếu về môn toán và Việt văn. Một ngày nọ, ba của Thanh đến đón anh trễ. Thanh thả bộ ngang qua ngã tư Phú Nhuận thì Thanh để ý thấy có một xe thổ mộ, là loại xe ngựa chở khách rất thịnh hành vào thời điểm này và thường đậu ở ngã tư để đón khách.

    Thấy Thanh, người xà ích vội ngồi thẳng dậy và mời:

    - Cậu đi xe cậu ơi.

    Thanh cám ơn người xà ích và nhân tiện cũng hỏi cho biết giá cả từ đây về nhà Thanh, và Thanh hứa sẽ đi vào một dịp khác.

    Ba của Thanh đã đồng ý với đề nghị của Thanh là từ thứ hai đầu tuần tới, ông chỉ phải đưa Thanh bận đi mà thôi. Khi về thì Thanh sẽ về bằng xe thổ mộ. Thanh cho biết là tiền xe chỉ mất khoảng năm cắc (0,50 xu). Mỗi tháng Thanh dạy kèm từ thứ hai đến thứ sáu là năm ngày, như vậy mỗi tháng mất khoảng mười đồng tiền xẹ Tiền công kèm bốn em, mỗi em một tháng là mười lăm đồng, vị chi Thanh vẫn còn dư đến năm mươi đồng. Thấy con tính như vậy nên ba Thanh cũng tạm yên lòng. Sau một tháng dạy kèm cho bốn em. Lần đầu tiên trong đời, Thanh cầm trong tay số tiền lương mà Thanh kiếm được. Thanh đã yêu cầu mẹ từ nay không phải thức khuya dậy sớm với gánh xôi cực nhọc nữa. Thanh sẽ dựng cho mẹ một sạp báo ở đầu xóm "cho mẹ vui vì có công việc làm".

    Kể từ tháng thứ hai, các em vì mến Thanh nên sau giờ học các em muốn Thanh ngồi lại để "kể đủ thứ chuyện gì mà thầy Thanh biết".

    Từ đó, mỗi đêm Thanh ngồi nán lại với các em thêm một giờ.

    Từ nơi dạy học, Thanh ra đến chỗ xe thổ mộ là mười một giờ bốn mươi phút đêm.

    Người xà ích không lộ một vẻ gì nôn nóng và thái độ thì cũng vẫn bình thản như mọi hôm.

    Đường sá vào những năm đó rất vắng vẻ. Hằng đêm, Thanh từ nơi dạy kèm đi ra đến xe thổ mộ, luôn luôn cũng chỉ có một mình Thanh chứ tuyệt nhiên không có một bóng người hay chiếc xe nào khác chạy trên đường. Nhà cửa ở khu ngã tư Phú Nhuận cũng rất ít oi và nhiều đồng ruộng. Nhà ở hai bên con đường Võ Di Nguy từ ngã tư Phú Nhuận lên đến Đakao thì im lìm then cài cửa đóng.

    Cũng có đôi lúc Thanh rùng mình nghĩ vu vơ về những chuyện ma quái nhưng Thanh vội gạt đi những ý nghĩ đó. Thanh thường nhìn lén người xà ích, Thanh thấy ông ta thật bình thản nên cũng có phần yên tâm hơn và bớt suy nghĩ những điều không hay. Gọi người xà ích là ông chứ Thanh nghĩ tuổi của ông ta chỉ ngoài ba mươi.

    Đêm nay cũng giống như mọi đêm. Thanh ngồi quay lưng lại với người xà ích để hai chân được thòng xuống cái bàn đạp dùng để cho khách bước lên xe. Nhìn cảnh vật hai bên đường đêm nay Thanh thấy sao nó tối tăm quá, mặc dầu nó cũng như mọi đêm qua.

    Đèn không đủ soi sáng lắm ở hai bên đường... nhất là khoảng từ chợ Phú Nhuận lên đến cầu Kiệu. Thanh nghĩ quẩn là nếu chẳng may có một bọn cướp nào đó xông ra chận chiếc xe thổ mộ và bắt Thanh dẫn đi vào con hẻm nào đó thì cũng chẳng có ai dám đuổi theo. Cảnh sát cũng chưa chắc đã dám đuổi theo nói chi đến người dân thường.

    Đang miên man suy nghĩ thì đột nhiên chiếc xe thổ mộ từ từ chạy chậm lại vì có người đứng đón xe.

    Thanh quay đầu lại nhìn thì cũng vừa lúc người xà ích lên tiếng:

    - Cô đi xe, cô ơi.

    - Qua khỏi cầu Kiệu là bao nhiêu tiền hả chú?

    - Dạ,mười xu cô ạ.

    Thanh ngồi tránh qua một bên để người khách bước lên. Khách là một cô gái. Cô gái mặc áo dài nên cô ta cũng ngồi giống như Thanh đang ngồi để hai chân không phải bị gò cong lại như khi ngồi trong lòng xe.

    Thanh là một thanh niên mới lớn và rất rụt rè trong giao thiệp, nhất là với phái nữ. Tuy đang là ban đêm và trời lạnh, nhưng Thanh cảm thấy mặt nóng bừng khi Thanh liếc mắt nhìn trộm người con gái và phát giác ra nàng rất đẹp.

    Mùi thơm của da thịt nàng tỏa ra đã làm cho Thanh ngây ngất thêm và làm cho Thanh thêm rụt rè hơn. Người con gái thì từ khi lên xe chỉ cúi mặt xuống như tìm kiếm vật gì đó dưới lòng đường và, ôm sát chồng sách vào lòng như sợ nó bị ai đó giựt đi.

    Thoảng chốc, người con gái mới ngước mặt lên một chút và rồi lại nhìn xuống mặt đường. Nàng tỏ ra e thẹn khi thỉnh thoảng đụng phải người Thanh vì chiếc xe thổ mộ bị gập ghềnh bởi mặt đường không được bằng phẳng lắm.

    Xe vừa chạy lên giữa cầu thì người con gái quay lại nói với người xà ích:

    - Ngừng ở ngay dốc đầu cầu bên kia nghe chú.

    Sau khi trả tiền xong, người con gái xuống xe và thoăn thoắt bước xuống những bực thềm để đi vào xóm nhà gần đó mà Thanh nhìn theo thì không thấy một nhà nào có ánh đèn.

    Hôm sau, cũng đúng tại địa điểm cũ, người con gái cũng ra đón xe và người xà ích cũng nói lời mời khách như ông đã từng mời Thanh và cô gái mà Thanh đã được nghe.

    Hôm sau nữa là nhằm ngày thứ sáu, cuối tuần, người con gái đó cũng ra đón xe như hai hôm trước nên Thanh không biết người con gái đó ngày hôm sau và ngày sau nữa có ra đón xe không.

    Thanh mong sao cho mau qua hết tuần để gặp lại người con gái đó. Cả ngày Thanh cứ thắc mắc về người con gái. Nàng làm gì và từ đâu ra đón xe vào cái giờ mà trên đường không một bóng người qua lại.

    A, có lẽ người con gái đó cũng đi dạy kèm trẻ như Thanh chăng. Thanh để ý là nàng cũng ôm một chồng sách giống như Thanh vậy. Nàng không thể là... Thanh vội xua đuổi ý nghĩ kinh dị trong đầu và Thanh an tâm là nàng không phải là ma hiện ra để chọc ghẹo chàng.

    Tối hôm thứ hai đầu tuần, bà chủ nhà mà Thanh đến dạy kèm cho biết là Thanh được về sớm hơn một giờ vì lũ trẻ mà Thanh dạy kèm được bà đưa đi đến nhà của người bạn bà chơi.

    Thanh thả bộ ra ngã tư Phú Nhuận. Người xà ích và chiếc xe thổ mộ chưa đến. Thời gian còn lâu mới đến giờ Thanh ra về nên Thanh thả bộ dọc theo con đường Võ Duy Nguy để nhìn ngắm các cửa tiệm.

    Bên cạnh trường công lập Võ Tánh là tòa nhà của Hội Đồng Xã Phú Nhuận. Xa hơn chút nữa về bên trái là rạp hát xi nê Văn Cầm. Một rạp hát nhỏ mà phía sau rạp có một số nhà tranh và còn nhiều đồng ruộng. Phía trước rạp bên kia đường là một cái đình mà Thanh không biết tên. Phía trước cái đình có một cái phông tên nước mà giờ này thì không có ai đến lấy nước nữa. Đi thêm một quãng đường nữa là đến ngôi chợ Phú Nhuận. Giờ này thì dĩ nhiên là chợ cũng không còn nhóm họp buôn bán gì.

    Từ ngôi chợ hướng dài đến chân cầu Kiệu là một dãy nhà lá, nhà tôn lẫn lộn và không có căn nào có tầng lầu. Phía sau những căn nhà đó cũng là những thửa ruộng còn lênh láng nước. Bất chợt Thanh nhìn về phía xa xa nơi ba ngày qua có người con gái cũng hằng đêm cùng Thanh trên chiếc xe thổ mộ. Nơi đó hiện có vài căn nhà có đốt đèn. Thanh đoán người con gái có lẽ giờ này đang ngồi một trong những căn nhà đó.

    Thanh nhìn đồng hồ và vội bước nhanh về khu ngã tư Phú Nhuận. Đến nơi Thanh thấy chiếc xe thổ mộ đã đậu sẵn tự bao giờ. Người xà ích có lẽ quá mệt cho một ngày lao động nên đã nằm ngả lưng ra sàn xe. Thanh không muốn làm mất giấc ngủ mệt nhọc của người xà ích, nhưng Thanh phải giả bộ tằng hắng để người xà ích biết là Thanh đã đến vì Thanh cảm thấy lo nếu để người con gái đứng chờ xe trong một quãng đường quá vắng vẻ.

    Đêm nay, với bao sự mong đợi được gặp lại người con gái cùng đi trên chiếc xe với Thanh trong mấy đêm qua thì, chiếc xe thổ mộ vẫn bình thản chạy qua nơi có người con gái đứng đón xe hằng đêm.

    Thanh cảm thấy một nỗi buồn man mác xâm chiếm vào tâm hồn chàng. Thanh nhìn liếc người xà ích, ông vẫn bình thản cầm cương như không để ý gì đến việc vắng bóng một người khách đêm nay.

    Đã một tuần lễ trôi qua. Ba mẹ Thanh không thể không lo lắng khi thấy con trai mình có vẻ bồn chồn lo lắng một điều gì.

    Các em nhỏ mà Thanh dạy kèm cũng "không thấy thích thú những câu chuyện mà thầy Thanh kể nữa". Những câu chuyện không đầu không đuôi và thường kết thúc bằng một câu:

    - Ngày mai thầy kể tiếp.

    Tối hôm nay khi Thanh vừa ra đến chiếc xe thổ mộ thì trời cũng vừa bắt đầu lâm râm mưa. Một cơn mưa nhẹ đầu mùa. Thanh bước uể oải lên xe và chàng ngồi co chân trong lòng xẹ Thanh không muốn đôi giầy mà chàng đang mang bị ướt.

    - Cô đi xe, cô ơi!

    Thanh như bị điện giựt, chàng ngồi thẳng dậy và ngoái cổ lại nhìn vì chàng biết chắc người xà ích mời người khách mà Thanh đang mong đợi. Người con gái bước lên xe. Nàng hơi lúng túng vì không biết phải ngồi làm sao thì Thanh đã lẹ làng ngồi tránh ra phía ngoài.

    Khi người xà ích chuẩn bị cho xe chạy thì cô gái lên tiếng:

    - Cả tuần nay bị cảm mà bây giờ lại gặp mưa nữa...thật là xui xẻo quá!

    Thanh quay lại nhìn người con gái vì Thanh không biết là nàng nói chuyện với Thanh hay với người xà ích. Người con gái đang hướng mặt về phía trước và, hình như nàng nói câu đó mà không chủ đích nói với ai. Thấy đây là cơ hội mà Thanh đã ấp ủ trong lòng cả tuần qua, và đã... hứa với lòng là Thanh sẽ mạnh dạn để được làm quen với người mà Thanh rất mong nhớ.

    Hít một hơi cho đầy lồng phổi, Thanh nói:

    - Cô nên có một cái áo mưa.

    Nói xong câu đó, Thanh thấy mình quả là không có duyên ăn nói. Chính Thanh cũng không ngờ là có một cơn mưa bất chợt như đêm nay để đem theo áo mưa thì làm sao cô gái biết trước được để mang theo cái áo mưa. Nhưng cô gái đã nở một nụ cười với Thanh và nói:

    - Em... cũng không ngờ là hôm nay lại mưa.

    Thanh nhìn cô gái mà trong lòng thật xao xuyến. Nàng có một nụ cười quá xinh đẹp, với một hàm răng thật trắng và thật đều đặn.

    Thanh muốn nói thêm một câu gì đó mà Thanh không làm sao mở miệng được. Hai tay Thanh thì cứ hết chắp vào nhau lại xoa xoa như là đang bị lạnh lắm.

    Sự im lặng thật dài. Chỉ có tiếng vó ngựa là gõ đều đều trên mặt đường.

    Phút chốc mà chiếc xe thổ mộ đã lên đỉnh cầu và đang đổ dốc. Người xà ích đang ghìm cương để chiếc xe từ từ dừng lại. Tự nhiên Thanh buột miệng:

    - Cô hãy đi mau về nhà để kẻo ướt. Tôi xin được trả tiền xe đêm nay cho cô.

    Một lần nữa, cô gái nhìn Thanh nở một nụ cười thật tươi và lí nhí câu cám ơn rồi bước lẹ xuống những bực thềm dẫn vào khu nhà phía xa.

    Có lẽ người xà ích đã nghe câu nói của Thanh với cô gái nên khi cô ta vừa xuống xe là người xà ích vẫy vẫy cái dây cương để cho con ngựa biết là nó phải tiếp tục cuộc hành trình.

    Ba mẹ Thanh đang ngồi chờ đón Thanh. Hai ông bà ngạc nhiên thấy Thanh bước vào nhà và vừa đi vừa huýt sáo một bài hát vui nhộn. Ba mẹ Thanh nhìn nhau và trên gương mặt của hai người cũng thật rạng rỡ như cũng đang có những niềm vui với nhau.

    - Thưa cô, tôi xin phép được...

    Thanh vừa đi lại trong phòng ngủ, vừa làm điệu bộ nghiêng mình về phía trước và vừa nói. Nhưng Thanh nghĩ làm như vậy không được vì khi xe thổ mộ ngừng là cô gái bước lên xe ngay trong khi Thanh vẫn đang còn ngồi trên xe thì không thể nghiêng mình được. Chẳng lẽ vừa ngồi vừa nghiêng mình.

    Dù sao thì cô gái cũng đã có để ý đến mình nên cô gái đã đồng ý cho mình trả tiền cuốc xe.

    Nghĩ vậy nên Thanh yên tâm và...hứa với lòng là sẽ mạnh dạn hơn trong lần gặp đêm mai.

    - Có lẽ...cô cũng dạy kèm trẻ ở gần chỗ cô đứng đón xe ?

    - Đúng vậy. Sao...anh biết?

    - Tôi đoán vậy thôi vì...anh cũng dạy kèm cho bốn đứa trẻ ở khu ngã tư Phú Nhuận.

    Im lặng một lúc, Thanh nói về công việc của anh và hỏi cô gái:

    - Anh dạy môn toán và Việt văn. Nhà... em ở...dưới đó hả?

    - Dạ, xuống hết các bực thềm rồi quẹo phải và đi theo mé sông đến căn nhà cuối cùng là nhà em đó. Em sống với ba vì mẹ em mất lâu rồi. Ban ngày em đi may tới chiều mới về. Ăn cơm xong là đi đến gần chỗ mà em thường đứng đón xe để dạy kèm cho hai em bé gái học môn sử ký. Em tên là Thơm. A, tới nơi rồi. Thôi em về nhe. Hẹn anh đêm mai. Cám ơn anh đã trả tiền xe cho em. Hôm nay xin cho em được tự trả nghe.

    - Không đáng bao nhiêu mà. Em cứ tự nhiên đi về nhà đi, lát nữa anh trả luôn tiền xe cho. Tên anh là Thanh.

    - Cám ơn anh Thanh nhiều lắm.

    Thanh thật sung sướng trong lòng biết bao. Lầu đầu tiên được làm quen với một người con gái, mà lại là người con gái đẹp nữa; và lại là người có học nữa. Như vậy là cô gái đã thật sự có cảm tình với mình nhiều lắm rồi.

    Thanh lại mong một ngày mau trôi qua.

    - Anh Thanh đối tốt với em nhiều lắm. Em...

    Người con gái ngập ngừng như có điều gì khó nói lắm. Thanh liền tiếp lời:

    - Em...muốn nói gì với anh thì cứ nói, đừng ngại.

    - Em muốn mời anh vào nhà em uống ly trà cho biết nhà. Nhưng em thật sự ngại quá vì nhà em quá nghèo. Em.... sợ anh không được vui.

    - Được em mời đến nhà là quý lắm rồi. Gia đình anh cũng đâu phải thuộc loại giàu có sang trọng gì mà dám chê bai ai.

    - Vậy anh thử hỏi xem "ông xe ngựa" có chịu chờ để đón anh về không.

    Tuy làm như chỉ chú tâm vào việc điều khiển cho con ngựa chạy đúng hướng đúng đường. Nhưng khi nghe cô gái nói đến "ông xe ngựa" là ông lên tiếng ngay:

    - Cô chú cứ tự nhiên. Tôi chờ bao lâu cũng được mà. Nhà tôi cũng ở gần đây thôi.

    Qua dốc cầu và khi xe ngừng lại hẳn, Thanh mau mắn bước xuống trước. Thanh muốn đưa tay đỡ người con gái mà không dám.

    Thanh lẽo đẽo theo sau người con gái như một cái bóng. Vì đường đi quá tối nên cô gái đã vấp vào một vật gì đó nằm trên đường và ngã chúi về phía trước. Thanh mau mắn ôm ngang lưng người con gái để đỡ cho nàng khỏi té.

    Thân thể người con gái chạm vào tay Thanh và chuyền qua Thanh một cảm giác thật lạnh. Thanh thật ái ngại cho người con gái. Tại sao nàng lại không mang hờ theo một cái áo ấm vào ban đêm. Thanh nhớ lại mấy đêm qua, người con gái thường hay ngồi co ro và ôm sát chồng sách vào lòng như để hơi ấm không thoát ra ngoài được. Thanh nghĩ và thấy thương người con gái nhiều hơn. Anh quyết tâm sẽ tặng người con gái cái áo ấm vào đêm mai.

    Đi hết một dãy nhà khoảng bảy hay tám căn gì đó thì Thanh và người con gái đến trước một căn nhà ở cuối dãy nhà mà Thanh vừa đi qua. Căn nhà khá nhỏ nhoi được bao bọc xung quanh bằng ván cây mỏng và nóc nhà lợp bằng lá.

    Người con gái dùng tay đẩy nhẹ cánh cửa và bước vào nhà. Trước mặt Thanh là một cái bàn nhỏ và có một cái đèn dầu cũng nhỏ xíu để bên trên. Kế bên cái đèn là một ấm đựng trà và bốn cái tách được đựng trong một cái dĩa bằng nhôm.

    Sau cái bàn đó là một cái giường được che bởi một tấm màn trắng rất sạch sẽ đã được kéo qua để chẹ Phía bên trái là nhà bếp. Cạnh cái bếp có mắc một cái võng và có một người đàn ông đang nằm trên đó mà Thanh đoán là ba của cô gái. Người con gái lên tiếng khi người đàn ông bỏ chân xuống khỏi cái võng như dự định đứng lên.

    - Đây là anh Thanh, người đã trả tiền xe cho con mà con đã kể với ba.

    Thanh không thấy được rõ mặt người đàn ông vì ánh đèn dầu không đủ soi sáng khắp căn nhà. Thanh gật đầu và lí nhí trong miệng câu chào.

    - Anh ngồi xuống đó đi. Em pha trà anh uống cho ấm. Em bị lạnh quá. Em sợ bị bịnh lắm.

    - Ừ,người em lạnh lắm. Em đi làm đêm mà ăn mặc như vậy dễ bị bịnh lắm đó.

    - Em cũng định tới đầu tháng này em sẽ mua một cái áo lạnh thật dầy, chứ mỗi đêm cứ như vầy thì sợ sẽ không kéo dài được lâu.

    Thanh nhớ lại là người con gái chỉ mới ra đón xe trong vài tuần nay thôi, chứ lúc Thanh mới nhận việc dạy kèm thì đâu có thấy người con gái này ra đón xe. Nàng nói tới đầu tháng sẽ mua áo, như vậy là nàng chờ đầu tháng có lương rồi mới mua áo.

    Thanh thấy thương người con gái này quá. Nàng chân thật quá. Nàng ăn nói thật tự nhiên và rất thân tình với Thanh.

    - Anh uống nước đi.. cho ấm.

    Vì mãi suy nghĩ nên Thanh không để ý người con gái đã rót ly nước cho Thanh tự lúc nào.

    Thanh bưng ly nước lên và uống cạn.

    Người của Thanh lúc này tự dưng nóng lên. Cái đầu thì bần thần như có đeo chì. Mắt thì nhìn cảnh vật xung quanh như mờ mờ ảo ảo.

    Người con gái nhìn Thanh và nói với vẻ đầy lo lắng:

    - Anh Thanh có sao không? Hình như anh bị cảm rồi. Hay anh lại nằm tạm trên cái giường này để em cạo gió cho.

    Nói rồi người con gái bước tới dìu Thanh lại cái giường và cởi áo của Thanh ra để cạo gió.

    Tỉnh dậy, Thanh thấy ba mẹ anh đang ngồi bên giường anh trong bệnh viện Tân Định.

    Ba mẹ Thanh cho biết là những người ở xóm dốc cầu Kiệu phát giác anh bị bất tỉnh nằm trong một nghĩa địa nhỏ gần đó và cảnh sát đã đưa anh vào đây.

    Thanh không biết là anh mơ hay tỉnh. Chuyện vừa qua là có thật hay chỉ là mợ Tại sao anh lại nằm bất tỉnh trong một nghĩa địa nào đó. Như vậy người con gái mà Thanh gặp gỡ là...ma ?

    Thật không thể tin được! Theo các truyện ma quái mà Thanh đã đọc thì...con ngựa của người xà ích sẽ có phản ứng nếu người con gái đó là ma.

    Thanh từ từ nhớ lại những chuyện đã xảy ra đêm hôm qua với anh. Thanh quyết định xin xuất viện sáng nay để cùng với ba Thanh đến xóm dốc cầu Kiệu tìm căn nhà của người con gái.

    Khi Thanh và ba của Thanh đến trước căn nhà cuối cùng bên con sông ở dốc cầu Kiệu thì Thanh nhận biết đây không phải là căn nhà mà Thanh đã đến đêm qua.

    Đang dáo dác tìm căn nhà mà Thanh muốn tìm thì một người đàn ông trong căn nhà cuối cùng trong xóm mà Thanh và ba Thanh đang đứng bước ra hỏi:

    - ông và cậu muốn tìm ai?

    - Tôi muốn tìm căn nhà của cô Thơm làm nghề may ở trong khu này.

    - A, cậu là người hồi sáng đã bị bất tỉnh và nằm trong cái nghĩa địa đằng kia đó phải không? Cô Thơm thì tôi không biết. Vả lại ở đây cũng không có ai làm nghề thợ may cả. Nhưng ở chỗ cái nghĩa địa nhỏ mà cậu bị bất tỉnh đó, thì vào khoảng vài năm trước có một căn nhà của hai cha con. Người cha làm nghề chạy xe thổ mộ mướn. Người con gái thì làm nghề may, nhưng tôi không biết tên là gì vì tôi chỉ mới dọn về đây thôi. Tôi nghe những người xung quanh kể lại là có một ngày kia có một bọn lính Nhật vào đây. Chúng đã thay nhau hiếp cô thợ may. Vừa lúc người cha đi làm về, ông thấy vậy nên đã lấy cây rựa bửa củi ra chém tụi lính Nhật. Tụi lính đó đã bắn người cha chết liền tại chỗ. Cũng vì muốn phi tang nên tụi lính Nhật đã bắn cô gái chết luôn rồi đốt nhà. Căn nhà đang cháy dở dang thì một cơn mưa đổ xuống và dập tắt đám cháy. Người dân ở đây tìm thấy xác chết của hai cha con bị tụi lính Nhật giết nhưng chưa bị cháy hết nên đã được chôn ngay tại chỗ căn nhà đó. Sau này mấy người trong xóm qua đời, người nhà đem chôn cạnh ngay hai cái mả của hai cha con người xà ích và riết rồi thành cái nghĩa địa nhỏ.

    Tháng 12 năm 1974.

    Thanh hiện là một sĩ quan cao cấp còn sống độc thân của Q.L.V.N.C.H.và là Giáo sư giảng dạy tại trường Võ Bị và trường Chiến Tranh Chính Trị tại Đà Lạt.

    Một đêm kia, Thanh ngồi trong một căn phòng thật kín đáo để nghiên cứu một vấn đề gì đó trong một cuốn sách mà Thanh mới nhận được hồi chiều.

    Đêm nay, nơi Thanh đang ngồi bị cúp điện. Người lính cận vệ đã thắp tạm cho Thanh một cây đèn cầy để anh làm việc.

    Trong một lúc Thanh ngẩng đầu lên. Bất chợt anh thấy có bóng một người phụ nữ hiện lên trên vách tường và di chuyển từ cuối phòng đến chỗ anh đang ngồi thì biến mất.

    Thanh nhìn lại phía sau xem ai đang đi đến. Anh rùng mình khi thấy tất cả cửa phòng đều đã được đóng kỹ. Bên ngoài thì tối đen vì vẫn chưa có điện và cây đèn cầy thì đang để trước mặt anh.

    Thanh bình tĩnh ngồi xuống và nhìn về phía vừa xuất hiện cái bóng của một người con gái để tìm câu giải thích cho cái hiện tượng vừa xảy ra.

    Câu giải thích mãi mãi vẫn nằm trong lòng Thanh vì anh biết rằng nếu anh có kể chuyện này ra thì cũng chẳng một ai tin câu chuyện của anh.
    Last edited by Jenny; 26-01-2011 at 10:32 PM.
    xin Mẹ rủ lòng thuơng xót linh hồn Phaolo Trần Bình Nguyên rose4

  10. #10

    Mặc định

    7/Duyên ma

    (Nguyễn Vi Túy)

    Hôm ấy trời mưa như trút nước. Cơn mưa nặng hạt kéo dài từ rạng sáng mà đến xế chiều vẫn chưa có dấu hiệu ngừng tạnh. Mây đen càng lúc càng nhiều khiến bầu trời càng thêm u ám và cảnh vật đằng xa như đã bị phủ chụp nhạt nhòe trong làn nước. Vinh đã mấy lần định lội mưa về nhà, nhưng cái gió lạnh cộng thêm làn mưa tạt tới tấp khiến chàng đã phải hai ba lần chùn bước. Nơi Vinh đang đứng trú mưa là một quán lá bên đường, nhìn thái độ nôn nóng và đứng ở một chỗ không yên, nên bà chủ quán lên tiếng bảo:
    - Cậu đừng ngại, cứ ngồi xuống ghế mà nghỉ. Cơn mưa này chắc cả tiếng nữa mới tạnh, ráng chờ đi, thế nào cũng có xe ôm đi ngang để rước cậu về...

    Vinh khoanh tay trước ngực và rụt cổ lại vì luồng gió lạnh thổi thốc vào quán, rồi lên tiếng:

    - Nhà cháu cũng gần đây, nếu tạnh mưa đi bộ về cũng được...

    Rồi Vinh kể cho bà lão trong quán biết là chàng ở Saigòn về thăm nhà, vừa bước xuống xe đò là gặp trận mưa lớn khiến chàng phải chạy ngay vào quán nước để trú ẩn. Bà lão cũng kể cho Vinh nghe là bà đang chờ đứa cháu gái đi học sắp về, và nó là người phụ bà trông nom hàng quán lúc buổi chiều.

    Vinh nhìn quanh quán lá nghèo nàn, trên sạp gỗ là một ấm nước trà và mấy cái ly cối cáu bẩn, phía trên treo lủng lẳng mấy buồng chuối chín vàng trên các sợi dây thép căng ngang. Cách chiếc ghế đẩu nơi Vinh ngồi là một quầy dừa xiêm đỏ ối dựa vào vách, với mấy cái vỏ dừa nằm lăn lóc dưới nền đất ẩm thấp. Bên trong nơi bà cụ đang ngồi bó gối là một cái giường ọp ẹp trải chiếu đã rách bươm nhiều chỗ, với một mớ chăn mùng hỗn độn quấn để đầu giường.

    Gần lối đi ra đằng sau là một chiếc khung nghiêng lệch đính mấy tấm hình treo trên vách. Tò mò, Vinh đứng lên và bước bên vào trong thêm vài bước để nhìn cho rõ. Đó là tấm hình chụp cô gái mặc áo dài trắng ôm cặp trước ngực, miệng nở nụ cười tươi tắn, và tấm kia là một em bé đứng giữa cặp vợ chồng trẻ. Cả hai tấm hình đều đã ố vàng, bởi tấm kiếng che phủ gió bụi của khung đã bị vỡ mất.

    Thấy Vinh chăm chú nhìn mấy tấm hình, bà cụ chủ quán nói:

    - Con Phượng đó cậu, chút xíu nữa nó về tới là cậu nhận ra nó liền. Nó học trung học trên phố cách xa đây cả mấy cây số, đạp đi đạp về tội nghiệp lắm. Thấy nó ham học mà còn học giỏi nữa, nhưng nhà nghèo quá nên chẳng biết mai này rồi... ra sao nữa!

    Thấy bà cụ vui vẻ kể chuyện nên chàng hỏi tới:

    - Vậy bố mẹ cô ấy đâu?

    Bà cụ chép miệng thở dài:

    - Cái hình bên cạnh là bố mẹ con Phượng đó, nhưng cả hai đều chết sớm hết cả rồi!

    Nói xong bà cụ đưa tay lên dụi mắt ra vẻ buồn rầu khi có người khơi gợi lại dĩ vãng buồn. Rồi cả hai chợt rơi vào trong im ắng vì một người không muốn kể thêm, và người kia lại không dám hỏi tới.

    Được một lúc, Vinh ngó mông ra cửa, chàng thấy cơn mưa đang tạnh dần, chỉ còn tiếng nước tí tách từ mái tranh nhỏ xuống các vũng nước chung quanh nhà. Vinh mừng rỡ đứng dậy, với tay lấy cái cặp da đem theo và nói:

    - Cảm ơn bà đã cho trú mưa, mưa đã tạnh cháu phải về nhà ngay kẻo cả nhà tưởng có chuyện chi lại kéo nhau đi tìm...

    Bà cụ ngẩng đầu lên nhìn Vinh, lắc đầu ái ngại:

    - Giá mà cậu chờ con Phượng về tới, rồi mượn nó chiếc xe đạp mà về thì tốt hơn.

    Vinh nói đùa cho bà cụ vui:

    - Bà biết cháu là ai mà dám cho mượn xe? Nhỡ mai cháu không mang ra trả rồi cô Phượng lấy gì mà đi đến trường?

    Bà cụ cười nhẹ:

    - Tôi biết gia đình cậu mà... Nhưng hồi đó cậu còn nhỏ quá nên không biết tôi là ai thôi. Có phải cậu là cậu Vinh con ông Tuyến trưởng ấp không?

    Vinh rất ngạc nghiên khi nghe bà cụ nhắc đến tên bố mình và chức vụ ngày xưa bố chàng đã từng đảm nhận. Vinh tươi cười nói:

    - Để cháu về hỏi, thế nào bố mẹ cháu cũng biết bà là ai. Xin phép bà cháu về...

    Nói xong Vinh vội vã bước ra khỏi quán, hai tay cầm cái cặp che lên đầu để tránh những hạt mưa bụi. Ngồi trong quán nên Vinh không rõ, cho nên khi bước ra đường lộ chàng đã bị nước ngập sũng hết cả đôi giầy, và nếu không phải cầm cái cặp che đầu thì chàng đã dùng cả hai tay để vén ống quần lên cho khỏi ướt.

    Lội bì bõm một quãng, Vinh nhìn thấy từ xa một bóng trắng đang gò lưng trên chiếc xe đạp. Cô gái di chuyển chiếc xe thật khó khăn vì dòng nước đang thoát đi chan hòa trên mặt lộ. Chàng đoán đây có thể là cô gái tên Phượng mà bà cụ trong quán đang trông chờ trở về từ trường học. Ngay lúc ấy, một chiếc xe đò chạy ngược chiều phóng tới với tốc độ khá nhanh, khiến Vinh bị nước tạt vào mình đến tối tăm cả mặt mũi và suýt té nhào, Vinh vội đưa tay lên vuốt nước trên mặt và khi mở mắt ra thì chàng hoảng hốt muốn la lên cầu cứu khi thấy chiếc xe đạp cong queo nằm giữa lộ, và người mặc áo dài trắng bị hất văng nằm úp mặt nơi vũng nước bên mé đường đối diện... còn chiếc xe đò đã gần như mất dạng ở phía xa.

    Vinh vứt bỏ chiếc cặp đang cầm trên tay, phóng như bay về phía người bị xe đụng. Tới nơi, Vinh ngồi thụp ngay xuống, nâng ngửa người cô gái lên. Tim chàng như thắt lại vì thấy một dòng máu nóng từ sau gáy của cô gái đang chãy xuống chan hòa nơi tay chàng. Không biết làm gì hơn, Vinh vội cởi ngay chiếc áo sơ mi đang mặc trên người để buộc lên đầu cô gái, với hy vọng vết thương sẽ ngưng chãy máu!

    Nhìn làn môi của người thiếu nữ đang thâm tím và khuôn mặt ngày càng trắng bệch vì máu đã chãy ra gần hết từ các vết thương, Vinh biết cô gái đã chết ngay khi bị chiếc xe đò đụng phải với vận tốc cao và hất văng vào mé lộ! Đang khi bối rối chưa biết tính sao thì có một người lái xe Honda đi tới thấy người bị nạn vội thắng xe dừng lại. Vinh mừng rỡ nói lắp bắp:

    - Nhờ ông chạy tới quán nước đằng kia... báo cho bà cụ ở đó biết cô Phượng bị xe đụng...

    Ông xe ôm không biết nạn nhân đã chết nên mau mắn đề nghị:

    - Cậu ôm cô ấy lên xẹ.. rồi tôi chở tới bệnh viện trên phố...

    Vinh buồn bã lắc đầu:

    - Cô ấy chết rồi! Ông đi giùm đị..

    Nghe thế, người lái xe ôm vội quành xe chạy về quán báo tin, còn Vinh thì lòng dạ thẫn thờ ngồi bệt dưới đường lộ và để đầu nạn nhân gối lên một chân của mình, vì chàng không nỡ thấy cô gái bị dòng nước mưa bùn ngập tràn lên mặt.

    Nước mưa ướt sũng đã làm chiếc áo dài trắng mỏng manh quấn chặt vào người nạn nhân và làm nổi bật hết các đường cong trên thân thể của một người thiếu nữ đang xuân. Và dù mặt của Phượng đã trắng bệch, bờ môi tím ngắt vì mưa lạnh, Vinh vẫn tìm thấy ở đó một nét ưa nhìn của một cô gái đoan trang, thùy mị. Đang phân vân suy nghĩ thì Vinh đã nghe thấy tiếng khóc uất nghẹn của bà cụ chủ quán từ đằng xa vọng tới. Bà nhào lại đẩy Vinh ra và ôm chầm lấy Phượng lay qua lay lại:

    -Tỉnh dậy ới con ơi... là con... Sao con bỏ bà mà đi đau khổ như thế này... Ới con ơi là con...

    Lúc ấy trời bỗng dưng mưa trở lại, những hạt mưa quất rát vào người khiến Vinh sực nhớ là mình đang cởi trần, vì chiếc áo của chàng đã buộc chặt trên đầu Phượng. Vinh tính lấy lại chiếc áo nhưng lại không nỡ vì chàng có linh cảm người chết rất thân quen, và nghĩ nàng đã không đơn lạnh khi có chiếc áo của chàng phủ chụp lên mặt.

    Mấy người hàng xóm gần đó cũng chạy ùa đến khi nghe tiếng la khóc của bà cụ. Họ xúm lại khiêng xác Phượng đi ngược trở lại quán, còn Vinh vội ngoắc ông lái xe ôm lại và bảo:

    -Nhờ ông chở tôi về xóm Mía, bên dốc cầu đằng kia...

    Ông xe ôm mau mắn gỡ cái bọc ny lông gài ở đằng trước xe, đưa cho Vinh:

    -Cậu mặc chiếc áo mưa này vào cho đỡ lạnh. Cái áo kia cậu cho cô ấy rồi thì đừng lấy lại... Lấy lại... phiền lắm...

    Vinh không hiểu ý ông xe ôm nói gì, nhưng chàng vội mặc ngay chiếc áo mưa vào người, vì quả thật thân thể chàng đang run lên vì lạnh với hai hàm răng đánh vào nhau kêu lập cập...

    Vừa bước chân vào sân nhà, Vinh đã thấy mẹ chàng đang đứng chờ trước cửa, bà thảng thốt kêu lên:

    -Vinh! Áo sống của con đâu mà cởi trần dầm mưa thế kia? Không sợ bị bệnh à?

    Vinh dơ tay chào mẹ và hấp tấp bước nhanh vào nhà lục tìm mấy bộ quần áo cũ mà mẹ chàng vẫn xếp ngay ngắn trong tủ để chàng mặc mỗi khi về thăm nhà. Thay quần áo xong, Vinh đi ngay xuống bếp tìm hơi ấm, vì chàng biết chắc mẹ đang nấu nướng bữa ăn chiều cho cả nhà. Ngồi bên nồi canh đang sôi sùng sục, và bên dưới là những cục than hồng rực sáng, Vinh kể cho mẹ nghe về tai nạn chết người chàng tình cờ chứng kiến. Nghe xong mẹ chàng chép miệng thở dài:

    - Không ngờ cái gia đình ấy bị họa "ma da" mãi đến mấy đời mà vẫn chưa xong!

    Vinh tò mò hỏi lại:

    - Họa "ma da" là gì vậy mẹ?

    Mẹ Vinh không nhìn chàng, tay cầm muỗng hớt bọt nổi trên nồi canh rồi nhẹ nhàng nói:

    - Con đừng kể với bố về chuyện cởi áo cột lên đầu cô ấy nhé! Đáng lẽ con không nên làm chuyện ấy mới phải!

    Vinh tưởng chuyện "anh hùng" và nhân ái của mình sẽ được mẹ khen ngợi, ai ngờ lại bị chê trách khiến chàng phân vân không hiểu:

    - Tại sao thế mẹ? Chiếc áo ấy có gì quý giá đâu? Với lại lúc ấy con thấy máu trên đầu của cô ta chãy ra nhiều quá nên con phải làm thế thôi.

    Mẹ chàng âu yếm bảo:

    - Con có thấy ai chôn khăn tang bao giờ không? Còn con lại buộc áo trắng lên đầu cô ấy, có khác nào cô ấy để tang con?

    Vinh chống chế:

    - Cái ông lái xe ôm lại nói khác! Ông ấy bảo với con là đừng lấy lại cái áo, cho rồi thì đừng nhận lại...

    - Tại họ không biết gia cảnh của nhà cô ấy nên nói thế... Chứ thực ra là chuyện không nên... vì "ách giữa đàng đừng quàng vào cổ" con à...

    Thấy Vinh có vẻ khó chịu, mẹ chàng đành phải kể thêm về lai lịch nhà cô Phượng để chàng thôi cắng đắng.

    Gia đình ông nội của Phượng là bạn thân với bố chàng, trong một lần đi nhậu về ông Bảng té từ cầu tre xuống sông chết đuối, xác của ông tìm mãi không ra bởi hôm ấy trời mưa lũ và nước sông chãy xiết. Bà vợ của ông vì thương chồng cứ khóc mãi khiến đôi mắt sưng vù và chỉ mấy ngày sau lại ngã chúi đầu vào lu nước mưa để ở sau nhà, lúc bà lần mò đi múc nước rửa mặt. Khi người nhà tìm thấy thì bà đã chết cứng chổng hai chân lên trời.

    Từ đó nhà ông Bảng liên tiếp xảy ra nhiều cái chết đều liên quan đến nước, mà đau thương nhất là vợ chồng Hải (bố mẹ của Phượng) đi vớt cá ở ao nhà, vợ bị chuột rút khi đang ở giữa ao, chồng thấy thế vội nhãy xuống cứu vợ, ai ngờ bà vợ vì quá hoảng hốt kéo chồng chết theo. Nay đến lượt Phượng, đứa con gái duy nhất còn lại của dòng họ này mới bị xe đò tông chết úp mặt xuống vũng nước mưa!

    Mẹ Vinh nói rằng đó là họa "ma da" truyền kiếp, vì nghe đâu ông bố của ông Bảng cũng chết đuối vì đắm thuyền, và bà sợ cái họa ấy nay truyền sang Vinh, vì cô Phượng chưa lấy chồng mà chàng lại chít khăn tang lên đầu nàng bằng cái áo sơ mi đang mặc, thì có khác nào đã nhận người chết ấy là vợ!

    Vinh không tin vào chuyện kể của mẹ, nhưng cũng thoáng rùng mình khi nghĩ lại lúc chàng ôm chặt thân thể của Phượng vào lòng lúc nàng bị nạn. Lúc ấy, bản tính con người, nhất lại là một thanh niên mới lớn, khiến lòng chàng chộn rộn và bối rối khi nhìn thấy thân thể của Phượng như bị lột trần dưới làn nước mưa, và chàng đã phải mấy lần tắc lưỡi thương cảm cho một đóa hoa vắn số. Vinh thầm nghĩ nếu không có chiếc xe đò gây ra tai nạn, nếu Phượng đạp xe về nhà nhanh hơn mấy phút, rồi chàng mượn xe của cô ấy..v.v. thì chắc là hai đứa rồi cũng sẽ quen nhau, và biết đâu...

    Vinh thừ người không dám nghĩ tiếp, vì càng nghĩ chàng lại càng cảm thấy giữa hai người hình như đã có một sợi dây vô hình ràng buộc.

    Sau khi ăn cơm xong và "trình báo" đủ mọi chuyện ăn học ở Saigòn với bố và mẹ thì đã quá nửa khuya, Vinh cầm cái đèn dầu trở về phòng và đặt lên giữa bàn, và khi chàng định đi tới để sập lại cái mái lá che khung cửa sổ, thì Vinh nhìn thấy một bóng trắng lướt qua và một luồng gió lạnh cuốn theo. Vinh hết hồn đưa tay lên chặn lấy ngực, vì chàng đã nhận ra ngay đó chính là Phượng, cô gái chết oan lúc ban chiều!

    Đêm ấy chàng không tài nào ngủ được, và dù cố nhắm mắt, kéo chăn đắp lên tận đầu để dỗ giấc ngủ mà cũng không xong, Vinh liền chồm dậy kiếm một cuốn truyện cũ để đọc. Đang khi lục lọi ở tủ sách, Vinh có cảm giác như có ai đang đứng sau lưng mình, chàng quay phắt lại và sững sờ khi nhìn thấy Phượng mình mẩy ướt sũng đang đứng ở phía cuối giường!

    Bóng ma khoanh tay, co người và run rẩy như đang bị lên cơn sốt lạnh. Vinh thấy thương cảm quá nhưng vì sợ, cứ ấp úng mãi không nói nên lời. Nhắm nghiền mắt, Vinh thu hết can đảm hỏi:

    - Cô đến đây... làm gì?

    Hồn ma yên lặng một lúc rồi mới nói nhẹ như hơi thở:

    - Bộ anh... không nhớ gì... đến em sao?

    Quả thật Vinh có rất nhiều điều để nhớ về cô gái vừa chết trên tay chàng, và điều làm chàng băn khoăn nhất là câu chuyện mà mẹ chàng đã kể về những cái chết bất thường trong dòng họ nàng. Nghĩ thế nên Vinh làm gan ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào hồn ma và nói:

    - Tôi nhớ chứ... Ủa mà sao... chiếc áo của tôi đâu?

    Hồn ma đưa tay lên gỡ mớ tóc rối bời lòa xòa trước mặt rồi trả lời:

    - Em đang muốn hỏi anh điều đó. Anh có bằng lòng để tang cho em không?

    Vinh bối rối:

    - Tại sao phải như thế? Tôi với cô có gì quen biết đâu?

    Giọng hồn ma bỗng rung lên như xúc cảm:

    - Tại vì em không muốn làm ma... mà lại là một hồn ma đơn lạnh... không chồng!

    Vinh tìm cách thối thoát:

    - Chuyện ấy khó lắm... vì cô đã... chết rồi... tôi...

    Hồn ma đưa hai tay lên bụm mặt rồi khóc lên rưng rức. Rồi nàng kể là hồi nhỏ vì nhà gần nhau nên Vinh và Phượng thường qua lại chơi đùa. Sau này lớn lên Vinh được bố mẹ gửi lên Saigòn ăn học vì dưới quê đã hết lớp, và quên dần cô bạn gái thuở nhỏ. Hồn ma kể lể:

    - Tại anh không nhớ em, chứ em làm sao mà quên được.

    Ngày xưa lúc nào anh cũng bênh vực và che chở cho em mỗi khi em bị tụi hàng xóm bắt nạt. Tụi mình còn chơi trò vợ chồng nữa, anh làm chú rể còn em làm cô dâu... anh không nhớ sao?

    Dĩ vãng trở về tràn ngập trong tâm trí Vinh, chàng nhớ ra rồi, Phượng chính là cô bé hàng xóm đã thường qua nhà nhờ chàng chỉ bảo bài vở. Hồi ấy chàng rất ngây thơ, nên không để ý đến những thay đổi ngày một rõ nét nơi con bé Phượng, và mối tình đầu chớm nở trong lòng người thiếu nữ đến tuổi dậy thì.

    Chỉ mấy năm xa cách, bây giờ Phượng đã là một đóa hoa hàm tiếu và chắc chắn đã được nhiều chàng thư sinh trong lớp để ý tán tỉnh, thế mà nàng vẫn nhớ và dành mối tình trong trắng đầu đời này cho Vinh. Nghe xong chuyện kể, lòng Vinh rối bời vì không biết phải xử trí ra sao, bởi mẹ chàng đã căn dặn là không nên ràng buộc với người cõi âm, nhất là gia đình Phượng đang bị họa "ma da" truyền kiếp!

    Vinh đem chuyện lo ngại này ra nói thẳng với hồn ma, hy vọng Phượng sẽ thôi không năn nỉ chàng "kết ước" bằng cách phải đeo tang. Nhưng hồn ma lại nói với Vinh rằng, nàng muốn đi đầu thai sớm nên mới nhờ chàng làm chồng, và những trinh nữ chết oan như nàng sẽ rất dễ trở thành những hồn ma phá phách và báo oán!

    Nói xong, Phượng buồn bã cúi đầu:

    -Anh đừng sợ... hãy giúp em... và giúp em chỉ một lần này thôi...

    Vinh phân vân lưỡng lự:

    -Bố mẹ anh không cho anh để tang đâu! Chắc em biết anh là con trai độc nhất trong nhà mà?

    Thấy không thuyết phục được Vinh, hồn ma lặng lẽ quay mặt và từ từ biến mất xuyên qua bức vách gỗ.

    Vinh nằm thừ người vắt tay lên trán. Chàng nghĩ lại mình có vẻ đã quá khắt khe đối với người đã chết, nhưng giữa Vinh và Phượng đã là hai thế giới khác, âm dương cách trở, trong khi chàng còn có bổn phận phải nối dõi tông đường.

    Lăn qua lộn lại một hồi, Vinh căng mắt mong chờ trời sáng, nhưng vì quá mệt với những chuyện vừa xảy ra nên Vinh đã chìm vào trong giấc ngủ.

    Đêm ấy Vinh mơ một giấc mơ thật thần tiên và đáng nhớ. Vinh rủ một cô bạn học ở trên Saigòn về quê nghỉ hè, và khi hai đứa đang câu cá thì cô bạn trượt chân ngã xuống con rạch nhỏ ở sau nhà. Vinh nhãy xuống kéo nàng lên, và thấy nàng nhắm nghiền mắt, tay chân xụi lợ Vinh làm gan đưa miệng chàng vào môi nàng để làm hô hấp nhân tạo, ai ngờ môi vừa kề môi thì nàng đã mở mắt nhoẻn miệng cười. Tâm hồn chàng đắm đuối say mê vì tay kia của chàng đang vô tình đặt lên trên gò ngực thanh tân của người bạn gái, thế là hai đứa cuộn lấy nhau trong hương tình chất ngất.

    Và khi Vinh lên đến tận đỉnh ngọt ngào của ái ân, chàng đã bất ngờ cắn mạnh một cái vào bên ngực trái của người tình khiến cô ta đau quá phải ưỡn người lên hất văng chàng sang một bên...

    Cú hất ấy đã làm cho Vinh giật mình tỉnh ngủ. Chàng đưa tay quờ sang bên cạnh thì đụng phải suối tóc của một người con gái. Chàng hoảng hồn mở mắt, nhổm người dậy thì chỉ kịp nhìn thấy bóng dáng lõa lồ của Phượng vụt bay lên đưa tay vẫy chào chàng trước khi biḀ¿n mất!

    Vinh biết chàng vừa bị hồn ma của Phượng "đè", và người trong mộng mà chàng "phá tân" lại là cô bạn học ở trên Saigòn chứ không phải Phượng khiến chàng có chút yên tâm. Nhưng khi nhớ lại từng chi tiết thì chàng thấy có nhiều điều trùng hợp với cái chết hôm qua của Phượng. Cũng là người mặc chiếc áo trắng học trò, cũng bị ướt sũng vì nước... và khi tỉnh giấc thì người nằm bên chàng lại chính là Phượng chứ không phải người trong mộng! Vinh run sợ, vì chàng biết Phượng đã ràng buộc chàng bằng một sợi dây vợ chồng, với một lần làm tình dù trong mộng nhưng thật đáng nhớ, vì chàng là người chủ động, là người đã chiếm đoạt sự trắng trong của một người con gái. Đúng lúc ấy nhiều tiếng gà gáy vang từ xa vọng lại, báo hiệu một ngày mới sắp bắt đầu. Vinh chưa kịp bước ra khỏi phòng, đã nghe thấy tiếng mẹ chàng nói vọng sang:

    - Không biết thằng Vinh làm gì mà lục đục cả đêm! Gần sáng nó lại còn nằm mơ kêu la ú ớ...

    Biết bố mẹ đã thức dậy sớm, Vinh cũng lục tục xếp lại chăn gối và bước ra sau vườn để hít thở không khí trong lành của buổi sớm mai. Đi ra đi vào và đắn đo suy tính mãi, cuối cùng Vinh cũng trở vào kể cho bố mẹ nghe chuyện mộng mị lúc gần sáng. Nghe xong mẹ chàng ưu tư bảo:

    - Con bé ấy chết linh! Chuyện đã đến nước này thì không thể thối thác được nữa. Thôi để mẹ dẫn con đến nói chuyện với bà ngoại nó.

    Bố chàng là người trầm ngâm ít nói nhưng cũng đề nghị:

    - Bà nhớ lại nhà ông Thầy Ba, nói khó để ông ấy giúp cho.

    Trưa hôm ấy, khi xác của Phượng chưa được liệm vì còn chờ cảnh sát đến điều tra, Vinh và mẹ đã đến gặp bà cụ chủ quán nước. Xác của Phượng đặt nằm ngay ngắn trên giường và phủ tấm vải trắng ngang mặt, mới nhìn Vinh tưởng là chiếc áo sơ-mi của mình nhưng nhìn kỹ lại thì không phải. Bà cụ ngoại của Phượng nói đó là mảnh vải trắng mà Phượng đã mua từ lâu mà chưa có tiền may, nay bà đem ra phủ xác và sẽ chôn theo vì Phượng rất thích miếng vải lụa trắng này.

    Nghe chuyện mẹ Vinh kể xong, bà cụ rưng rưng nước mắt:

    - Âu cũng là định mệnh! Cậu Vinh về đúng lúc nó chết, mà lại còn chết trên tay cậu ấy nữa! Ngày xưa tụi nó cũng quen biết nhau, thôi thì bà tính sao cũng được, chứ đối với tôi thì chỉ mong sao linh hồn nó sớm được yên nghỉ...

    Mẹ Vinh nhìn về phía thi hài của Phượng:

    - Bà cụ đã cho phép, con tới đốt cho Phượng một nén nhang...

    Vinh tiến lại rút ra 3 cây nhang từ bó nhang để sẵn ở cuối giường, mồi lửa từ cây nến đã đốt sẵn. Khi đầu nhang bén lửa, lửa từ cây nhang bỗng bừng cháy lên phừng phực như các cây nhang có nhúng xăng dầu. Vinh vội vàng quất qua quất lại để lửa ngưng cháy, nhưng nó vẫn bốc lên hai ba lần nữa rồi mới chịu tắt. Chàng vội chắp nhang lên trước mặt vái vái mấy cái rồi thầm nói:

    - Phượng em, sống khôn thác thiêng... Xin em hãy yên nghỉ, mẹ anh đã bằng lòng cho anh để tang em rồi... Ngày mai anh sẽ đến chịu tang em... Anh cầu mong em sớm được siêu thoát...

    Khi Vinh ngẩng đầu lên, chàng thấy tấm vải trắng phủ trên mặt Phượng bỗng lộ ra một dòng máu đỏ. Chàng chỉ tay về phía xác chết và hốt hoảng gọi:

    - Mẹ ơi... Phượng...

    Bà cụ chủ quán cùng mẹ Vinh đều đứng bật dậy, nhìn về phía xác chết. Bà ngoại của Phượng òa lên khóc nức nở:

    - Cháu tôi chết oan... Cháu tôi không muốn chết... Các ông bà ơi... cháu tôi không muốn chết...

    Bà ngoại Phượng tiến đến mở tấm vải trắng che mặt, Vinh và mẹ đều nhìn thấy rõ ràng một dòng máu đỏ tươi đang ộc ra từ khóe miệng Phượng. Bà cụ vội lấy ngay tấm vải đang cầm trên tay để chận lại dòng máu, trong khi Vinh tiếp tục cầm 3 cây nhang lạy lấy lạy để:

    - Phượng ơi... Em đừng làm anh sợ... Anh mà sợ thì ngày mai không đến dự đám tang của em được đâu...

    Dòng máu ộc ra từ miệng của Phượng bỗng dưng ngừng lại hẳn, khiến cả ba người có mặt đều tin là hồn ma của Phượng đang lẩn khuất chung quanh họ, và riêng Vinh thì nghĩ Phượng đã đồng ý với những gì mà chàng đã lâm râm thề nguyện.

    Hôm sau Vinh và mẹ đến dự đám táng Phượng. Thầy Ba, một người chuyên về bùa ngải cũng được cha mẹ Vinh mời tới. Sau khi múa đao và dán bùa lên trên chiếc hòm của Phượng, ông còn nhờ một người trong xóm dùng xà beng để cạy hở phía dưới áo quan. Cũng may bên trong đã có lớp ni lông bao phủ xác chết, chứ không thì nước vàng chãy xuống và mùi tử khí lan ra chắc là không ai chịu nổi. Mẹ Vinh giải thích cho chàng biết đó là cách để chấm dứt họa thần trùng "ma da", vì khi chôn hở hòm như vậy "ma da" sẽ bị chìm luôn, không còn cách để nổi lên kéo chân người khác được nữa!

    Bà ngoại của Phượng đã trao cho Vinh một cái khăn tang và nói chàng hãy cột lên đầu để cho người đã khuất yên lòng mà nhắm mắt. Đám táng của Phượng nghèo nàn và đơn giản đến độ chỉ có vài người theo chân ra cánh đồng, nơi một huyệt lạnh đã được bà con trong xóm đào giúp. Thấy Vinh đeo khăn tang, có vài người thắc mắc nhỏ to, nhưng khi nghe mẹ Vinh giải thích là ngày xưa hai đứa nó là bạn học thì họ thôi không hỏi tới nữa.

    Khi chiếc hòm gỗ đơn sơ được hạ huyệt và lấp lại, Vinh chợt thấy đau nhói trong ngực vì trái tim của chàng bỗng giựt giựt lên mấy cái. Chàng luồn tay vào trong áo đè lên ngực trái cho bớt đau. Khi rút tay ra Vinh bỗng thấy trên mấy đầu ngón tay rươm rướm máu! Hoảng hồn Vinh cúi xuống và mở một nút áo ra xem, thì thấy trên ngực chàng có một vết cắn hằn lên dấu tím bầm...

    Vinh chợt nhớ, trong đêm Phượng hiện về chàng đã có một giấc mộng tuyệt vời khi được ân ái cùng một cô thiếu nữ thanh tân, và khi sướng ngất chàng đã cắn mạnh lên bầu ngực trái của cô nàng... Bây giờ đứng trước mộ Phượng, chàng lại bị cắn lại, như vậy kẻ "trả thù" ấy chắc chắn là Phượng rồi!

    *

    Mười tám năm sau ngày Phượng mất, Vinh lại có dịp trở để trở về quê thăm nhà. Bố mẹ chàng giờ thì đã quá già yếu và chỉ mong sao cho Vinh sớm lập gia đình, bởi chàng là con một. Còn Vinh, dù bận rộn công việc trên Saigòn chàng vẫn chưa thể quên được Phượng, cô gái hàng xóm đã cho chàng một đêm xuân trong mộng và buộc chàng phải chịu tang để nàng sớm được đầu thai. Vinh tin là Phượng đã siêu thoát, bởi từ đó đến nay không bao giờ chàng thấy Phượng hiện về, và cũng chẳng bao giờ nghĩ phải làm thêm điều gì nữa cho Phượng. Nhưng lạ một điều là mỗi khi chàng muốn tán tỉnh hay làm quen với một người đàn bà nào đó thì được, nhưng khi nghĩ đến chuyện lập gia đình với họ thì y như là có chuyện khiến cuộc tình đổ vỡ, làm chàng chán nản và không còn có ý nghĩ thành hôn với bất cứ ai!

    Lần này khi ra thăm mộ Phượng, Vinh thấy bên cạnh đã có thêm mộ của bà ngoại Phượng. Cả hai ngôi mộ đều được bố mẹ Vinh cho xây lại tử tế, với mộ bia có hình ảnh và tên tuổi đàng hoàng. Vinh biết bố mẹ chàng làm điều này là để mua phước cho chàng, vì họ sợ hồn ma của Phượng sẽ kéo theo đứa con cưng duy nhất của dòng họ Nguyễn về bên kia thế giới. Nhìn vào tấm ảnh của Phượng đính trên bia mộ như đang tươi cười với chàng, Vinh thầm nguyện:

    - Người ta để tang vợ có ba năm, còn anh đã mười tám năm rồi. Không biết em còn bắt anh để tang em đến bao lâu nữa đây? Anh đã quá quen với cuộc sống độc thân và lúc nào cũng nhớ tới em, nhưng bố mẹ anh thì khác... hai người ấy vẫn muốn anh phải có vợ... thiệt khổ anh ghê!

    Thì thầm tâm sự một hồi Vinh nhìn lên bia mộ, tấm hình của Phượng chợt úa vàng và từ từ biến dạng khiến Vinh không thể nhìn ra đó là hình của ai nữa. Vinh tuy hơi sợ nhưng lại thấy an tâm vì nghĩ Phượng đã cởi lời nguyền cho chàng, và chắc từ nay sẽ không còn hiểm họa nào theo chân chàng nữa...

    Hôm sau, chàng được lệnh phải thay mặt bố mẹ mang quà mừng đến dự tiệc cưới con của ông cậu, Vinh trong lòng không muốn đi bởi nhà chú rể nằm sâu trong vùng sông rạch. Mười mấy năm qua chàng đã nghe lời bố mẹ mà tránh xa các vùng sông nước, nên khi biết lộ trình đưa dâu phải mất nửa tiếng đi ghe khiến chàng phải phân vân lo ngại, vì lời mẹ chàng vẫn thường nói "có kiêng thì có lành". Nhưng rồi cuối cùng Vinh cũng bận đồ kẻng để đi ăn cưới, bởi chàng tự trấn an rằng họa "ma da" đã không còn đeo đuổi nữa.

    *

    Sau khi ăn cưới và lên ghe trở về, Vinh hân hoan vì thấy chẳng có chuyện gì xảy ra trên sông nước, và chàng cảm thấy vui hơn khi được về chung ghe với mấy cô gái phù dâu. Trong đám 4 cô bạn của cháu, Vinh chấm nhất là cô gái mặc áo dài vàng vì cô bé ấy có khuôn mặt thật dễ ưa, lại thêm đôi mắt lúng lắng hay liếc lén cười thầm, khiến chàng ngẩn ngơ ra mặt.

    Nói chuyện qua lại một hồi, Vinh biết cô gái ấy tên Mai chỉ cách nhà bố mẹ chàng có hai con ngõ. Chàng buông lời chọc ghẹo để có cớ nhìn ngắm cô gái ấy nhiều hơn:

    - Tôi biết vì sao cô Mai thích mặc áo dài vàng rồi?

    Mai thơ ngây hỏi lại:

    - Cháu chẳng biết tại sao! Tại sao thế chú?

    Vĩnh đẩy đưa:

    - Hoa Mai là loại hoa chỉ nở vào mùa xuân, và rực rỡ năm cánh màu vàng. Cô tên Mai thì thích mặc áo màu vàng là đúng rồi...

    Cô gái tên Mai thật thà:

    - Đúng rồi, tên cháu là Xuân Mai mà... Thì ra Xuân Mai là hoa Mai nở vào mùa Xuân, hay thế mà cháu cũng không biết...

    Vinh thấy thích sự thật thà như đếm của mấy cô gái quê, nhưng khi nghe Mai gọi chú xưng cháu với chàng thì Vinh biết là đã có một khoảng cách về tuổi tác khiến chàng cụt hứng vì nghĩ dù có tán tỉnh thêm nữa thì cũng chẳng đi đến đâu!

    Đang khi suy nghĩ vẩn vơ, chàng bực mình vì đã 18 năm trôi qua mà đường tình duyên của chàng vẫn còn lận đận, và mỗi khi chấm được một ai thì y như rằng lại có trở ngại! Các lần trước thì vì môn đăng hộ đối, tôn giáo và lần này.. chắc sẽ là tuổi tác! Dòng tư tưởng của chàng bỗng bị cắt ngang vì một chiếc thuyền máy đi ngang, làn nước rẽ của nó trên sông dội đập vào bên ghe của chàng, khiến cái ghe bé nhỏ chao qua chao lại. Vinh vì đang mơ mộng viển vông không kịp đưa tay nắm giữ lấy thành ghe nên bị hất văng xuống nước. Vừa rơi xuống nước là Vinh đã bị chìm nghỉm vì bộ đồ vét thấm nước nặng trình trịch, đó là chưa kể đôi giày sũng nước cũng làm cho chàng hết cựa quậy. Nghĩ là mình chết chắc vì họa "ma da" đã tới nên Vinh càng cố gắng vung tay múa chân để mong người mình nổi lên trên mặt nước, nhưng càng vùng vẫy Vinh lại cảm thấy chân chàng đã đụng xuống vùng đất bùn dưới đáy lòng sông!

    Nín thở được một lúc không xong, Vinh mở miệng ra để thở thì nước sông đã ồng ộc lấp kín miệng chàng, khiến chàng ngất đi không biết gì nữa...

    Khi Vĩnh mơ màng tỉnh dậy, chàng thấy mình đang nằm trên bãi cỏ ven sông, chung quanh chàng rất đông người bu quanh bàn tán. Thấy chàng cựa quậy nhướng mắt ai nấy đều vui mừng sung sướng, nhưng người mừng rỡ nhất lại là Mai, cô gái đã nhãy xuống sông để cứu chàng:

    - May quá, chú ấy đã tỉnh lại rồi...

    Một ông trong nhóm người đi ăn cưới về cười hỉ hả:

    - May nhờ con Mai bơi giỏi, chứ không thôi cậu Vinh cũng đi thăm Hà Bá rồi!

    Một bà khác nói đùa:

    - Coi bộ con Mai có duyên với cậu Vinh dữ à nhen... Có ai chịu đứng ra làm mai mối cho hai đứa nó không?

    Mai lúc ấy mình mẩy cũng còn ướt như con chuột lột đang ngồi cạnh Vinh, cô gái e thẹn phải lấy cả hai tay để che lên ngực nhằm che dấu nét lộ liễu của chiếc áo lụa mỏng tanh đang như dán vào người. Vinh cố gắng ngẩng đầu lên, đưa tay đụng vào người Mai như một cử chỉ để thay tiếng cảm ơn, khiến Mai vội buông cả hai tay ra để đỡ chàng ngồi dậy. Và khi vô tình áp mặt vào sát ngực của Mai, Vinh đã hết hồn suýt kêu lên thành tiếng...

    Chỉ một tháng sau, lễ cưới của Vinh và Mai đã được tổ chức thật linh đình, vì cả hai gia đình đều chỉ có một con nên bao nhiêu của cải đều hứa dành hết cho cô dâu và chú rể. Vinh ngoài chuyện lấy Mai như một đền đáp ơn cứu tử, chàng còn khám phá ra một bí mật vô cùng quan trọng trong cuộc đời của Mai, và Mai cũng hình như cảm được Vinh chính là người mà nàng đã mong đợi để gửi gấm trao thân.

    Khi làm giấy hôn thú, Vinh thấy Mai sinh ra đúng vào ngày chôn cất Phượng, và đêm tân hôn khi chúi đầu vào vùng ngực thanh tân của vợ, Vinh không cần cắn nữa, mà trên ngực Mai đã có sẵn một bớt son đỏ y hệt ở nơi mà Vinh đã cắn Phượng trong đêm mộng mị cách đây mười tám năm !
    xin Mẹ rủ lòng thuơng xót linh hồn Phaolo Trần Bình Nguyên rose4

  11. #11

    Mặc định

    8 /Nạn nhân thứ tám

    Tôi chạy xe với tốc độ khoảng 130 cây số một giờ. Đồng hồ tốc độ trong xe tôi không chạy, tuy nhiên con đường dài và bằng phẳng trước mặt khiến tôi cảm thấy mình đang chạy ở tốc độ đó.
    Đôi mắt Tân, một thiêù niên tóc đỏ, sáng lên với vẻ hơi man dại khi lắng tai nghe radio. Khi phần tin tức kết thúc, Tân vặn âm thanh nhỏ bớt. Tựa ngửa ra ghế, cậu bé lấy tay chùi miệng trước khi lên tiếng với vẻ thích thú:

    - Cho tới bây giờ, họ đã tìm được bẩy nạn nhân.

    Tôi gật đầu:

    - Tôi biết.

    Rồi đưa một tay lên bóp nhẹ sau gáy để làm giảm bớt sự mệt mỏi, Tân nhìn tôi nhếch mép cười:

    - Ông có điều gì lo nghĩ phải không?

    Tôi liếc nhìn cậu ta thật lẹ rồi nhún vai:

    - Không! Tôi không có gì phải lo nghĩ hết.

    Tân vẫn cười:

    - Cảnh Sát đã lập những nút chặn khoảng một trăm cây số xung quanh thành phố Melbourne.

    - Tôi biết.

    Tân gần như cười khúc khích:

    - Kẻ sát nhân thông minh hơn Cảnh Sát nhiều.

    Tôi liếc nhìn cái túi xách trên đùi thiêù niên tóc đỏ rồi hỏi:

    - Cậu còn đi xa không?

    Tân nhún vai:

    - Tôi cũng không biết nữa.

    Tân là một thiêù niên mảnh khảnh, thấp hơn một người trung bình. Trông cậu ta chỉ vào khoảng mười saù mười bẩy tuổi, nhưng Tân là loại thiêù niên - hoặc thanh niên? - với nét mặt trẻ thơ nên cậu ta cũng có thể đã trên hai mươi tuổi không chừng. Khó đoán.

    Cậu bé chùi tay lên ngực áo trước khi trở lại câu chuyện có vẻ ám ảnh cậu khi hỏi tôi bằng một giọng ngập ngừng:

    - Ông có bao giờ thắc mắc là tại sao kẻ sát nhân lại làm như vậy hay không?

    Tôi vẫn nhìn thẳng vào đoạn đường trước mặt:

    - Không.

    Cậu ta liếm môi:

    - Theo ý tôi, có thể hắn bị đè nén quá mức. Suốt đời hắn, luôn luôn bị đè nén. Lúc nào cũng có người bắt hắn phải làm việc này việc nọ mà hắn không muốn. Tới một lúc bị đẩy đi quá xa, hắn không còn chịu đựng nổi nữa... Họ đã đẩy hắn thêm một lần cuối, quá xa!

    Tôi giữ yên lặng, không có ý kiến. Tân nhìn thẳng về phía trước:

    - Bị đẩy đi quá xa, hắn bùng nổ. Bất cứ việc gì cũng có giới hạn, và... ông biết không, một người dù nhẫn nhục đến đâu đi nữa, khi bị đẩy quá một biên giới nào đó, cũng phải bùng nổ.

    Tôi vừa hơi lơi chân ga một chút, Tân đã lập tức quay sang nhìn thẳng vào mặt tôi:

    - Tại sao ông lại lái chậm lại?

    Tôi bình tĩnh đáp:

    - Xăng còn ít quá. Cây xăng phía trước là cây xăng đầu tiên tôi thấy trên đoạn đường dài cả trăm cây số. Biết đâu phải cả trăm cây số nữa mới lại có một cây xăng khác.

    Tôi lái xe vào lề đường trước khi quẹo vào một trạm xăng với ba cây xăng cũ kỹ. Một ông già từ trong trạm xăng bước ra, lặng lẽ tiến tới phía tôi. Tôi lên tiếng:

    - Ông làm ơn đổ đầy bình và kiểm soát nhớt dùm tôi luôn.

    Trong khi ông già làm việc, Tân lặng lẽ nghiên cưù trạm xăng. Đó là một căn nhà nhỏ bằng fibro mái tôn, nằm giữa một đoạn đường rừng mênh mông. Sau khung cửa, tôi thoáng thấy một cái bàn, giấy tờ bừa bộn và qua khung cửa kiếng bụi bặm, tôi nhìn thấy một cái điện thoại trên tường.

    Tân có vẻ hơi nóng ruột, bẻ mấy khớp ngón tay kêu răng rắc:

    - Ông già này chậm quá. Tôi không thích chờ đợi.

    Rồi vừa nhìn ông già giở nắp xe lên kiểm soát dầu máy, cậu vừa nhìn tôi nói thật chậm rãi:

    - Tại sao một người già cả như vậy mà vẫn còn muốn sống? Ông ta chết đi có lẽ tốt hơn.

    Tôi tránh cái nhìn có vẻ đe dọa của cậu, móc túi lấy bao thuốc và hộp quẹt, lấy một điêù thuốc đặt lên môi, bật hộp quẹt châm điêù thuốc, rít một hơi dài. Tôi cố tình làm việc này một cách chậm chạp. Rồi sau khi quay ra cửa xe, thở một hơi khói dài khoan khoái, tôi quay lại nhìn cậu:

    - Ông ta không đồng ý với cậu đâu.

    Đôi mắt liếc nhanh về phía văn phòng, Tân nhếch mép cười, có vẻ không để ý đến câu nói của tôi. Cậu hỏi tôi với vẻ dọ dẫm gần như thách thức:

    - Trong đó có điện thoại, ông có cần gọi cho... ai không?

    Tôi thở ra một hơi khói nữa:

    - Cậu muốn nói gì? Ai?

    Tân nheo mắt:

    - Thì... cảnh sát chẳng hạn.

    - Để làm gì?

    Tân vẫn với nụ cười bất cần đời:

    - À, nêù không thì thôi.

    Khi ông già đem tiền thối lại cho tôi, Tân hỏi:

    - Ông có nghe radio không?

    Ông già lắc đầu:

    - Không, tôi thích yên tĩnh hơn.

    Tân gật gù có vẻ hài lòng:

    - Đúng, ông làm đúng đó ông già. Không nghe radio ông sẽ sống thọ hơn.

    Lái trở ra xa lộ, tôi tống ga cho xe chạy với tốc độ khoảng trăm hai trăm ba một giờ.

    Cậu bé ngồi yên vài phút trước khi lên tiếng:

    - Phải có can đảm mới hạ sát được tới bẩy người. Ông đã bao giờ cầm súng trong tay hay chưa?

    - Cũng thỉnh thoảng.

    Đôi mắt Tân sáng lên:

    - Có bao giờ ông chĩa súng nhắm thẳng vào ai chưa?

    Tôi liếc nhìn cái túi xách trên đùi Tân thật lẹ, không đáp. Tân tiếp tục nói với vẻ khích động:

    - Ông sẽ có một cảm giác thích thú khi có người sợ ông. Khi có cây súng trong tay, ông không còn bé nhỏ như thiên hạ thường nhìn ông nữa.

    Tôi phụ họa:

    - Đúng. Không bao giờ thiên hạ dám coi một người cầm cây súng trên tay là một thằng lùn hoặc một thằng lỏi nữa.

    Nét mặt Tân như bừng sáng lên. Tôi nói tiếp:

    - Cậu sẽ là người cao lớn nhất thế giới khi có cây súng trên tay. Với điều kiện là không người nào khác cầm súng đối diện với cậu.

    Tân có vẻ khích động hơn, nhìn tôi nhếch mép cười:

    - Phải là người can đảm lắm mới dám giết người. Hình như thiên hạ không mấy người biết điều đó.

    Tôi hắng giọng:

    - Một trong bẩy nạn nhân là một đứa bé lên năm. Cậu nghĩ sao về việc đó?

    Tân liếm môi:

    - Có thể là... tai nạn!

    Tôi lắc đầu:

    - Sẽ không ai nghĩ như vậy.

    Đôi mắt Tân có vẻ như bất định trong khoảnh khắc trước khi hỏi lại tôi:

    - Ông có đoán là tại sao... hắn lại hạ sát một đứa trẻ mới lên năm hay không?

    Tôi nhún vai:

    - Kể ra cũng khó đoán. Kẻ sát nhân hạ sát một người, một người, rồi một người nữa. Có thể sau khi đã giết vài mạng, đối với hắn, việc nạn nhân là đàn ông, đàn bà, hoặc trẻ con cũng chẳng có gì khác biệt.

    Tân gật gù:

    - Có thể... Ông cũng có thể tìm thấy cái thú trong việc giết người. Cũng chẳng khó gì. Sau một vài mạng đầu tiên, sẽ không có gì đáng kể nữa và ông sẽ cảm thấy rất thích thú.

    Tôi không nói, chỉ lặng yên suy nghĩ. Sau khoảng năm phút yên lặng, Tân lại lên tiếng:

    - Họ sẽ không bao giờ bắt được hắn. Hắn rất thông minh.

    Tôi liếc nhìn cậu ta thật lẹ:

    - Sao cậu biết? Cả nước này đang truy nã hắn. Cả nước này ai cũng biết rõ hình dạng kẻ sát nhân.

    Tân nhún vai:

    - Có thể hắn cóc cần điều đó. Hắn chỉ làm những gì hắn phải làm. Bây giờ, đối với mọi người, hắn là một con người vĩ đại.

    Chúng tôi lại yên lặng trong khoảng hai cây số. Cuối cùng, không dằn được, Tân cựa mình trong ghế:

    - Ông nghe tả hình dạng của kẻ sát nhân trong radio.

    - Liên tục một tuần qua.

    Tân nhìn tôi với vẻ tò mò nhiều hơn là ngạc nhiên:

    - Ông không sợ khi cho tôi quá giang hay sao?

    - Không.

    Nụ cười của Tân vẫn có vẻ ranh mãnh:

    - Ông là người có bộ thần kinh bằng thép.

    Tôi lắc đầu:

    - Không hẳn. Tôi cũng biết sợ khi nào tôi phải sợ. Thế thôi!

    Tân vẫn nhìn thẳng vào mặt tôi:

    - Tôi hoàn toàn giống hình dáng kẻ sát nhân được mô tả trong radio. Ông có nhận thấy điều đó hay không?

    - À...

    Tân cười thích thú:

    - Tôi trông giống kẻ sát nhân. Mọi người đều sợ tôi. Tôi rất thích điều đó.

    Tôi mỉm cười:

    - Có thể cậu không còn được thích thú bao lâu nữa đâu.

    Tân không thèm để ý tới câu nói của tôi. Hắn tiếp:

    - Tôi bị cảnh sát chận lại cả thẩy ba lần trên xa lộ này trong hai ngày qua. Tôi được mọi người biết tới không kém gì kẻ sát nhân.

    - Tôi biết. Nhưng tôi nghĩ rằng cậu sẽ còn nổi tiếng hơn nữa và tên tuổi của cậu sẽ được đăng tải trên báo chí. Để tôi tìm một chỗ nào trên xa lộ này cho cậu.

    Tôi lơi chân ga cho xe chạy chậm lại trước khi hỏi Tân:

    - Còn tôi thì sao? Tôi coi có giống kẻ sát nhân hay không?

    Tân nhìn tôi nhếch mép cười với vẻ chế diễu:

    - Không! Tóc ông màu đen, còn kẻ sát nhân tóc đỏ, như tôi.

    Tôi mỉm cười:

    - Cậu nhìn kỹ xem có phải tôi nhuộm tóc hay không?

    Tân nhìn chăm chăm vào mái tóc của tôi rồi đôi mắt cậu bé trợn tròn lên khi chợt hiểu việc gì sẽ xẩy ra cho cậu.

    Cậu sẽ là nạn nhân thứ tám.

    oOo
    xin Mẹ rủ lòng thuơng xót linh hồn Phaolo Trần Bình Nguyên rose4

  12. #12

    Mặc định

    9/ Có ma hay không?

    Người Kể Chuyện Ma

    Lời nói đầu: Ma quỷ là một vấn đề đã có tự ngàn xưa. Ngày còn nhỏ, chúng ta ai mà chả có lần ngồi co rút hai chân nghe kể chuyện mạ Tuy nhiên, ngày nay nhiều người cho rằng ma quỷ chỉ là sản phẩm của óc tưởng tượng.
    Có lẽ chỉ những ai đã gặp ma mới biết là có ma, còn những người chưa bao giờ gặp thì nửa tin nửa ngờ, nhất là quý bà.

    Người viết xin không có ý kiến về vấn đề ma quỷ này mà chỉ xin thuật lại hầu quý vị một số những câu chuyện ma do các độc giả cuả một tờ báo Úc kể lại. Cũng xin nói thêm rằng hầu hết các địa danh trong chuyện đều thuộc tiểu bang New South Wales.

    *

    Cách đây 19 năm, Mary là phụ tá thanh tra tại khám đường Mullawa dành cho nữ phạm nhân tại tiểu bang NSW. Một hôm, trong tường thành khám đường, Mary thấy một con ma bước ra khỏi cơn mưa. Cô thuật lại:

    - Thật hết sức lạ lùng! Hôm đó, sau khi gặp giám đốc khám đường, tôi băng qua đường để về văn phòng thì đột nhiên có một cái gì khiến tôi quay lại và thấy một cô gái tóc dài đen nhánh trong bộ đồ màu xanh nước biển đứng thu mình bên lề đường. Tôi la lớn bảo cô ta vào bên trong rồi quay đi. Nhưng ngay sau đó khi tôi nhìn lại, cô ta đã biến mất.

    Tôi bước vào phòng giặt, nơi trước kia được dùng làm nhà xác và hỏi xem cô gái ướt nhẹp kia đâu rồi. Không ai thấy cô ta hết. Tôi chợt nhớ là tù nhân không được để tóc dài như vậy và lối ăn bận cũng khác, và tôi băn khoăn tự hỏi cô gái đó là ai.

    Sau đó, Mary nghỉ phép và khi trở lại làm việc, câu chuyện của cô được một nhân viên khác của khám đường xác nhận. Mary nói:

    - Người này là nhân viên mới và không hề biết gì về câu chuyện của tôi, nhưng đã kể lại cho tôi nghe câu chuyện y hệt như tôi vừa kể hầu quý vị.

    David cư ngụ tại Maroubra nói rằng anh là người rất đa nghi nhưng không thể cắt nghĩa được sự hiện diện của hồn ma người anh của anh đi tới đi lui trong nhà.

    David cho biết:

    - Anh tôi thiệt mạng trong một tai nạn xe hơi vào năm 1981. Trong tai nạn đó anh bị mất một chân.

    Kể từ đó, những sự việc lạ lùng đã xẩy ra trong nhà. Mọi vật di chuyển một cách bí mật trong đêm; những cái gạt tàn thuốc từ phòng khách tìm được đường vào phòng ngủ của tôi; Ti Vi tự nhiên bật lên giữa đêm và đèn ngoài hành lang nhiều khi không chịu tắt!

    Tôi nghĩ rằng linh hồn của anh tôi đi khắp nơi trong nhà vì nhiều khi tôi nhìn thấy một người chỉ có một chân trong phòng.

    Đôi khi David bị đánh thức giữa đêm vì những tiếng động trong phòng nhỏ để quần áo - người Úc gọi là walk-in wardrobe. Tiếng động đó giống như có người đang lục lạo lung tung để tìm một chiếc giầy bị mất hoặc một cái gì tương tự. David kể tiếp:

    - Khi tôi bước vào coi thì giầy dép bị vứt lung tung đè lẫn lên nhau, trong khi những cái áo đã được máng đàng hoàng cũng nằm lăn dưới đất.

    David nói thêm rằng hồn ma này chỉ xuất hiện ngoài phòng khách và trong cái phòng ngủ mà hai anh em David thường ngủ chung trước khi người anh thiệt mạng.

    Một đêm, Michael bị đánh thức bởi hồn ma của một thổ dân trong phòng ngủ của anh ở Lalor Park. Michael thuật lại:

    - Tôi chỉ mới ở đó được có một tuần. Đêm hôm đó, tự nhiên tôi thức giấc vào lúc nửa đêm.

    Tôi nhìn thấy một thổ dân bước xuyên qua cửa phòng ngủ của tôi, tiến tới sát bên giường, ngừng lại nhìn tôi. Rồi ông ta đi ngang qua phòng và bước xuyên qua tường đi mất.

    Michael, 29 tuổi, không hề sợ hãi và năm năm sau vẫn còn ở đó. Anh nói:

    - Thỉnh thoảng tôi lại thoáng nhìn thấy ông ta và ông ta có vẻ là một con ma vui vẻ. Ông ta ở đây cũng khá lâu và không gây phiền hà gì cho ai hết.

    Quá bực bội với con ma ám ảnh căn nhà của bà tại Bilgola Plateau, Lorna bèn cho con ma... chết luôn!

    Câu chuyện nghe có vẻ bất thường và hơi khó tin này là một câu chuyện có thật 100 phần trăm.

    Cách đây 14 năm, hai vợ chồng Lorna dọn tới căn nhà được xây bởi một người tên là Charlie.

    Vợ chồng Lorna thường bị đánh thức bởi những tiếng động bất thường mà họ không tìm được nguồn gốc. Sau khi nói chuyện với hàng xóm, họ khám phá ra là Charlie đã chết trong căn nhà này vì chứng đau tim, và những tiếng động bất thường mà họ vẫn nghe do hồn ma Charlie gây ra.

    Một buổi chiều, vợ chồng Lorna đi ngủ sớm, nhưng Charlie - tên vợ chồng Lorna đặt cho con ma - lại gây thật nhiều tiếng động khiến hai người không tài nào ngủ được.

    Lorna, 52 tuổi, kể lại:

    - Bực quá, tôi cho hồn ma Charlie một trận.

    Tôi nói với hồn ma rằng căn nhà này là của vợ chồng tôi và chỉ đủ chỗ cho hai vợ chồng tôi. Ông ta không có lý do gì nấn ná lại đây. Muốn sống muốn tốt ông ta phải lập tức đi chỗ khác. Đừng để tôi nổi giận lên, đến lúc đó ông ta có muốn đi cũng không còn kịp nữa.

    Việc đó xẩy ra cách đây đã bốn năm và có lẽ Charlie là một con ma biết điều, biết chúng tôi không bằng lòng cho ông ở trong nhà. Từ đó tới nay chúng tôi không còn bị con ma Charlie quấy rầy nữa.

    Sáu tháng sau khi Sylvia, vợ của Jim qua đời, Sylvia đã trở lại dưới một hình thức khác.

    Jim thuật lại:

    - Một buổi tối, tôi ngồi trước bàn. Trên bàn là một cái gạt tàn thuốc, một cái ly và một cái dĩa.

    Khi tôi nhìn cái dĩa thì nó tự động di chuyển về phía tôi. Tôi nói "Làm nữa đi Syvia", và cái dĩa tiến về phía tôi thêm hai ba phân nữa.

    Jim, 64 tuổi, bèn kiểm soát xem cái bàn có vững chãi hay không. Rất vững. Jim cũng nghe Sylvia, người vợ từ trần một cách đột ngột của ông, gõ cửa. Jim nói:

    - Tôi thức dậy thật sớm, luôn luôn cùng giờ, và nghe tiếng gõ cửa.

    Khi ông ra mở cửa, không bao giờ có người nào ở bên ngoài. Con trai của Jim cũng nhìn thấy hồn ma Sylvia trong nhà ở Wollongong, một thành phố biển cách Sydney trên dưới một trăm cây số.

    Jim cho biết:

    - Con trai tôi cũng nhìn thấy vợ tôi đứng trước cửa phòng ngủ thứ nhì trong nhà. Như vậy, không phải chỉ mình tôi nhìn thấy Sylvia.

    Dennis thề sẽ không bao giờ ăn cắp trái cây nữa sau khi bị một con ma bắt gặp.

    Denis, 49 tuổi, lớn lên tại Greenacre, Sydney. Ông cư ngụ gần một căn nhà cây cũ kỹ có nhiều cây ăn trái của một cặp vợ chồng già. Dennis và lũ bạn thường ăn cắp mớ trái cây khiến ông già rất giận dữ. Dennis hồi tưởng lại:

    - Khi đó vào khoảng năm 1950, hai vợ chồng ông già từ trần cách nhau một tuần, tôi không nhớ tại sao. Một tuần lễ sau khi họ chết, tôi và một thằng bạn tới hái mấy trái mận. Bạn tôi leo lên cây và tôi đứng canh dưới đất. Mặc dù chiều hôm đó trời gió và mưa, tôi nhận thấy một luồng khói bốc lên từ đường cống. Mới đầu tôi không để ý cho tới khi cuộn khói tròn, đường kính khoảng 3 thước tiến về phía chúng tôi.

    Khi còn cách chúng tôi khoảng 12 thước, trái banh khói trở lên cao hơn, hẹp lại và nổi trên mặt cỏ. Đột nhiên tôi tự hỏi tại sao gió không thổi trái banh khói đó đi trong khi cỏ cây bị gió thổi ngả nghiêng. Tôi la lớn gọi bạn tôi nhảy xuống, vừa la vừa chỉ vào trái banh khói. Bạn tôi bay từ trên cây xuống đánh ụỳch một cái và chúng tôi chạy nhanh như hỏa tiễn.

    Dennis, hiện cư ngụ tại Padstow, nói rằng ông không phải là người tin dị đoan nhưng không thể nào cắt nghĩa được về sự hiện diện bất thường của trái banh khói ma quái đó:

    - Tôi chỉ có thể kết luận được rằng đó có thể là sự kết tụ sinh lực của một người nào từng sống trong căn nhà đó.

    Colin, cư ngụ tại Darlinghurst, Sydney, nhớ lại giây phút linh hồn vợ ông lìa khỏi xác sau 14 ngày hôn mệ Ông kể lại:

    - Vợ tôi và tôi bị một tai nạn xe hơi và nàng được đưa vào bệnh viện Newcastle.

    Nàng bị hôn mê, và sau 11 ngày, bác sĩ nói rằng vợ tôi chỉ còn sống được mấy tiếng đồng hồ nữa. Thực ra nàng đã sống thêm được ba ngày.

    Vào ngày thứ nhì, tôi và một người anh đang ở bên cạnh giường nàng thì mọi vật đột nhiên trở nên hoàn toàn yên tĩnh, giống như có một cái gì bao bọc chúng tôi.

    Chúng tôi nhìn thấy các bác sĩ và y tá làm việc trong phòng bệnh khẩn cấp nhưng không nghe thấy gì hết. Tôi nhìn vợ tôi và những gì chúng tôi thấy thật không tưởng tượng nổi. Phía ngoài của vợ tôi "thoát xác" từ thân thể nàng, dâng lên từ từ và ở đó khoảng 60 giây trước khi biến mất.

    Tôi hiểu rằng vợ tôi đã ra đi. Nàng tắt thở vào hôm sau.

    Peter, cư ngụ tại Mona Vale, còn nhớ rất rõ việc nhìn thấy một con ma vào tháng Mười Hai năm 1976. Lúc đó Peter và người em rể đang câu cá tại một vị trí xa xôi tại Towanton, gần Noosa Heads, tiểu bang Queensland.

    Ông kể lại:

    - Chúng tôi đang đứng câu trên cái phà dùng để chuyên chở xe hơi. Đột nhiên chúng tôi nghe có tiếng lào xào trong những bụi cây mà chúng tôi đoán là một con possum hoặc con kangaroo.

    Tiếp theo là những âm thanh như tiếng cành cây bị bẻ, làm như có ai đang cố tình dọa chúng tôi.

    Hai đứa chúng tôi chạy vội lên xe và khi nhìn lại, chúng tôi nhận thấy một hình người mờ mờ với hai lỗ mắt đen thui.

    Peter nói rằng hồn ma đứng tựa vào một hàng rào, một tay đặt ở một bên đầu và "nhìn thẳng vào chúng tôi".

    Ông kể tiếp:

    - Khi tôi bật đèn xe hướng về bóng ma thì nó biến mất, nhưng khi tôi tắt đèn, nó lại hiện ra tại cùng vị trí lúc trước.

    Chúng tôi bèn lái xe tới nhà em rể tôi cách đó một cây số, lấy một cây đánh cricket và một con dao dài rồi trở lại. Khi chúng tôi tới nơi, bóng ma vẫn còn đó. Tôi chớp đèn thì nó biến mất và khi tôi tắt đèn, nó lại hiện ra.

    Quá kinh hoàng, chúng tôi lái tới ty cảnh sát Towanton. Các nhân viên cảnh sát cho là hai đứa chúng tôi điên, nhưng họ thấy rõ là có một cái gì đó khiến chúng tôi sợ hãi.

    Một cảnh sát viên đi theo chúng tôi tới chỗ cũ nhưng bóng ma đã biến mất không để lại một dấu vết gì. Tuy nhiên, nhân viên cảnh sát này tin ở những gì chúng tôi nói nên đã ở lại đó tới hai tiếng đồng hồ.

    Con ma không hề trở lại.

    Walter đang lái xe ở miền Nam nước Anh cùng một người bạn thì thấy một cô gái đứng bên lề đường xin quá giang. Walter, 54 tuổi, thuật lại:

    - Lúc đó trời mưa tầm tã nên chúng tôi tắp vào lề cho cô gái lên xe.

    Cô nhảy lên xe với chúng tôi và cho biết địa chỉ. Cô ta rất yên lặng và cả hai đứa chúng tôi đều không để ý nhiều tới cô ta. Khi tới địa chỉ của cô gái, chúng tôi ngừng xe, quay lại nhìn cô thì cô ta đã biến mất. Tò mò, chúng tôi tới gõ cửa căn nhà. Một thiếu phụ ra mở cửa và sau khi nghe chúng tôi thuật lại câu chuyện, hỏi chúng tôi đã cho cô ta lên xe ở chỗ nào. Khi tôi cho biết địa điểm, bà nói:

    - Đó là nơi con tôi thiệt mạng cách đây bẩy năm. Khi đó tôi mới chợt nhớ ra là khi cô gái bước lên xe, cô không hề bị ướt dù trời mưa tầm tã.

    Walter, cư ngụ tại Padstow, hiện rất tin tưởng vào vấn đề siêu nhiên.

    oOo
    xin Mẹ rủ lòng thuơng xót linh hồn Phaolo Trần Bình Nguyên rose4

  13. #13
    Lục Đẳng Avatar của kiếp mù lòa
    Gia nhập
    Oct 2010
    Nơi cư ngụ
    hoa quả sơn
    Bài gởi
    21,931

    Mặc định

    trời ơi! truyện nào cũng hay cực
    haiz...........................

  14. #14
    Lục Đẳng Avatar của kiếp mù lòa
    Gia nhập
    Oct 2010
    Nơi cư ngụ
    hoa quả sơn
    Bài gởi
    21,931

    Mặc định

    cám ơn chị jenny nhiều
    haiz...........................

  15. #15

    Mặc định

    đọc mệt nghỉ
    Người đạo sĩ cuối cùng

  16. #16

    Mặc định

    còn ko chị ơi, đọc phê cả người :D
    Thực là thực - ảo là ảo
    Thực có ảo - Ảo có thực
    Thực thực - Ảo ảo
    Ảo ảo - thực thực

    Hùng Airang Phiêu Bút .....................................

  17. #17

    Mặc định

    Ma nữ gốc đa
    Chuyện này tôi được nghe từ người già trong làng.

    khi đó là vào khoảng những năm 50 .hôm đó Hoàng và Thanh hẹn nhau sáng hôm sau cùng lên chợ huyện Hoàng đi bán đôi lợn giống còn Thanh đi mua một số thứ lặt vặt .Do chợ xa nhà mà thời đó chỉ đi bộ đến chợ nên họ hẹn nhau canh 3 tại cây đa đầu làng.Đúng như lời hứa Hoàng dậy rất sớm rồi vô chuồng lợn bắt đôi lợn cho vào rọ rồi đi thẳng tới đầu làng trời khi đó hẵn còn tối đen chỉ nhìn thấy mờ mờ.

    Khi gần tới chỗ hẹn xa xa Hoàng thấy 1 bóng người tưởng Thanh đã tới nên nhanh chân tiến lại gần nhưng khi tới nơi thì không phải là Thanh mà là một cô gái tuy trời tối nhưng Hoàng vẫn cảm nhận được vẻ đẹp tuyệt vời từ cô gái với cái eo thon thả cùng với mùi hương hoa bưởi thoang thoảng toát ra từ mái tóc dài và đen óng của cô gái .Anh ngẩn người ra thì cô gái bổng quay lại.Cô có vẻ sợ sệt toan định bỏ đi nhưng thấy Hoàng không có vẻ gì là người xấu và đồng thời Hoàng lên tiếng hỏi:
    Chào cô, cô đi đâu có việc gì vậy sao lại đi qua đây vào giờ này.
    Cô gái cất giọng trả lời:
    Dạ , em chờ bạn em để cùng lên chợ mua mấy cái liềm và ít kim chỉ ạ! còn anh?
    àh! tôi cũng đợi bạn để cùng lên chợ huyện bán đôi lợn ấy mà.Nói chuyện một lúc thì Hoàng được biết cô gái tên Mai ở xóm chùa xã dưới.Họ càng nói chuyện họ càng thấy tâm đầu ý hợp.Tuy mới chỉ là lần đầu gặp gỡ nhưng cứ như là quen nhau từ rất lâu rồi.Mà điều quan trọng nhất là cô gái chưa có ý chung nhân còn Hoàng nhà nghèo quá lên đã ngót nghét ba mươi tuổi rồi mà vẫn chưa có vợ.Hôm nay,như ông trời thương sót cho anh gặp được ý chung nhân.Cô gái như cũng hiểu được ý của Hoàng và cô cũng tỏ ra mến chàng.

    Rồi không hiểu sao khoảng cách giữa hai người rút gần lại.không biết từ bao giờ cô gái đã nằm chọn trong vòng tay của Hoàng .Chuyện gì đến đã đến họ đã trao nhau lời yêu thương và hứa hẹn.Họ nằm với nhau và nàng đã tặng cho chàng lần đầu tiên của mình và sau đó Hoàng ngỏ ý muốn đến nhà Mai để xin phép gia đình cho hai người đi lại rồi 1 thời gian nữa sẽ tính chuyện cưới hỏi nhưng cô bé không chịu vì lí do gia đình đang có tang nói chuyện đó không tiện hay để thời gian nữa,Hoàng cũng đồng ý .

    Cũng khi đó thì bạn của Mai tới họ chia tay nhau trước khi chia tay Hoàng hỏi nếu muốn gập thì làm thế nào.Mai nói:"tối mai cũng tại đây vào canh 2 anh chờ em ở đây, em sẽ tới." Rồi họ chia tay nhau cùng lúc đó thì Thanh cũng tới.Họ cùng nhau tới chợ Hoàng bán xong đôi lợn rồi trở về nhà .Cả ngày hôm đó Hoàng như người mất hồn chỉ mong tới tối nhanh để được gặp Mai.Tối hôm đó Hoàng đến chỗ hẹn từ sớm chờ Mai và đúng như lời hứa Mai cũng tới họ bên nhau suốt đêm.Rồi kể từ đêm đó ngày nào họ cũng hẹn nhau tại nơi đây nhưng cũng từ hôm đó Hoàng cảm thấy như mình yếu hơn Hoàng cho rằng chắc do thức đêm quá nhiều nên như vậy.

    3 tháng sau Hoàng khăng khăng đòi nàng cho đến nhà nói chuyện nhưng vẫn như lần trước Mai không đồng ý tìm mọi cách từ chối. nhưng sáng hôm sau Hoàng quyết định phải đến nói chuyện với gia đình Mai vì anh không muốn yêu nhau kiểu này nữa nhưng khi tới nơi thì anh ngẩn người ra khi biết rằng Mai đã mất cách đây 3 năm tại cây đa đầu làng khi đi chợ huyện. khi nghe xong chuyện Hoàng vẫn không tin đến khi người nhà đưa anh ra tới mộ của Mai anh mới chịu tin.khi trở về đến nhà thì Hoàng lăn đùng ra chết người làng đồn rằng con ma nữ đó chết nhưng hồn chưa siêu thoát do chết khi vẫn còn là con gái nên muốn tìm một hồn nam đi cùng xuống suối vàng cho đỡ lạnh lẽo và hôm anh Hoàng chết cũng vừa tròn 100 ngày kể từ lần đầu Hoàng giao hoan cùng với nó. Nó đã hút hết dương khí của Hoàng nên anh mới chết. Và cũng kể từ khi Hoàng mất không còn ai dám bén mảng tới cây đa đầu làng đó nữa.


    _ST_
    Thực là thực - ảo là ảo
    Thực có ảo - Ảo có thực
    Thực thực - Ảo ảo
    Ảo ảo - thực thực

    Hùng Airang Phiêu Bút .....................................

  18. #18

    Mặc định

    Cô Gái Áo Xanh
    Chàng trai nọ tên là Vu Cảnh, tự là Tiểu Tống, người Ích Đô, ở nhờ chùa Lễ Tuyên để học. Ban đêm chàng đang giở sách ra đọc, bỗng có một cô gái đứng ngoài song cửa khen:

    - Vu tướng công siêng học quá!

    Vu nghĩ rằng ở chốn núi sâu làm gì có phụ nữ. Chàng còn đang nghi ngại thì cô gái đẩy cửa bước vào, cười bảo:

    - Tướng công siêng học thật!

    Vu sửng sốt đứng dậy, nhìn kỹ thì thấy cô gái mặc áo xanh, váy dài, xinh đẹp khó ai bì. Vu biết không phải là người nhưng vẫn hỏi thăm quê quán, nàng đáp:

    - Chắc chàng thấy thiếp không phải là kẻ độc ác rồi, việc gì phải hỏi đến nguyên quán cho mệt?

    Vu thấy mến cô gái nên... ngủ chung. Cởi chiếc áo ngắn bằng lụa ra, chàng thấy eo lưng nàng nhỏ hơn người bình thường khá nhiều. Trời gần sáng thì nàng đã nhẹ nhàng ra đi. Từ đó đêm nào nàng cũng tới thăm Vu. Đêm nọ, cùng uống rượu và chuyện vãn, cô gái tỏ ra rất sành âm luật. Vu nói:

    - Giọng nàng nhỏ mượt, nếu hát một bài ắt người nghe mê mẫn.

    Cô gái cười:

    - Không dám đâu!

    Vu cố nài, nàng nói:

    - Thiếp chẳng tiếc gì, nếu chàng thích thì thiếp xin dâng chút tài mọn, nhưng chỉ hát khẽ thôi nhé!

    Nói rồi nàng nhịp chân xuống giường và hát khẽ như tiếng ruồi bay, nghe kỹ mới nhận ra được giọng hát uyển chuyển, ấm áp lòng người. Cô gái hát xong, mở cửa nhìn ra bảo:

    - Đề phòng ngoài song có người.

    Nàng đi vòng quanh nhà xem xét rồi trở vào. Vu hỏi:

    - Sao nàng đa nghi thế?

    Nàng cười đáp:

    - Ngạn ngữ có câu "Ma sống trộm thường sợ người", đấy là tâm sự của thiếp!

    Lúc sau đi ngủ, nàng buồn bã không vui, nói:

    - Không lẽ duyên số chúng ta dừng lại ở đây sao?

    Vu vội hỏi, nàng đáp:

    - Thiếp cảm thấy hồi hộp quá, lộc của thiếp chắc hết rồi.

    Vu an ủi:

    - Hồi hộp trong lòng hay máy mắt là chuyện bình thường, sao vội nói như thế?

    Cô gái tạm yên lòng, lên giường cùng nhau ân ái. Đêm tàn, nàng khoác áo bước xuống giường. Nàng cứ bồn chồn vào ra:

    - Không hiểu sao lòng thiếp tự nhiên hoảng hốt lo sợ, xin chàng tiễn thiếp ra khỏi cửa.

    Vu trở dậy, đưa nàng ra cửa. Nàng dặn:

    - Chàng đứng đây canh cho thiếp. Thiếp đi qua tường rồi hãy vào.

    Vu đáp:

    - Được rồi.

    Thấy nàng ngoặt khỏi hàng lang, mất hút bóng nên Vu định quay vào ngủ tiếp thì nghe nàng kêu cứu rất gấp. Vu vội vàng đến nhìn quanh, không thấy đâu, rồi cuối cùng chàng nhận ra tiếng kêu từ mái hiên vọng xuống. Ngẩng đầu nhìn kỹ thì chàng thấy một con nhện khá ta đang chộp bắt một sinh vật nhỏ, tiếng kêu vo ve đau đớn. Vu phá mạng nhện, khều xuống, gỡ bỏ những sợi tơ nhện chằng trói, thì thấy một con ong xanh thoi thóp sắp chết. Vu mang con vật về phòng, đặt lên bàn. Con ong hồi tỉnh, một lát sau mới bò được. Nó leo dần lên nghiêng mực nhúng chân vào rồi leo ra đậu trên tràng kỷ, bò thành chữ "tạ", cuối cùng nó đập cánh mấy lần rồi bay xuyên qua cửa sổ. Từ đó cô gái áo xanh không bao giờ trở lại.

    .................. ước gì .... :D
    Thực là thực - ảo là ảo
    Thực có ảo - Ảo có thực
    Thực thực - Ảo ảo
    Ảo ảo - thực thực

    Hùng Airang Phiêu Bút .....................................

  19. #19

    Mặc định

    Chiều 30 đọc chuyện Ma đêm giao thừa
    Nhớ Jenny, thỉnh thoảng lúc nào rảnh, nhớ up tiếp nhé người đẹp

  20. #20
    Nhất Đẳng Avatar của Nhóc¯Sock
    Gia nhập
    Jan 2011
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục Tầng 19 sắp lên tầng thứ 9 của tiên giới là MÂY
    Bài gởi
    1,021

    Mặc định

    kái này có thiệt hay là ngừ ta chém !!!!!!!!!!!!!!!!!!! thôi thì chưa gặp chưa bjk :D

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Các Phương Thuật dân gian sưu tầm
    By Bin571 in forum Phương thuật của các dân tộc thiểu số
    Trả lời: 65
    Bài mới gởi: 21-10-2012, 12:42 PM
  2. Người đi bắt ma lai
    By Bin571 in forum Phương thuật của các dân tộc thiểu số
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 01-10-2011, 09:42 PM
  3. tẩu hỏa nhập ma!
    By phuocthien in forum Thiền Tông
    Trả lời: 4
    Bài mới gởi: 16-04-2011, 08:01 PM
  4. Tử Vi Tây Phương
    By Love_Tamlinh in forum Tử Vi
    Trả lời: 14
    Bài mới gởi: 17-01-2011, 01:34 PM
  5. Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 24-12-2010, 06:14 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •