kết quả từ 1 tới 8 trên 8

Ðề tài: NIỆM PHẬT VÔ TƯỚNG -PHÁP MÔN THIỀN-TỊNH

  1. #1

    Mặc định NIỆM PHẬT VÔ TƯỚNG -PHÁP MÔN THIỀN-TỊNH

    TỰA

    "Niệm Phật”, đối với phần đông đệ tử Phật, là xưng niệm thánh hiệu Phật và Bồ-tát. Do đem tâm chí thành xướng niệm liên tục, hoặc mặc niệm, tin tưởng sâu xa, hướng về nương cậy, mà được Phật và Bồ-tát cảm ứng, hoặc trong âm thầm, hoặc hiện rõ hình tướng. Và mục đích chủ yếu rất phổ biến của họ là cầu mong cho mai sau, khi xả bỏ báo thân này, được nhờ Phật, Bồ-tát tiếp dẫn họ vãng sinh về cõi tịnh độ Cực-lạc. Nhưng thực ra, tịnh độ của chư Phật trong mười phương, kể cả tịnh độ của đức Thế Tôn Bổn Sư Thích Ca, là nhiều vô lượng vô số, không thể kể xiết, chứ đâu phải chỉ có một cõi nước Cực-lạc của đức Phật A Di Đà mà thôi! Ngoài ra, “tịnh độ” cũng có sự khác nhau giữa “duy tâm tịnh độ” và tịnh độ do chư Phật hóa hiện.
    Nếu nói một cách rộng rãi hơn, tất cả giáo pháp Phật giáo đại thừa, lẽ nào chỉ có một pháp môn Niệm Phật, lẽ nào chỉ có một pháp môn Tịnh Độ? Một cách phổ quát như mọi người đều biết: trì danh hiệu Phật, trì chú, lễ Phật, cúng dường, chỉ quán, trì giới, tụng kinh, xem kinh, chép kinh, giảng kinh, tham cứu [1], tư duy, nhớ nghĩ v.v..., đều là mục đích của người học Phật nhằm tu hành, ngộ nhập tri kiến Phật, chứng nhập cảnh giới giải thoát, có được công đức Phật, thậm chí đi đến chỗ thành Phật, thành tựu cả bốn loại tịnh độ [2]. Đó là ý nghĩa rộng rãi của sự niệm Phật.
    Thật ra, Thiền và Tịnh Độ có mối liên hệ mật thiết không thể tách rời. Muốn được thành Phật, không phải chỉ trì niệm danh hiệu Phật là xong; mà quyết phải nhờ tới thiền định để khơi sáng tâm tánh. Sau địa vị Kiến-đạo [3], mau chóng tiến lên địa vị Tu-đạo [4], thì quả Phật đã gần kề. Nhưng muốn đạt địa vị Kiến-đạo, cần phải tham thiền, hoặc tu tập lí quán của pháp môn chỉ quán. Như thế tức là, không có định lực thì không thành tựu được việc gì, nhất là công phu trong động [5]. Mà người niệm Phật, muốn trì danh niệm Phật cho đến chỗ “nhất tâm bất loạn”, thì cũng cần có công phu. Nếu dùng cách trì danh niệm Phật và lễ Phật làm phương tiện, để đi vào pháp môn niệm Phật viên thông của Bồ-tát Đại Thế Chí, hoàn toàn không phải việc khó; thế thì việc vãng sinh về cõi tịnh độ Cực-lạc có thể nắm chắc được. Cũng có thể tham cứu niệm Phật: Nói rằng “Không nhờ phương tiện mà tâm tự sáng.”, không phải là không có thể. Nếu đem cái công phu bước đầu của pháp môn niệm Phật viên thông mà chuyển sang tham thiền, thì cánh cửa vô môn tự nhiên hiện rõ trước mắt; muốn được thấy rõ tâm tánh, cũng có hi vọng. Như thế có thể thấy, Thiền và Tịnh Độ khắng khít không thể phân li.
    Người đệ tử Phật, nếu có thể đem cái tinh yếu của Thiền Định mà tu tập pháp môn Tịnh Độ, và đem pháp môn tịnh độ trợ giúp thêm để thành tựu cái công phu trong động, thì bất luận là tu Thiền hay tu Tịnh, đều dồi dào công lực, mau chóng đạt được thành tích. Kẻ hậu học này đã không lượng sức học nông cạn của mình, dám nói lên cái nhìn của mình như trên, chỉ vì muốn đem cái kinh nghiệm hạn hẹp, cái văn bút thô lậu của mình mà bày tỏ lòng chí thành của kẻ quê mùa. Chỉ cầu mong lợi ích cho chúng sinh mà không kể gì cá nhân mình bị chê cười, cầm bút viết văn, để dành dần từng bài, cuối cùng thì thành sách. Ngoài những ý kiến thiển cận vừa nêu ở trước, sau đây xin sơ lược trình bày về duyên khởi của sách này, gọi là làm tỏ rõ gốc ngọn.
    Vào đầu năm 1987, kẻ hậu học này, nhân vì công việc quá bận rộn, đã không có thì giờ ngồi thiền, mỗi buổi tối tụng kinh Kim Cang thì vừa tụng vừa ngáp; xong thời khóa tụng thì lạy Phật và Bồ-tát.
    Năm ấy, vào một đêm hè, sau thời khóa tụng và lạy Phật xong, bỗng nhiên tôi nghĩ rằng, nên thử bỏ đi danh hiệu Phật và hình tướng Phật, chỉ chuyên nhất nhớ niệm Phật Bồ-tát mà lạy Phật. Phải thực hành điều này ngay. Thế là, từ ngày hôm sau trở đi tôi đều sử dụng phương pháp “nhớ nghĩ vô tướng” mà lạy Phật. Lâu ngày chầy tháng, phương pháp nhỏ bé ấy tạm thành. Thế nhưng, ai thực tập phương pháp “niệm Phật vô tướng” này, đều tràn đầy niềm vui đạo pháp, hoàn toàn không còn biết tới những bận rộn phiền lụy của sinh hoạt thế tục. Về sau, việc lạy Phật như thế đã đạt được trọn niềm hoan hỉ, tôi liền dứt khoát bỏ thời khóa tụng buổi tối, mà chuyên nhất lạy Phật với tâm niệm vô tướng. Trong sinh hoạt hằng ngày cũng chuyên tâm niệm Phật vô tướng.
    Cuối năm 1988, ngẫu nhiên tôi nghĩ đến chuyện nên chia sẻ với đại chúng niềm pháp hỉ này, bèn một mặt thì suy xét, nhớ lại, đem quá trình tu tập vừa qua ghi chép xuống; mặt khác thì đọc trong kinh luận để tìm chỗ y cứ. Tôi liền đem bản thảo vừa viết xong để trước mặt, rồi dở kinh Lăng Nghiêm ra, đọc chương “Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông”; khi đọc đến bốn chữ “ức Phật niệm Phật”, tôi vô cùng hoan hỉ. Sau đó lại đọc đến chỗ “đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế, nhập tam ma địa”, tôi bỗng thấy được rằng, cái pháp môn mà tôi thực hành lâu nay tức là pháp môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ-tát Đại Thế Chí!
    Tiếp đó, vào tháng 4 năm 1989, tôi sửa chữa hoàn chỉnh các điều đã ghi chép, viết thành một đoản văn với tựa đề “Đàm Vô Tướng Bái Phật dữ Vô Tướng Niệm Phật” (Đàm luận về pháp môn lạy Phật vô tướng và niệm Phật vô tướng). Sau khi hoàn tất bản thảo, lại nhân đọc tập sách ghi các lời khai thị của đại lão hòa thượng Hư Vân, tôi mới thực sự hiểu rõ cái lí lẽ của việc “khán thoại đầu” [6]. Lúc đó tôi mới biết, điều mà trước kia tôi từng cho là “tham thoại đầu” [7], kì thật đều là đọc lời nói, xem đuôi lời nói, rõ ràng chỉ là sự đối đáp với các bạn đồng tu một cách đại ngôn, không biết thẹn, mà vẫn nói là mình “tham thoại đầu”!
    Vì sao lúc trước không thể tham thoại đầu mà về sau lại làm được? Nguyên nhân tại vì lúc mới tu học không có cái “công phu trong động”, về sau, từ khi tu tập thành thục công phu niệm Phật vô tướng, mới có năng lực tham thoại đầu.
    Buổi chiều ngày 6 tháng 8 năm 1989, khi cùng tu với các bạn đồng tham [8], tôi đã hai lần tiến vào cảnh giới “Thấy núi không phải là núi”; đó là buổi đầu tôi nếm được mùi vị của cái “thùng sơn đen” [9]. Sau đó lại thường nổi lên trăm mối ngờ vực. Đầu tháng 11 năm 1989, sau chuyến đi hành hương Ấn-độ và Nepal trở về, tôi quyết định nghỉ việc, chuyên ở nhà để tham thiền. Cho đến khoảng 4 giờ chiều ngày 2 tháng 11 năm 1990, cái thùng sơn đen vừa bị bể nát, cái quá trình tham thiền mới kết thúc.
    Kiểm điểm lại giai đoạn vừa qua, tôi phát giác ra rằng, sở dĩ người ta tu tập Phật pháp mà không đạt được hiệu quả, cái nguyên do căn bản là tại vì thiếu cái công phu trong động. Do đó, tôi viết sách này, hi vọng giúp người niệm Phật mau chóng thành tựu công phu niệm Phật nhất tâm bất loạn; đồng thời cũng giúp cho người tu thiền sớm có được cái năng lực tham thoại đầu, tham công án [10].
    Đáp ứng lời yêu cầu của các bạn đồng tham, bắt đầu từ ngày 3 tháng 9 năm 1991, tại đạo tràng tu thiền nọ của Kim Dung Cơ Cấu Phật Học Xã ở Đài-bắc và thiền đường Cộng-tu của hai ông bà Trần cư sĩ ở Thạch-bài, kẻ hậu học này đã trình bày về phương pháp tu trì “niệm Phật vô tướng” (tức phương tiện để nhập môn pháp môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ-tát Đại Thế Chí), liên tục ba buổi trong ba tuần thì xong.
    Các vị đồng tu trong hai đạo tràng ấy ước chừng có 30 người, đa số là theo phương pháp “trì danh niệm Phật”. Họ một mặt chú ý nghe, một mặt thực tập, và sáu tuần sau thì có hai vị đạt được hiệu quả. Hiện vẫn có người lần lượt gia nhập, và tiến bộ nhanh chóng, tỉ lệ cao, tốc độ nhanh, khiến cho mọi người rất phấn khởi. Số người không thấy tiến bộ, ngoại trừ kẻ vì nhân duyên không thể lạy Phật, số còn lại chủ yếu là vì không hoan hỉ với việc nhớ Phật lạy Phật vô tướng; và những người đã quen trì danh niệm Phật, thì đối với pháp môn phương tiện ở buổi đầu đã không chịu luyện tập cho đến nơi đến chốn. Cho đến khi thấy có nhiều người lần lượt tu tập thành công, có thể tham thiền, khán thoại đầu, số người này mới lại gấp rút đuổi theo, nhưng cũng đã trễ hết ba bốn tháng.
    Kết quả thực tế trên đã làm cho kẻ hậu học này vô cùng phấn khởi, chứng tỏ rằng, đối với pháp môn này, người ta chỉ cần có sự giúp đỡ khéo léo, và luyện tập tinh cần, chắc chắn sẽ tu tập có hiệu quả. Bởi vậy, lại khởi bi nguyện, không nỡ thấy thánh giáo suy vi, không muốn chúng sinh bị khổ, cho nên ngay trong kì nghỉ mùa đông, mạnh dạn cầm bút, gấp rút soạn sách, văn bút chắc chắn không được tao nhã, chỉ cầu đạt được lòng tin. Đã trình bày bình dị, lại còn giải thuyết. Cố gắng sử dụng lối văn bạch thoại, cốt cho dễ hiểu. Kì nguyện tất cả những người đệ tử Phật có duyên, đều có thể tu tập thành tựu pháp môn “niệm Phật vô tướng”, khắp được thấm nhuần niềm vui đạo pháp, lần lữa lưu truyền, làm lợi ích vô lượng chúng sinh, tất cả đồng thể nhập vào biển pháp tánh.
    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn
    Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
    Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát
    Kính cẩn,
    Cư sĩ TIÊU BÌNH THẬT
    Ngày 28 tháng 2 năm 1992
    Trích http://www.tinhdo.net/sachdao/145-niemphatvotuong.html
    Last edited by linh_tinh_85; 21-02-2011 at 06:32 PM.

  2. #2
    Tứ Đẳng Avatar của gioidinhtue
    Gia nhập
    Jan 2010
    Nơi cư ngụ
    Quảng Đà
    Bài gởi
    4,281

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi linh_tinh_85 Xem Bài Gởi
    TỰA

    Muốn được thành Phật, không phải chỉ trì niệm danh hiệu Phật là xong; mà quyết phải nhờ tới thiền định để khơi sáng tâm tánh.
    .......................................
    Cư sĩ TIÊU BÌNH THẬT
    Ngày 28 tháng 2 năm 1992
    Trích http://www.tinhdo.net/sachdao/145-niemphatvotuong.html
    "Muốn được thành Phật, không phải chỉ trì niệm danh hiệu Phật là xong; mà quyết phải nhờ tới thiền định để khơi sáng tâm tánh. " Hehe. Vậy, Tổ nói "NIỆM PHẬT THÀNH PHẬT", ý là như thế nào ???!!! Tự trong câu Phật hiệu, đã chứa đủ 3 tạng, 12 bộ kinh; đủ cả Thiền, cả Mật.............Bà già mù chữ niệm Phật có Thiền ko ???!!! Tác giả viết bài mừ ÁP ĐẶT wa !!! :o

    "Niệm lên danh hiệu Phật,
    Muôn đức đủ đầy trong.
    Chuyên trì danh hiệu ấy,
    Muôn hạnh đủ không sai.
    "

    :praying:2Nam mô A Di Đà Phật.:praying:2
    ---o0o---

    Thường Như - Thiện Tường - Mãn Ngọc - Trực Minh.


  3. #3

    Mặc định

    Pháp môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí bắt nguồn từ chương “Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông” trong Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm, gọi tắt là Kinh Lăng Nghiêm. Đây là quyển kinh mà các hành giả học thiền tu định cần phải đọc. Trong kinh, 25 vị Bồ-tát đều tự trình bày phương pháp tu hành của mình, sau đó là lời bình luận của đức Bồ-tát Văn Thù Sư Lị, cho rằng, đối với chúng sinh ở thế giới này thì pháp môn Nhĩ Căn Viên Thông của Bồ-tát Quán Thế Âm là thù thắng hơn hết.
    Cho đến ngày nay, cách cái thời gian của thánh nhân [11] đã xa, mà hình thái xã hội cũng dần dà thay đổi, cách thức sinh hoạt lắm sự phiền toái; muốn tìm lại nếp sinh hoạt an nhàn thanh tĩnh của xã hội nông nghiệp ngày xưa thật khó có thể được. Vì vậy, con người trong thời đại này, nếu muốn tu tập pháp môn Nhĩ Căn Viên Thông, mỗi ngày nhiều lắm cũng chỉ được một, hai giờ mà thôi. Ngoại trừ người khéo tu tĩnh quán, có thể tìm kiếm nhiều pháp môn phương tiện thiện xảo để giúp sức, nếu không thì không dễ thành công.

    Theo những nhận xét về pháp môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ-tát Đại Thế Chí trong kinh Lăng Nghiêm, thì đó là pháp môn chỉ đứng sau pháp môn Nhĩ Căn Viên Thông của Bồ-tát Quán Thế Âm. Kẻ hậu học này cho rằng, đó là pháp môn thích hợp nhất cho con người bận rộn thời nay; mà pháp môn Niệm Phật này, gần đây cũng đã được nhiều người quảng bá, rất nhiều vị đại đức trong giáo giới viết bài trình bày, hoặc phát hành băng ghi âm.

    Kẻ hậu học này lấy thiền làm tông chỉ, buổi đầu dò dẫm nhiều năm mà không vào được. Bởi vì phải chấp hành nghiệp vụ quá bận rộn, mà tâm thức bị tán loạn. Tuy nhiên, mỗi ngày cũng bỏ ra chút ít thì giờ để ngồi thiền, tối đa là một tiếng đồng hồ. Hơi có chút sở đắc, nhưng cũng chỉ là công phu trong tĩnh, vừa mới rời khỏi bồ đoàn là liền thất niệm; cho nên, ở bên mé cảnh giới thiền cũng không đụng tới được, nói gì đến chuyện tham thiền! Cho đến cuối năm 1988, sau khi tu tập được pháp môn Niệm Phật Vô Tướng này, tôi mới tìm thấy được cái mà trong thiền môn gọi là “cánh cửa vô môn”.

    Từ tháng 5 năm 1989, tôi bắt đầu tham thiền dựa vào công phu niệm Phật viên thông này, mài miệt không nghỉ, ngủ không ngon giấc, ăn chẳng biết vị; sau 18 tháng ròng rã như thế, mới vào được cửa thiền!

    Người ta gần đây tham thiền mà không đạt được hiệu quả, đa phần là vì định lực không đủ, hơn nữa là thiếu công phu trong động. Hãy xin nêu câu thoại đầu thiền làm ví dụ:

    Trong sách Hư Vân Hòa Thượng Khai Thị Lục có chép: “Thế nào gọi là thoại đầu? Đầu tức là trước khi chưa nói.
    Như niệm câu ‘A Di Đà Phật’, thì trước khi chưa niệm, gọi là ‘thoại đầu’.
    Gọi là thoại đầu, đó là khoảng thời gian một niệm chưa sinh khởi.

    Một niệm vừa sinh khởi thì đã là ‘thoại vĩ’.
    Cái khoảng thời gian một niệm chưa sinh khởi ấy, thì gọi là ‘bất sinh’; không trạo cử, không hôn trầm, không đắm vào tĩnh, không rơi vào trống không, thì gọi là ‘bất diệt’. Thời thời, khắc khắc, chỉ có vậy, thật rõ ràng, một niệm bừng sáng chiếu soi trở lại cảnh giới bất sinh bất diệt ấy, gọi là ‘khán thoại đầu’ hoặc gọi là ‘chiếu cố thoại đầu’.”

    Nói cách khác, cần phải có cái năng lực an trụ trong khoảng thời gian một niệm chưa sinh khởi thì mới có khả năng khán thoại đầu. Cũng có thể nói, cần phải có năng lực nhìn thấy đầu trước của câu nói mà mình đã tham cứu, mới gọi là khán thoại đầu. Nếu niệm miệng hoặc mặc niệm trong tâm, hoặc dùng tâm thức cân nhắc “Niệm Phật là ai”, đó là “khán thoại vĩ”; tại vì câu nói “Niệm Phật là ai” đã trở thành quá khứ rồi. Cho nên hòa thượng Hư Vân [12] còn nói: “Vì sao người ta trong thời hiện đại, khán thoại đầu thì nhiều mà ngộ đạo thì chẳng có mấy ai? Đó là bởi vì người thời hiện đại căn khí không bằng người xưa, lại nữa, các vị học giả đã không hiểu biết tường tận đối với cái lí lẽ tham thiền khán thoại đầu. Có người cứ hỏi Đông hỏi Tây, chạy Nam chạy Bắc, kết quả chỉ là ồn ào cho tới già, mà một câu thoại đầu cũng không minh bạch, chẳng biết thoại đầu là cái gì, thế thì làm sao mà gọi là khán thoại đầu? Một đời chỉ là chấp trước ngôn từ danh tướng, để tâm vào thoại vĩ mà thôi.”

    Hành giả nếu có khả năng khán thoại đầu thì tức là có khả năng tham thiền; nếu chưa có khả năng thì hãy nhanh chóng tăng cường định lực, tu học công phu trong động, khiến cho tự mình có đầy đủ năng lực khán thoại đầu trong sinh hoạt thường ngày, rồi đến tham thiền; như thế là đạo nghiệp có thể tăng tiến nhanh chóng.

    Công án và thoại đầu là hai mà một, cần có công phu “một niệm không sinh” mới đạt được. Cho nên hòa thượng Hư Vân lại nói: “Tổ sư Đạt Ma và Lục Tổ khai thị học chúng, câu nói khẩn yếu nhất là ‘Ngăn chận các duyên, một niệm không sinh’. Ngăn chận các duyên cũng tức là buông bỏ vạn duyên; cho nên hai câu ‘Vạn duyên buông bỏ, một niệm không sinh’, đích thực là điều kiện tiên quyết của người tham thiền. Nếu không thực tập được hai câu nói đó thì việc tham thiền không những là không thành công, mà còn có thể nói là việc nhập môn cũng không có khả năng.”

    Ngài còn nói tiếp: “Chư vị thiền đức từ các đời Đường, Tống trở về trước, phần nhiều chỉ do một lời nửa câu liền ngộ đạo. Sự truyền thọ giữa thầy trò chỉ là dùng tâm ấn tâm, hoàn toàn không có một thật pháp [13] nào. Những cuộc tham vấn thù đáp thường ngày cũng chỉ là tùy phương tiện mở trói, theo bệnh cho thuốc mà thôi. Từ đời Tống về sau, căn khí con người hẹp hòi thấp kém, giảng rồi cũng không thực hành được, ví như nói ‘Buông bỏ tất cả, thiện ác đều không làm.’, nhưng hoàn toàn không buông bỏ được, không suy nghĩ thiện thì suy nghĩ ác. Đến giờ phút này, chư vị tổ sư bất đắc dĩ mới phải sử dụng biện pháp ‘lấy độc trị độc’, dạy cho người học tham công án.”

    Ngài lại nói: “Công án của cổ nhân nhiều lắm, người sau chuyên nói là khán thoại đầu; kì thật, đó chỉ là một. Thoại (lời nói) từ tâm sinh khởi, tâm là đầu của thoại; niệm là từ tâm sinh khởi, tâm là đầu của niệm. Vạn pháp đều từ tâm sinh khởi, tâm là đầu của vạn pháp. Sự thật, thoại đầu tức là niệm đầu; đầu trước của niệm tức là tâm. Nói rõ ra, trước khi một niệm chưa sinh tức là thoại đầu.”

    Do những lời khai thị của hòa thượng Hư Vân vừa nêu trên, chúng ta biết rằng, tham thoại đầu, hay tham công án, cần phải có đầy đủ cái công phu một niệm không sinh thì mới gọi được là tham thiền. Nhưng cái một niệm không sinh này là đối với chung mọi người mà nói, còn đối với người thực sự có loại công phu đó, thì nên hiểu là “một niệm nối nhau không dứt”.
    Cửa thiền là cửa vô môn, chủ trương dứt tuyệt ngôn ngữ, diệt hết tâm hành [14]. Nếu trong mỗi niệm mỗi niệm mà không xa rời ngôn ngữ văn tự, cùng những suy nghĩ tính toán của tâm thức, thì làm sao có thể liễu ngộ? Cho dù có may mắn được sự chỉ dạy tận tình của bậc tôn sư chứng ngộ mà được khai ngộ, thì cũng rất ít người giữ được lâu dài, chẳng qua chỉ được mươi phút, vài giờ, hay cùng lắm là vài ngày, là đâu lại hoàn đó. Do đâu nên nỗi? Là do định lực thiếu kém, mà cũng do không có đủ cái công phu trong động.

    Đối với người tu Tịnh Độ mà nói, thì cái công phu trong động cũng trọng yếu như vậy. Hiện nay, người tu pháp môn Tịnh Độ rất nhiều. Bất luận là trì chú, trì danh, hay tu mười sáu phép quán [15], nếu thiếu công phu trong động thì sẽ không thành tựu dễ dàng.

    Một hôm tình cờ gặp một vị Bồ-tát [16] tu pháp môn niệm Phật trì danh đã mười mấy năm, khi vị ấy hỏi: “Ông có chắc chắn được vãng sinh về tịnh độ Cực-lạc hay không?” thì mặt tôi xìu xuống, không dám trả lời, tợ hồ mọi người đều có hi vọng, nhưng tất cả đều không nắm chắc. Số người chắc chắn có lòng tự tin, thử hỏi được bao nhiêu? Trong kinh có ghi rõ: “Khi tôi thành Phật, chúng sinh trong mười phương nghe được danh hiệu của tôi, dốc lòng tin vui, có được căn lành một lòng hồi hướng, phát nguyện vãng sinh về nước tôi, nếu cho đến mười niệm mà không được vãng sinh thì tôi không ở ngôi Chánh-giác – ngoại trừ những người phạm tội ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp.”

    Kinh lại nói: “Nếu một ngày, hai ngày, ... cho đến bảy ngày, thọ trì thánh hiệu A Di Đà Phật, một lòng không tán loạn, thì khi lâm chung tâm không bị điên đảo, liền được vãng sinh về tịnh độ Cực-lạc của đức Phật A Di Đà.”

    Tôi tự xét lại khi mình niệm Phật, có thể chỉ trong mười niệm mà đạt đến chỗ dốc lòng tin vui, có được căn lành một lòng hồi hướng, phát nguyện vãng sinh, hoặc tu tập được công phu nhất tâm bất loạn chăng? Lúc bình thường còn không thể được, huống chi là lúc lâm chung – là lúc bao đau khổ dồn dập bức bách! Do đó mà lòng tôi ngập ngừng lo nghĩ, không muốn sống nữa!

    Người niệm Phật như thế, mà người trì chú, tu quán cũng như thế, cái nguyên do căn bản là thiếu định lực. Ba tạng mười hai bộ [17], tất cả những lời Phật dạy là Kinh, chủ yếu là dạy người tu định (Luật là các giới điều Phật chế; Luận là các vị Bồ-tát nói về tuệ). Những việc như thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng thuyết, không việc nào là không dạy người tu định. Thế mới biết, định lực rất là trọng yếu. Người có đầy đủ định lực, muốn nhiếp phục sáu căn, liên tục tịnh niệm, hoàn toàn không phải là việc khó, thì sợ gì không được vãng sinh! Nhưng hai loại công phu trong động và công phu trong tĩnh này phải tu như thế nào? Theo kinh nghiệm của kẻ hậu học này, pháp môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ-tát Đại Thế Chí là phương pháp tốt nhất.

    Ngoài ra, niệm Phật phải từ hữu tướng mà đến vô tướng, do quyền nghi mà vào thật tướng [18]. Cho nên người niệm Phật cần nên biết rằng, niệm Phật có ba loại:

    1. Niệm hóa thân [19] Phật: tức niệm Phật trì danh được ghi trong kinh Phật Thuyết A Di Đà. Nếu thành tựu được pháp trì danh niệm Phật tam muội [20], sẽ có cảm ứng được thấy hóa thân của đức Phật A Di Đà.

    2. Niệm báo thân [21] Phật: tức pháp tu 16 phép quán tưởng được ghi trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. Nếu thành tựu được pháp quán tưởng niệm Phật tam muội, liền được thấy báo thân với tướng tốt trang nghiêm của đức Phật A Di Đà.

    3. Niệm pháp thân [22] Phật: tức phép “nhớ Phật niệm Phật”, là pháp môn niệm Phật vô tướng được nói tới trong chương “Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông”. Nếu do “nhớ Phật niệm Phật, không nhờ phương tiện mà tâm tự sáng” mà tu tập thành công pháp môn niệm Phật vô tướng, chỉ phát tâm chí thành, tâm tin sâu sắc, tâm phát nguyện hồi hướng, chắc chắn được sinh về cõi Thật-báo trang-nghiêm độ, ở bậc Thượng-phẩm thượng-sinh. Nếu người chưa thấy tánh, chỉ mới hiểu được nghĩa lí kinh điển đại thừa, mà đối với đệ nhất nghĩa [23] tâm không kinh động, hồi hướng vãng sinh, sẽ được sinh về cõi Thật-báo trang-nghiêm độ, ở bậc Thượng-phẩm trung-sinh. Người tuy chưa thấy tánh, cũng không hiểu giáo pháp đệ nhất nghĩa, chỉ không hủy báng đại thừa, tin sâu nhân quả, phát đạo tâm vô thượng, cũng có thể được sinh về cõi Thật-báo trang-nghiêm độ, ở bậc Thượng-phẩm hạ- sinh. (Xin xem chú thích số 1 của tác giả ở cuối sách.)

    Nhưng thời gian tu hành của người Thượng- phẩm hạ-sinh ở thế giới Cực-lạc vô cùng lâu dài, mà cảnh giới cư trú cũng rất xa xôi đối với cảnh giới của người Thượng-phẩm thượng-sinh và Thượng-phẩm trung-sinh, xin chư vị hành giả hãy tự suy xét.

    Cho nên người niệm Phật cầu vãng sinh về thế giới Cực-lạc ở phương Tây, nếu không có được pháp môn thù thắng nào, thì nên chân thành niệm Phật trì danh. Nếu may mắn được nghe một phương pháp nào tốt hơn phương pháp niệm Phật trì danh, thì nên cầu phương pháp thù thắng để được Thượng-phẩm thượng-sinh; đừng lấy Thượng-phẩm hạ-sinh hoặc Trung, Hạ-phẩm vãng sinh mà cho là đủ. Tâm rộng lớn thì cái thấy cũng rộng lớn. Điều gọi là “niệm lớn thấy được Phật lớn”, hoàn toàn không phải là niệm Phật to tiếng vậy.
    Lại nữa, niệm pháp thân Phật, không phải chỉ có một phương pháp niệm Phật viên thông của Bồ-tát Đại Thế Chí. Còn có nhiều phương pháp cũng thuộc về niệm pháp thân Phật, đều là pháp môn niệm Phật vô tướng. Vì khuôn khổ hạn hẹp của cuốn sách này, chỉ xin trích từ Kinh Tạng Phật giáo, ghi ra đây một đoạn kinh văn ngắn (Tạng Đại Chánh, “Kinh Tập Bộ”, quyển 2) làm ví dụ, để có thể thấy được phần nào:

    “Này Xá Lị Phất! Thế nào gọi là niệm Phật? Thấy không có cái gì có, gọi là niệm Phật. Xá Lị Phất! Chư Phật vô lượng, không thể nghĩ bàn, không thể tính toán, do ý nghĩa đó, thấy không có cái gì có, gọi là niệm Phật, gọi một cách chân thật là không phân biệt. Chư Phật không có phân biệt, cho nên nói ‘niệm không phân biệt tức là niệm Phật’.

    “Lại nữa, thấy thật tướng của các pháp, gọi là thấy Phật. Cái gì là thật tướng các pháp? Đó là các pháp đều không, rốt ráo không có cái gì có. Đem cái pháp rốt ráo không, không có cái gì có đó mà niệm Phật; ở trong cái pháp như thế thì một niệm mảy may cũng không thể nắm bắt, cho nên gọi là niệm Phật.

    “Xá Lị Phất! Không thể lấy sắc mà niệm Phật, vì sao? Tham sắc thì giữ lấy tướng, tham vị là thức. Không hình không sắc, không duyên không tánh, gọi là niệm Phật. Vì vậy phải biết: không có phân biệt, không giữ không bỏ, đó là chân thật niệm Phật.

    “Niệm Phật là phá bỏ tất cả giác quán[24] về thiện và bất thiện, không giác không quán, vắng lặng không tư tưởng, gọi là niệm Phật. Vì sao? Không nên dùng giác quán để nhớ nghĩ chư Phật. Không giác không quán gọi là thanh tịnh niệm Phật.

    “Khi ông niệm Phật, đừng giữ một tư tưởng mảy may nào, đừng có hí luận, đừng khởi niệm phân biệt. Vì sao? Vì các pháp đều không, không có thể tánh, không thể niệm một tướng. Cái gọi là vô tướng, là chân thật niệm Phật.”

    Những điều trích lục trên đều là cảnh giới niệm Phật thật tướng. Nếu người Phật tử tỏ ngộ tâm tánh, thấy Phật không có thân căn tướng mạo, không có một tướng nào có thể nắm bắt, mà tùy thuận chúng sinh trì danh niệm Phật, thì có thể nói câu: “Một câu niệm Phật bao hàm tất cả sự lí.”

    Nếu chưa thấy tánh mà cứ luôn luôn nói câu “Một câu niệm Phật bao hàm tất cả sự lí”, thì đó là vọng ngữ. Vì sao? Vì sự và lí của việc niệm Phật, cả hai đều chưa hiểu biết rõ ràng. Pháp môn niệm Phật vô tướng được đề cập trong sách này chỉ là dùng pháp quyền nghi thiện xảo để giúp hành giả đi từ hữu tướng mà đến vô tướng; đến như một số hành giả có căn lành, trí tuệ, lại gặp được nhân duyên, mà một buổi sớm mai nào đó chứng nhập được cảnh giới niệm Phật thật tướng; sự kiện đó cũng có thể xảy ra lắm!


  4. #4

    Mặc định

    THIỀN TỊNH DUNG THÔNG, THIỀN TỊNH SONG TU

    I. THIỀN TỊNH DUNG THÔNG
    Ở thời kì mạt pháp, thường có nhiều đệ tử Phật, nhân vì tu tập các pháp môn khác nhau mà sinh ra phê bình cao thấp, tranh luận lẫn nhau; điển hình rõ nhất là các hành giả tu Tịnh Độ và tu Thiền.
    Một số người tu thiền cho rằng, đại đa số những người niệm Phật là tâm cầu hướng ngoại, như cầu Phật, cầu Bồ-tát, chỉ biết niệm Phật mà không biết nhiếp phục ở trong tự thân, không biết khai mở Phật tánh vốn có đầy đủ của mình. Một số người niệm Phật thì cho rằng, người tu thiền là tự cao, cuồng vọng, không biết pháp môn niệm Phật có thể trùm khắp ba căn [25], thu gồm cả lợi căn và độn căn. Những người có thành kiến như vậy là bởi vì họ chưa từng vào sâu trong hai pháp môn Thiền và Tịnh Độ, cho nên mới có sự hiểu lầm; từ đó mà đưa đến nội bộ gây chiến lẫn nhau, hoặc phê bình lời qua tiếng lại, hoặc viết sách báo bút chiến, vừa để cho người ngoài đàm tiếu, vừa khiến cho những người mới học Phật sinh thối tâm, quay sang đạo khác. Đó là làm đứt mất huệ mạng của người, tội rất lớn vậy. Đại sư Hoằng Nhất [26] nói rất đúng: “Không thua người xưa, gọi là người có chí; không nhường người nay, gọi là người không có độ lượng.” Kẻ hậu học này quan niệm rằng, khi chưa hiểu rõ pháp môn tu tập của người khác thì không nên theo ý chủ quan của mình mà phê bình người ta. Chúng ta phải hiểu rõ, hiểu sâu, và thực tế tu trì trong một thời gian, chứng nhập chút ít vào cảnh giới rồi, mới có thể với thành tâm thiện ý đem trình bày kiến giải của mình cho người nghe.


    Trong thời cận đại có nhiều bậc cao tăng đại đức từng cổ vũ cho thuyết “Thiền Tịnh song tu”, nói rằng, Thiền và Tịnh Độ có thể dung thông nhau. Rồi có một số người vừa nghe thế liền sinh tâm nghi hoặc, bảo rằng, niệm Phật phải chấp trì thánh hiệu, miệng đọc tâm niệm; người tu quán thì có hình tượng của Phật. Nhưng thiền môn thì lấy cái không cửa làm cửa, tẩy trừ tất cả hình tướng, chủ trương dứt tuyệt ngôn ngữ, diệt hết tâm hành. Như thế thì làm sao mà dung thông nhau? Làm sao có thể song tu?
    Thật ra, mối nghi hoặc trên chỉ có trong tâm những người sơ cơ mới bước vào cửa Phật. Nếu hành giả đã có năng lực thâm nhập một môn, thì sẽ phát giác ra rằng, tất cả môn đều thông nhau, rốt cuộc thì tất cả đều không sai khác. Chúng ta có thể nói như thế này: “Tất cả các pháp môn tu hành đều chảy về thiền định; tất cả kết quả tu hành đều chảy về tịnh độ.” Phật pháp tuy có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn, nhưng mỗi một pháp môn nào, đến chỗ tối hậu cũng qui về định; nhân nơi định mà y vào bốn thánh đế, tám chánh đạo, mười hai nhân duyên, đệ nhất nghĩa đế v.v... để phát huy, tự thấy Phật tánh, đoạn trừ phiền não.
    Người niệm Phật ở thế giới này, tu pháp môn niệm Phật mà ngộ nhập Phật tánh là như thế; đới nghiệp vãng sinh [27] về thế giới Cực-lạc, sau khi hoa sen nở được thấy Phật nghe pháp mà chứng nhập vô sinh nhẫn [28] (xin xem chú thích số 2 của tác giả ở cuối sách), cũng lại như thế. Cho nên tất cả pháp môn tu hành đều phải qui về thiền định.
    Do đó, nói theo nghĩa rộng, tám vạn bốn ngàn pháp môn, bao hàm cả các loại pháp môn tịnh độ, đều thuộc trong phạm vi thiền định, mà việc tu trì tám vạn bốn ngàn pháp môn, chỉ cần có tu có chứng, thì ít nhiều cũng chứng được “duy tâm tịnh độ”. Nếu đạt đến địa vị Vô-học (xin xem chú thích số 3 của tác giả ở cuối sách) thì an trú niết bàn, là tịnh độ chân thật. Đến địa vị đó rồi thì tùy ý được sinh về ba loại tịnh độ của chư Phật là Phàm-thánh đồng-cư độ, Phương-tiện hữu-dư độ, và Thật-báo trang- nghiêm độ. Nếu chứng nhập quả vị Phật thì tự an trú nơi Thường-tịch-quang độ, là duy tâm tịnh độ, là loại tịnh độ chân chính, cứu cánh, không giống như ba loại tịnh độ trước, là những tịnh độ do chư Phật hóa hiện để hóa độ. Cho nên, thiền định là phương pháp, mà tịnh độ là kết quả. Đã hiểu rõ như thế rồi thì chẳng cần phải tranh chấp lẫn nhau giữa Thiền và Tịnh Độ.
    Đệ tử Phật tu học thiền định ở thế giới này, đó là con đường khó đi, mà cũng là con đường chóng thành. Vãng sinh thế giới Cực-lạc là con đường dễ đi, nếu người có đầy đủ công phu niệm Phật vô tướng này, muốn vãng sinh về tịnh độ Cực-lạc, chỉ trong một đời này có thể toại nguyện; nếu đứng trên phương diện chứng đắc cảnh giới giải thoát rốt ráo mà nói, người vãng sinh tịnh độ Cực-lạc phải cần thời gian trội hơn mười, trăm, ngàn, vạn lần đối với người tu hành ở thế giới này. Nhưng vấn đề đó không thuộc phạm vi của cuốn sách này, nên không đề cập tới.
    II. NHỮNG VÍ DỤ ĐIỂN HÌNH về THIỀN TỊNH SONG TU
    Thiền của đại thừa đạt được cảnh giới giải thoát rốt ráo là do khởi tâm ở chỗ vô trụ. Vì khởi tâm ở chỗ vô trụ cho nên sáu niệm đều đầy đủ. – Sáu niệm là: niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, niệm thí, niệm giới, niệm thiên [29]. Trong sáu niệm này thì Niệm Phật là đứng đầu; và niệm Phật thì thông với Tịnh Độ, mà năm niệm kia cũng thông với Tịnh Độ. Thiền của đại thừa đạt được cảnh giới giải thoát rốt ráo, tức là thấy rõ Phật tánh một cách trọn vẹn, mới chứng nhập được tri kiến Phật; nhân đó mà chứng được cảnh giới “duy tâm tịnh độ”. Vì vậy cho nên Thiền và Tịnh Độ có thể thông nhau.
    Trong lịch sử Phật giáo có rất nhiều vị thiền sư từng cổ xúy pháp môn niệm Phật. Thực sự ra, người tham thiền cũng nên lạy Phật và niệm Phật, lấy đó làm phương tiện nhập môn; và cũng không thiếu gì các tự viện của tông Tịnh Độ từng đề xướng sinh hoạt tham cứu niệm Phật. Như thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ [30] đề xướng tông chỉ “tông - giáo - thiền - tịnh”. Lại như ngài Trường Lô Tông Trách [31] đã do thiền mà ngộ nhập, liền chủ trương Thiền Tịnh song tu, được người đời xưng là Từ Giác đại sư. Về Thiền tông, ngài trước tác bộ Thiền Uyển Thanh Qui, gồm 10 quyển; về Tịnh Độ tông ngài cũng có nhiều tác phẩm, như Tịnh Độ Giản Yếu Lục, trong đó ngài chủ trương “Niệm Phật tham thiền, mỗi pháp đều cầu tông chỉ. Khe, núi tuy khác; mây, trăng là đồng. Có thể nói, cây xanh khắp nơi đều có thể buộc ngựa, mọi người khắp chốn đều có thể thấy rõ thành Trường-an.”
    Nổi tiếng hơn hết là thiền sư Vân Thê Châu Hoằng [32] ở cuối đời Minh, từng được những người tu niệm Phật tôn xưng là Liên Trì đại sư. Trong bài “minh” [33] ở tháp của đại sư Liên Trì có ghi: “Một bầu nước, một cây gậy, ngài vân du các nơi, tham học chư vị tri thức. Lên núi Ngũ-đài ở phía Bắc, được đức Văn Thù cảm ứng phóng hào quang. Đến núi Phục-ngưu theo chúng trị ma. Vào kinh sư yết kiến thiền sư Tiếu Lãnh Đức Bảo [34].

    Thiền sư Tiếu Lãnh nói: ‘Quái! Ngươi từ ngoài ba ngàn dặm đến cầu ta khai thị. Ta có gì khai thị?’ Ngài bèn từ tạ và đi về hướng Đông, giữa đường nghe tiếng trống phát ra từ một căn nhà sàn của người tiều phu, hốt nhiên đại ngộ! Ngài liền nói bài tụng rằng:
    Hai mươi năm trước việc còn nghi
    Ngàn dặm gặp nhau thật lạ kì
    Ném kích đốt hương [35] toàn giấc mộng
    Phật ma không luận thị cùng phi
    Cả ý niệm về giáo pháp và giác ngộ đều triệt tiêu, qui về tâm vô sở đắc. Ban đầu ngài khởi bước vân du, từ nơi công phu tham cứu niệm Phật là có được năng lực; đến đây bèn khai pháp môn Tịnh Độ, nhiếp hóa cả ba loại căn tánh. Ngài trước tác bộ Di Đà Sớ Sao, gồm đến mười vạn lời, để cực lực cổ xúy cho chủ trương của mình, là dung hội sự lí, chỉ qui về tâm. Ngài lại nhớ ngày trước có xem tác phẩm Cao Phong Ngữ Lục [36], thấy rằng, từ khi tham cứu việc này cho đến nay, cái tinh nhuệ nhất, không gì trội hơn sự đào luyện thuần thục của thiền sư Cao Phong [37]; đó là hướng vào nội tâm mà cầu đạo. Ý của ngài lúc đó là gom nhập Khuông-sơn và Vĩnh-minh [38] làm một, lại sao lục những lời nói khẩn yếu trong lúc gặp cơ duyên của chư vị cổ đức, biên thành sách Thiền Quan Sách Tấn, đồng thời cho khắc lên đá, nêu những khẩu quyết cho người tham cứu, nêu rõ chủ trương Thiền Tịnh song tu, không ra ngoài một tâm.”
    Từ những ghi chép trên, có thể thấy đại sư Liên Trì, từ lúc ban đầu do tham cứu niệm Phật mà có được năng lực, rồi lại do tham thiền mà chứng nhập lí tánh; nhân đó mà đề xướng chủ trương “Thiền Tịnh song tu”, soạn sách Di Đà Sớ Sao gồm mười vạn lời, làm cho các hành giả Tịnh Độ chan chứa niềm vui đạo vị; một tác phẩm trọng yếu khác của ngài là Thiền Quan Sách Tấn, thì “Trong đời sống, đi thì mang đãy, ở thì đặt án, một lần xem thì tâm chí được khích lệ, thần thái tươi tỉnh, ở cái thế bắt buộc phải tiến tới trước.” Suốt một đời, ngài y theo sách Thiền Quan Sách Tấn ấy để tự thúc đẩy mình tiến tới cảnh giới giải thoát rốt ráo. Tác phẩm trứ danh ấy cũng còn được chư vị thiền giả đời sau rất mực tôn sùng.
    Ngài Vân Thê Châu Hoằng đã đem kiến giải của một vị thiền sư mà đề xướng pháp môn “Thiền Tịnh song tu”, không những cổ xúy phương pháp trì danh niệm Phật – gọi là “sự trì”, mà cũng còn đề xướng phương pháp tham cứu niệm Phật – gọi là “lí trì”; như dạy người tham cứu câu “Niệm Phật là ai?”, đó tức là Thiền Tịnh song tu. Những vị được hành giả tu Tịnh Độ tôn làm tổ sư trọng yếu của tông Tịnh Độ, như thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ thuở trước, cũng như vậy, tức là do kinh nghiệm tu chứng của một thiền sư mà thấy biết sâu xa cái đạo lí “tất cả các pháp môn tu hành đều chảy về Thiền Định, tất cả các kết quả của công phu tu hành đều chảy về Tịnh Độ”; cho nên biết rằng, Thiền Tịnh có thể thông nhau.
    III. SƠ LƯỢC về THIỀN TỊNH SONG TU
    Nói chung người niệm Phật, phần đông những người chấp trì danh hiệu Phật đều là niệm Phật trong tán loạn. Tuy gọi là niệm Phật, nhưng có lẽ cái thời gian nổi vọng tưởng chiếm phần nhiều. Người có chút ít tinh tấn, khi phát giác thấy có vọng tưởng, liền vội vàng trở về với danh hiệu Phật. Người thật sự có tinh tấn, khi niệm Phật, không những trong tâm mặc niệm danh hiệu Phật, mà đồng thời cũng nghĩ nhớ tới Phật. Cuối cùng là khi niệm Phật, danh hiệu Phật không còn khởi hiện mà trong tâm vẫn niệm Phật, đó là lúc tiến vào cảnh giới “vô tướng”; đó cũng là điều mà người ta thường nói là “Niệm Phật, niệm cho đến khi không còn Phật có thể niệm.” Đi đứng ngồi nằm, luôn luôn ở trong cảnh giới vô tướng niệm Phật; đó là bước đầu nhập môn vào pháp môn niệm Phật viên thông của Bồ-tát Đại Thế Chí. Lúc bấy giờ tâm chuyên nhất không tán loạn, tịnh niệm nối tiếp nhau, không có hình tướng Phật, không có danh hiệu Phật. Vẫn niệm Phật không bỏ, hưởng được niềm vui đạo pháp, cùng cực khinh an. Người niệm Phật đạt đến trình độ này là đã cùng thông với pháp môn thiền định, thì tự nhiên có thể khán thoại đầu, tham công án; đó chẳng phải là Thiền Tịnh dung thông ư?


    Nếu người niệm Phật, từ chỗ lạy Phật và xưng niệm danh hiệu Phật mà tiến vào cảnh giới vô tướng niệm Phật, muốn tu Lăng-nghiêm đại định [39], cần phải có sẵn những kiến thức về tu định, đồng thời phải đọc kĩ kinh Lăng Nghiêm; trong mọi hoạt động của đời sống hằng ngày đều niệm Phật vô tướng, và mỗi ngày cũng nên chọn một thời giờ cố định để tĩnh tọa niệm Phật vô tướng. Đợi đến khi hai chướng sự và lí [40] đều tiêu trừ thì tự nhiên dần dần vào sâu Lăng Nghiêm đại định, chứng đắc các loại niệm Phật tam muội (xin xem chú thích số 4 của tác giả ở cuối sách).
    Có những người niệm Phật hoặc trì chú khác, trong mọi sinh hoạt hằng ngày, trong tâm chấp trì danh hiệu Phật hoặc một thần chú cố định, niệm niệm không quên lãng, đồng thời cũng chọn một thời gian cố định trong ngày để tĩnh tọa, từ một đến hai giờ đồng hồ, trong lúc ngồi thì chắp tay hoặc bắt ấn, chuyên tụng danh hiệu Phật hoặc câu chú; lúc đầu thì miệng tụng tai nghe, tâm ý theo sát danh hiệu Phật hoặc câu chú, không gấp gáp, không chậm rãi, chuyên chú xưng niệm; tâm tán loạn dần dần tập trung, an định, thư thái, tự tại, không bị cái gì níu kéo, cũng không vướng mắc vào cái gì. Người có trí tuệ, lúc bấy giờ trong miệng vẫn an tường tụng niệm không ngừng, mà trong tâm thì không còn nhớ tới tiếng niệm Phật hay tụng chú, dần dần tiến vào trong định (lúc vào không biết vào, đến lúc ra mới biết là mình vừa vào định), mất hẳn cái ý niệm về thời gian và không gian. Lúc bấy giờ tuy trong miệng vẫn niệm Phật tụng chú, mà sự thật thì tâm đã vào định. Cũng có người niệm Phật trì danh, vào lúc chỉ tịnh [41], tâm niệm và tâm nghe tập trung làm một, danh hiệu Phật không khởi, an trụ nơi một niệm tương tục là nhớ Phật, cuối cùng thì mất hết dấu vết mà vào định. Cảnh giới này cũng là định lực đầy đủ, mà chỉ có những người đã chuẩn bị đầy đủ tri kiến về tu định mới có thể thực tập được. Đạt đến trình độ này thì Tịnh Độ đã thông với Thiền Định.
    Những điều vừa trình bày trên, vẫn chỉ là “sự nhất tâm” và thứ lớp của định; “lí nhất tâm” thì tương ưng với chân lí, cũng tức là chính mình thấy rõ Phật tánh (tự tánh) mình vốn có đầy đủ. Điều mà người ta gọi là “Di Đà tức là tự tánh, Tây-phương không rời gang tấc”, cái cảnh giới “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh-độ” tự nhiên hiện bày trước mắt; đó chính là cái cảnh giới chứng ngộ của Thiền. Nếu không thực tập pháp môn “Thiền Tịnh song tu” thì không thể nào đạt đến được. Hành giả, bất luận là tham thoại đầu, công án, hay cơ phong [42], hoặc do ở sự tham cứu niệm Phật mà chứng nhập chân lí, thì bản chất của tất cả các loại công phu ấy vẫn là thiền. Tuy cách thức phát khởi thiền của các loại công phu ấy không giống nhau, nhưng cái cảnh giới chứng nhập sau khi đã lên địa vị Kiến-đạo, hoàn toàn không khác; mà cái quá trình tham cứu để chứng nhập chân lí cũng không sai khác. Bởi vậy mà chủ trương Thiền và Tịnh Độ bổ sung cho nhau, trợ giúp cho nhau, không cần phải phân biệt cái kia với cái này.
    Sau đây xin chép lại một đoạn nguyên văn trong quyển 3 của bộ Di Đà Sớ Sao của thiền sư Vân Thê Châu Hoằng (tức Liên Trì đại sư), hành giả có thể do đây mà có một cái nhìn toàn diện:
    “Thể cứu nghĩa là nghe danh hiệu Phật, không những chỉ có nhớ nghĩ, mà còn phải quán sát ngược lại chính mình, xem xét kĩ càng, thấy rõ nguồn cội. Xem xét đến chỗ cùng cực thì tự nhiên khế hợp với bản tâm mình. Nếu bảo danh hiệu Phật là có, thì cái tâm ‘năng niệm’, bản thể vốn không, cho nên Phật mà mình niệm, hoàn toàn không thể nắm bắt được. Nếu bảo là không, thì cái tâm ‘năng niệm” sáng suốt, không mơ hồ, cho nên Phật mà mình niệm, hiển lộ rõ ràng. Nếu bảo là cũng có cũng không, thì cả có niệm và không niệm đều chấm dứt. Nếu bảo là chẳng phải có chẳng phải không, thì cả có niệm và không niệm đều tồn tại. Chẳng phải có thì thường vắng lặng; chẳng phải không thì thường chiếu soi; không phải cũng có cũng không, không phải chẳng phải có chẳng phải không, thì không vắng lặng không chiếu soi, mà vừa chiếu soi vừa vắng lặng. Dứt đường ngôn thuyết, tuyệt đường tư duy; không làm sao khởi được tên, hiện được tướng, cho nên chỉ có ‘nhất tâm’. Do thấy được chân lí mà gọi là ‘lí nhất tâm’ vậy. Tuệ có năng lực soi vọng; kèm thêm định thì soi vọng vốn không, vọng tự điều phục. Lại nữa, chiếu soi có thể phá trừ vọng, không phải chỉ điều phục mà thôi.”
    Lại một đoạn khác: “Hai chữ tham và nghi, không cần phải phân giải. ‘Nghi’ là tên khác của tham, đều là cái ý xem xét kĩ càng. Nhưng, khán câu ‘Niệm Phật là ai?’, thì lấy sự chứng ngộ làm chuẩn tắc mới thôi. Lại nữa, cổ nhân nói rằng: Khán thoại đầu, không nên đoán mò, bóp méo, cũng không được ném vào trong cái vỏ vô sự [43]. Chỉ ‘nhìn như vậy’. Đó là lời nói cốt yếu vậy.”
    Những lời dạy của đại sư Liên Trì về tham cứu niệm Phật và thể cứu niệm Phật vừa được ghi lại ở trên, từ lúc khởi đầu tham cứu câu “Niệm Phật là ai?”, cho đến khi cảnh giới giác ngộ hiện ra trước mắt, thì ở cái khoảng giữa Thiền và Tịnh Độ hiển bày, là vô cùng mật thiết. Bất luận là từ niệm Phật mà ngộ nhập, hoặc do tham thiền mà ngộ nhập, bản chất của chúng đều là Thiền. Bất luận là ở nơi thế giới này niệm Phật mà ngộ nhập, hoặc sau khi vãng sinh về thế giới Cực-lạc được nghe Phật và Bồ-tát thuyết pháp mà ngộ nhập, thì bản chất của chúng vẫn không gì khác hơn là Thiền. Và cái cảnh giới giác ngộ của hai con đường đó cũng chỉ là một, không hai, không khác.

  5. #5

    Mặc định

    TRI KIẾN PHẢI CÓ KHI TU TẬP PHÁP MÔN NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG của BỒ TÁT ĐẠI THẾ CHÍ

    I. PHÁP MÔN NÀY LÀ PHÁP MÔN TU ĐỊNH, KHÔNG PHẢI LÀ PHÁP MÔN TRÌ DANH
    Pháp môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ-tát Đại Thế Chí là một loại pháp môn tu định. Mượn phương pháp tu định để tu tịnh độ, làm cho pháp môn tịnh độ đã trực tiếp lại hữu hiệu. (Xin xem chú thích số 5 của tác giả ở cuối sách.)
    Thông thường những người tu pháp môn tịnh độ, đa phần là tu “trì danh niệm Phật”, tức là phương pháp niệm danh hiệu Phật ra tiếng hay mặc niệm. Xướng niệm không ngừng, cho đến khi đạt tới chỗ không còn vọng niệm, vọng tưởng, mà chỉ còn có danh hiệu Phật, nhất tâm nhớ tới danh hiệu Phật, gọi là “sự nhất tâm”. Phần đông những người trì chú cũng vậy.
    Vậy mà, 25 vị Bồ-tát trong kinh Lăng Nghiêm, khi nói về pháp môn tu hành viên thông của chính mình, không có pháp môn nào mà không phải là pháp môn tu định. Mỗi một pháp môn của các ngài đều có thể giúp cho hành giả tự mình thấy được Phật tánh, chứng được lí nhất tâm, nhập được cảnh giới giải thoát rốt ráo “năm uẩn đều không”; cho nên gọi là “pháp môn viên thông”. Trong 25 pháp môn của 25 vị Bồ-tát trên, thì pháp môn thứ 24, cũng tức là “Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương”, trong đó đức Bồ-tát Đại Thế Chí trình bày về pháp môn Niệm Phật Viên Thông, mà toàn văn của chương này, không có chỗ nào nói đến việc “trì danh niệm Phật”. Từ đầu đến cuối đều nói đến “nhớ”, nói đến “niệm”, mà không nói đến “trì danh hiệu Phật”, hay “đọc danh hiệu Phật”. Ngay cả ở cuối chương cũng chỉ nói đến cái cảnh giới “thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” để “nhập tam ma địa” mà thôi.
    Vì sao vậy? Nhớ là không tên tuổi, không hình tướng. Niệm là không danh hiệu, không âm thanh. Nếu có danh hiệu và âm thanh thì trở thành đọc Phật hiệu, hay xướng Phật hiệu. Bởi vậy mà toàn văn của chương “Niệm Phật Viên Thông” đã không nói đến “trì danh niệm Phật”, mà chỉ nói “nhớ Phật, niệm Phật”.
    Ví dụ như khi niệm Phật, miệng xướng tụng Phật hiệu thì thiệt căn (lưỡi) phải chuyển động. Lại nhân xướng tụng Phật hiệu mà ngực và bụng phải điều khiển hơi thở ra vào, đó là thân căn chuyển động; và tị căn (mũi) cũng chịu tác động dây chuyền. Lại nữa, miệng tụng đọc thì tâm ngưng đọng để lắng nghe, và như thế tức là nhĩ căn (tai) chuyển động. Các căn đã động thì ý căn không thể không động. Như thế thì không thể bảo là “thu nhiếp sáu căn”, lại cũng không thể nói được là “tịnh niệm tiếp nối”. Nếu mặc niệm Phật hiệu ở trong tâm, đồng thời nhớ nghĩ đến Phật, thì năm căn mắt, tai, mũi, lưỡi và thân tuy không động, nhưng ý căn thì còn động. Ngay trong khi Phật hiệu ở trong tâm được xướng niệm liên tục, thì sự thật, đó là lúc cái vọng niệm đơn giản được lặp đi lặp lại ở trong tâm. Nếu đọc “A Di Đà Phật”, thì một câu Phật hiệu ấy có bốn niệm, bốn âm thanh. Đã có bốn niệm và bốn âm thanh được lặp đi lặp lại không ngừng ở trong tâm, thì biết rằng, ý căn vẫn chưa được thu nhiếp vào chỗ bất động. Ý căn đã chưa được thu nhiếp vào một niệm mà bảo trì không dứt, thì không thể bảo là “thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”.
    Điều được gọi là “tịnh niệm tiếp nối”, là chỉ cho mỗi niệm ở trong tâm đều là niệm thanh tịnh; nếu suy nghĩ về chuyện thế tục thì không phải là tịnh niệm. Dù cho suy nghĩ đến việc thiện, pháp thiện, thậm chí suy nghĩ về Phật pháp, đều không thể gọi là tịnh niệm. Từ những tri kiến của tu định mà nói, phàm tất cả ngôn ngữ, văn tự, hình tướng, đều là vọng niệm, không gọi là tịnh niệm. Phải xa lìa tất cả ngôn ngữ, văn tự, hình tướng để nhớ Phật, niệm Phật, thì cái niệm đó mới gọi được là tịnh niệm. Cái tịnh niệm nhớ Phật niệm Phật như thế đó, cứ được nối tiếp không gián đoạn, gọi là “tịnh niệm tiếp nối”. Nếu cái tịnh niệm ấy có lúc bị gián đoạn, rồi lại được tiếp tục, cũng không thể gọi là “tịnh niệm tiếp nối”, mà chỉ được gọi là “tịnh niệm đứt nối”. Cho dù chỉ bị gián đoạn trong một giây, hoặc nửa giây, cũng chỉ có thể gọi là “tịnh niệm đứt nối” mà thôi. Muốn được nhập vào tam ma địa (định), không những cần phải thu nhiếp sáu căn, mà còn phải có được tịnh niệm tiếp nối, mới thành công. Cho nên, thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, chính thực là lìa tướng, là “vô tướng” vậy.
    Ở đây lại xin dẫn một câu khác ở trong kinh Đại Bảo Tích để được sáng tỏ thêm: “Vô tướng nghĩa là không có thân và hành động của thân, không có tên gọi, không có câu nói, cũng không hiện bày.” Phàm tu tập pháp môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ-tát Đại Thế Chí, xin hãy đem cái tri kiến này mà thâm nhập, lãnh hội toàn diện pháp môn.
    Cứ y nơi mặt chữ mà giải thích, “vô tướng” nghĩa là không có sắc thân, lại không có nhân nơi sắc thân mà có tất cả những bày hiện của tư duy, phép tắc, không có ngôn ngữ, văn tự, danh cú, không có các biểu thị của ý tứ để cho người ta có thể thấy biết.
    Nói rõ hơn, chúng ta đang ở trong thế gian vật chất này, có nhiều loài khác nhau, như người, các loài bàng sinh, tất cả sinh mạng vô tình và sinh mạng ở giữa hai loại chúng sinh hữu tình và chúng sinh vô tình (tạm thời không bàn tới bốn loài trời, a-tu-la, địa-ngục, ngạ-quỉ); rồi giữa loài người với nhau thì tướng mạo bề ngoài mỗi mỗi đều khác nhau; rồi các loài chúng sinh hữu tình cùng chúng sinh vô tình, giữa các đồng loại của chúng, tướng mạo hình thù đều khác nhau; tất cả đều do nguyên nhân là có sắc thân vậy. Nếu không có sắc thân thì không có hình tướng biểu hiện; đã không có hình tướng biểu hiện thì tức là “vô tướng”.
    Ở trong thế gian vật chất này, tất cả những bày hiện của biểu tướng, hành vi, phù hiệu, tư duy, phép tắc, đều do nơi sắc thân mà có. Nếu không có sắc thân tồn tại trong thế gian vật chất này, thì tất cả mọi biểu tướng đều không tồn tại; đã không có sắc thân cùng biểu tướng, thì mọi hành vi, phù hiệu, ngôn ngữ, tư duy, phép tắc, đều không tồn tại ở thế gian. Các cõi trời Dục giới (xin xem chú thích số 6 của tác giả ở cuối sách) – tức phần nhiều ngoại giáo gọi là thiên đường, thiên quốc v.v..., cũng vậy.
    Trong thế gian vật chất này, tất cả ngôn ngữ, bao quát cả các thứ âm thanh, tín hiệu của các loài bàng sinh, đều nhân có sắc thân tồn tại mà hiện bày, để tiện cho đồng loại hoặc các loài khác biểu thị ý tứ và thông hiểu nhau. Nhân có văn cú mà liền có tư duy; nhân có tư duy mà có phép tắc; phát triển mãi cho đến về sau bèn có văn học, thần học, khoa học, nghệ thuật, hình nhi thượng học [44], v.v... tất cả các ngành học vấn ở thế gian hiện bày. Nhân vì có sắc thân mà có luyến ái, có tranh chấp; từ đó, ở thế gian, vì phải giải quyết những tranh chấp do tham ái phát sinh, mà chế định các phép tắc; những phép tắc này cứ diễn tiến mãi, dần dần trở thành pháp luật.
    Bởi vậy, tất cả các pháp tướng ở thế gian như ngôn ngữ, văn cú, danh tướng, tư duy, phép tắc v.v..., sở dĩ được sinh thành, tồn tại, biến hóa, đều do cái nhân trồng nơi sắc thân mà hiện bày ra. Tất cả những ngôn ngữ, văn cú, danh tướng, tư duy, phép tắc ấy sở dĩ tồn tại là vì một mục đích: biểu thị ý tứ. Mà sự biểu thị của ý tứ được tồn tại là nhân vì có sắc thân vậy. Thế gian vật chất là như thế, sáu cõi trời Dục giới cũng là như thế. Chư Phật phần nhiều ở tại nhân gian mà thành Phật, lí do là như vậy. Nếu không thành Phật ở tại nhân gian, mà thành Phật ở các cõi trời Dục giới, thì chỉ có thể hóa độ cho chúng sinh ở các cõi trời Dục giới (gồm chư vị thiên chúa, thiên thần và thiên chúng) mà thôi. Không hiển thị ở nhân gian thì rất khó hóa độ cho chúng sinh ở nhân gian. Hơn nữa, chúng sinh ở các cõi trời Dục giới tham đắm nặng nề thú vui ngũ dục, hóa độ rất khó; nếu thành Phật ở nhân gian thì hóa độ cho chúng sinh ở nhân gian dễ dàng hơn, vì chúng sinh ở đây được trực tiếp thấy nghe cung kính, mà chư thiên ở các cõi trời Dục giới và Sắc giới, nếu có duyên lành, cũng được hóa độ ngay tại nhân gian. Bởi vậy, chư Phật đều thành Phật ngay tại nhân gian, vì nhân gian có sắc thân và các biểu hiện của sắc thân như ngôn ngữ, văn cú, danh tướng, tư duy, phép tắc.
    Do sự giải thích sơ lược đoạn kinh văn ở trên mà biết được rằng: Nếu xa lìa sắc thân cùng những hiện bày của sắc thân, ngôn ngữ, văn cú, và những biểu thị của ý tứ, thì tức là “vô tướng”. Mà pháp môn Niệm Phật Viên Thông này, cái cảnh giới được gọi là “nhớ Phật niệm Phật, thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”, không có sắc thân, ngôn ngữ, văn cú, phù hiệu, cùng những biểu hiện của sắc thân v.v..., cũng không có pháp gì thị hiện để cho người khác thấy biết. Trừ phi người niệm Phật vô tướng ấy mượn sắc thân và ngôn ngữ, văn cú, cùng những biểu hiện của sắc thân như tư duy và phép tắc, để chỉ bày cho người khác cái cảnh giới cùng phương pháp của cách niệm Phật này, nếu không thì người khác không biết nhờ đâu mà được hiểu biết. Mà cảnh giới của loại niệm Phật vô tướng ấy mới chính là cảnh giới chân thực của pháp môn Niệm Phật Viên Thông của đức Bồ-tát Đại Thế Chí.
    II. MỘT CHÚT THANH MINH và MỘT VÀI KHÍCH LỆ
    Để tu tập thành công pháp môn này, hành giả phải cần thời gian dài hay ngắn? Muốn biết chắc điều đó, hãy nên xét kĩ xem, đối với nội dung sách này, hành giả hiểu được sâu hay cạn, và có y như cách thức mà tu tập hay không. Nếu hiểu rõ hoàn toàn những lời nói trong sách này, và y theo đó mà tu tập, đối với người bình thường mà nói, ước chừng từ hai đến sáu tháng thì có thể lãnh hội được pháp môn Niệm Phật Vô Tướng; nếu là hạng người lợi căn, hoặc đã có sẵn công phu trong động, thì một khi nghe qua liền lãnh hội.
    Theo kinh nghiệm của kẻ hậu học này, bắt đầu từ ngày 3.9.1991, tại hai đạo tràng khác nhau – một là đạo tràng tu thiền nọ của Kim Dung Cơ Cấu Phật Học Xã tại Đài-bắc; một là thiền đường do ông bà Trần cư sĩ xây dựng ở Thạch-bài – tôi đã giảng thuật cho 30 đạo hữu cùng tu, kết quả, trong vòng 6 tuần lễ, có 2 vị tu tập thành công. Sau đó cũng lần lượt có vị tu tập thành công. So ra thì các đạo hữu ở Thạch-bài thành công nhiều hơn, nguyên do là vì quí vị ở đó tu hành như thật. Quí vị ấy tuy học Phật muộn màn, thể hội chậm chạp, nhưng lòng tin tràn đầy, tu trì với tâm trong trắng, và sau 3 tháng thì tu tập thành công. Về sau lại có một vài đạo hữu, nhân nghe băng ghi âm giảng giải về pháp môn Niệm Phật Viên Thông, đồng thời đọc bài văn “Đàm Vô Tướng Bái Phật dữ Vô Tướng Niệm Phật” (Bàn về pháp môn lạy Phật vô tướng và niệm Phật vô tướng), rồi siêng năng hành trì, và cũng trong 3 tháng thì tu tập thành công. Trong vòng 4 tháng cuối năm (1991), có cả thảy 9 vị tu tập thành công. Hỏi những vị từng đến nghe giảng pháp môn này nhưng chưa tu tập thuần thục, thì biết rằng, nhân vì phần đông quí vị này vốn không thích pháp môn phương tiện của buổi ban đầu là lạy Phật và trì danh niệm Phật, mà bây giờ thì cũng chưa tu tập một cách đúng mức, cho nên chưa có thể thành thục.
    Mùa hè năm 1989, tại một tự viện nọ, kẻ hậu học này từng tặng cho một số vị cư sĩ tu thiền bài đoản văn “Đàm Vô Tướng Bái Phật dữ Vô Tướng Niệm Phật”. Một trong các vị đó, vì không thích lạy Phật, đã đem bỏ bài đoản văn ấy nơi một góc nào đó trong chùa. Có một người thiện căn sâu dầy, khi nhận tờ nguyệt san do chùa đó phát hành, thấy trong tờ nguyệt san ấy có cặp theo bài đoản văn kia, bèn đọc. Đọc xong thì vô cùng vui mừng, liền y theo bài văn mà tu trì, chẳng bao lâu đã thành thục; tự mình có khả năng tham thoại đầu, thường trú trong câu nghi vấn thiền. Đó là người đầu tiên chỉ y cứ vào một bài đoản văn mà tu tập thành công pháp môn Niệm Phật Vô Tướng.
    Đến như người bình thường niệm Phật, chỉ xin cần hết sức kiên nhẫn, đọc quyển sách này thật kĩ càng. Chớ nên vì cái cảnh giới niệm Phật vô tướng vừa thuật ở trước khó tưởng tượng, mà cho rằng rất khó tu trì, rồi sinh nản lòng. Nên biết rằng, những người tu tập thành công pháp môn Niệm Phật Vô Tướng đã được nói tới ở trước, đa số là những người niệm Phật. Do đó có thể thấy, người niệm Phật có nhân duyên rất sâu với pháp môn Niệm Phật Viên Thông của đức Bồ-tát Đại Thế Chí. Nếu hành giả đã có công phu trì danh niệm Phật, lại gặp đúng lúc được tu pháp môn này, càng dễ thành tựu hơn so với những người chưa từng niệm Phật. Một lúc nào đó tu tập thành công, lại tiếp tục duy trì hộ niệm, thì đến giờ phút lâm chung, muốn sinh về thế giới Cực-lạc, đó là điều cầm chắc trong tay.
    Viết đến đây, gặp ngày 5.2.1992 (tức ngày Mồng 2 tháng Giêng âm lịch), trong số 30 đạo hữu cùng tu, đã có 12 vị thành tựu công phu niệm Phật vô tướng; 6 vị trong số đó đã tiến vào giai đoạn “tham thoại đầu” (có 4 vị thường khởi nghi tình [45]). Trong 6 vị tham thiền này thì chỉ có một vị nguyên gốc học thiền, còn 5 vị kia đều là người trì danh niệm Phật.
    Có 6 vị khác chưa đến giai đoạn tham thiền, vẫn còn tiếp tục tu niệm Phật vô tướng, mà nguyên gốc đều là những người trì danh niệm Phật. Có vị muốn trọn đời tu niệm Phật vô tướng; sau khi thâm nhập pháp môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ-tát Đại Thế Chí, lúc xả bỏ báo thân sẽ cầu sinh về tịnh độ Cực-lạc. Có vị muốn tiếp tục dùng phương pháp lạy Phật và niệm Phật vô tướng để tăng cường cho công phu trong động, rồi sau đó mới tham thiền. Có vị lại chọn phương pháp tham cứu niệm Phật. Hầu hết 6 vị ấy sẽ có lúc phát khởi nghi tình, trở thành tham cứu niệm Phật, rồi nhân đó mà có lúc sẽ tiến đến giai đoạn thiền quán. Do đó có thể thấy, pháp môn niệm Phật vô tướng là loại công phu trong động mà người tham thiền và người niệm Phật đều cực lực thọ dụng; chư vị hành giả nên có cái nhìn chính đáng đối với nó. Còn các vị khác tu tập chưa thành công, về sau cũng nhân xây dựng được lòng tin mà bắt đầu luyện tập, trước mắt lần lượt đã thấy có tiến bộ.
    Bởi vậy cho nên, bất luận là người tu thiền, hay tu tịnh độ niệm Phật, nếu chịu khó đọc kĩ quyển sách này, thể hội tri kiến và phương pháp tu trì, tinh tấn và bền chí luyện tập mỗi ngày, thì có thể trong vòng từ 2 đến 6 tháng là đạt được kết quả. Nếu như một ngày đánh cá, ba ngày phơi lưới, thì có muốn thu hoạch cũng không có gì để thu hoạch.
    III. TINH NGHĨA của PHÁP MÔN NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG
    (BÀN TIẾP về TRI KIẾN – 1)
    Vì sao pháp môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ-tát Đại Thế Chí lại là pháp môn niệm Phật vô tướng?
    Kẻ hậu học này, sau khi đã bàn về “tri kiến”, sẽ lại trình bày như thế nào là các loại phương tiện thiện xảo dùng để tu tập pháp môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ-tát Đại Thế Chí, nhằm giúp hành giả y như phương pháp để thể nhập vào cảnh giới mà pháp môn này nói tới. Nhưng trước hết, xin quí vị hành giả hãy bền chí, hiểu rõ tường tận về “tri kiến”, để khỏi dụng công lầm lẫn mà uổng phí tinh thần và khí lực.
    Phàm những người tu pháp môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ-tát Đại Thế Chí, đều nên đem cái niệm “tưởng niệm” mà niệm Phật, chứ không phải là miệng niệm ra lời. Trong pháp hội Lăng- nghiêm, đức Bồ-tát Đại Thế Chí đã vâng mệnh đức Thế Tôn, trình bày pháp môn tu tập viên thông của ngài như sau:
    “Tôi nhớ hằng hà sa kiếp xưa, có đức Phật ra đời tên là Vô Lượng Quang. Mười hai đức Phật nối tiếp nhau ra đời trong một kiếp [46], mà đức Phật sau cùng tên là Siêu Nhật Nguyệt Quang. Đức Phật ấy đã dạy tôi pháp ‘niệm Phật tam muội’. Ví như có một người chỉ chuyên nhớ, còn một người chỉ chuyên quên, thì hai người này tuy gặp nhau mà không phải gặp nhau, tuy thấy nhau mà không phải thấy nhau. Nếu hai người nhớ nhau, sự nhớ nghĩ đến nhau ấy giữa hai người ngày càng sâu sắc, cứ như thế từ đời này sang đời khác, khắng khít như hình với bóng, không ngang trái nhau. Chư Phật mười phương thương nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con, nhưng nếu con cứ trốn tránh thì mẹ tuy thương nhớ mà có làm được gì! Nếu con nhớ mẹ cũng giống như mẹ nhớ con, thì mẹ con suốt đời không xa cách nhau. Nếu tâm chúng sinh nhớ Phật tưởng Phật, thì đời này và đời sau nhất định được thấy Phật, không cách xa Phật; không cần phải nhờ phương tiện mà tâm tự sáng. Như người ướp hương thì thân tự có mùi thơm, như thế gọi là ‘hương quang trang nghiêm’ [47]. Từ khi tu hành, tôi dùng tâm niệm Phật mà nhập vào pháp ‘vô sinh nhẫn’; nay ở thế giới này để nhiếp hóa những người niệm Phật, tiếp dẫn họ sinh về Tịnh-độ. Phật hỏi về ‘viên thông’, tôi không chọn lựa [48]; thu nhiếp hết sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, nhập vào chánh định, đó là bậc nhất.”
    Do đoạn kinh văn trên mà có thể biết, đức Bồ-tát Đại Thế Chí, từ vô số kiếp về trước, nhân được đức Phật Siêu Nhật Nguyệt Quang dạy cho pháp môn niệm Phật tam muội, ngài bèn y theo chỉ một pháp môn ấy mà tu trì cho đến ngày nay. Bây giờ ngài đang thọ thân Bồ-tát sau cùng, rồi sẽ thành Phật, mà ngài vẫn dùng pháp môn ấy để vừa tự tu, vừa hóa độ, tiếp dẫn chúng sinh về cõi Tịnh-độ. Đoạn kinh văn của chương “Niệm Phật Viên Thông” tuy không dài, nhưng từ đầu cho đến cuối đều chỉ nói “ức” và “niệm” [49], mà không hề nói tới “chấp trì danh hiệu”; cho nên không phải là phép “trì danh niệm Phật”. Đó là điểm thứ nhất.
    Đức Phật nói Kinh Lăng Nghiêm, mục đích là dạy người tu Lăng-nghiêm đại định mà chứng ngộ “năm uẩn đều không”, được giải thoát rốt ráo; cho nên trước tiên Ngài dạy cho có tri kiến rõ ràng rốt ráo đối với tâm tánh, bảy lượt tìm tâm mà không tìm thấy. Thứ đến Ngài bảo 25 vị Bồ-tát tự trình bày sự tu trì của mình về pháp môn viên thông Lăng-nghiêm đại định; rồi Ngài lại bảo Bồ-tát Văn Thù bình luận. Sau cùng Ngài lại thuyết minh về phạm vi năm uẩn và cảnh giới chứng không. Nếu là trì danh niệm Phật, thì chỉ bằng vào sức tín nguyện hạnh [50] nhất tâm bất loạn của người tu hành, là có thể vãng sinh Tịnh-độ, đâu cần phải khởi đầu từ chỗ cứu xét rõ ràng tâm tánh, rồi phải phiền phức đề cập tới phạm vi của năm uẩn sắc thọ tưởng hành thức và cảnh giới chứng không! Vậy mà đức Thế Tôn không những đã thuyết minh một cách ân cần, mà còn cẩn thận dặn dò các vị Bồ-tát làm thế nào để nhận rõ các cảnh giới ma. Do đó có thể thấy, đây là pháp môn Tịnh Độ do Định mà nhập vào, chứ không phải là pháp môn Tịnh Độ trì danh. Đó là điểm thứ hai.
    Trong đoạn kinh văn trên lại có nói: “Tôi dùng tâm niệm Phật mà nhập pháp vô sinh nhẫn.” Câu nói này cho thấy, trực tiếp dùng tâm niệm Phật để chế ngự tâm ở yên một chỗ, cho đến khi thu nhiếp hết sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, nhân đó mà vào sâu trong Lăng-nghiêm đại định, chứng nhập cảnh giới vô sinh pháp nhẫn. Như thế này thì cách trì danh niệm Phật không thể nào đạt tới được, – trừ phi người trì danh niệm Phật biết chuyển vào pháp môn niệm Phật vô tướng này. Đó là điểm thứ ba.
    Vậy xin phân tích thuyết minh như sau:
    1. Đức Bồ-tát Đại Thế Chí nói: “... Chư Phật mười phương thương nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con, nhưng nếu con cứ trốn tránh thì mẹ tuy thương nhớ mà có làm được gì! Nếu con nhớ mẹ cũng giống như mẹ nhớ con, thì mẹ con suốt đời không xa cách nhau. Nếu tâm chúng sinh nhớ Phật tưởng Phật, thì đời này và đời sau nhất định được thấy Phật, không cách xa Phật...” [51]Đoạn kinh văn này hoàn toàn chỉ dùng chữ “nhớ” (ức), lại còn đem sự việc mẹ con nhớ tưởng nhau để thuyết minh. Nếu vị hành giả nào từng rời khỏi nhà từ thuở nhỏ, sống xa mẹ trong mười mấy năm, luôn luôn nhớ tưởng mẹ hiền, thì cũng từng biết rằng, trong lúc nhớ thì không có tên họ, cũng không phải từ sáng đến tối trong tâm lúc nào cũng gọi mẹ mẹ, mà chỉ là giờ giờ phút phút nhớ nghĩ tới mẹ hiền, chỉ có một niềm áy náy không yên. Nếu có vị hành giả nào từng là cha mẹ, có con đi du học hoặc di trú nước ngoài, trong lúc nhớ con cũng vậy, chỉ là luôn luôn một niệm nhớ nhung, mà trong tâm không hề xướng niệm tên con. Nếu là trai gái ở tuổi thanh niên, cái tuổi được gọi là “người thục nữ yểu điệu, sánh đôi tốt đẹp với người quân tử” [52], đang say đắm trong tình yêu tha thiết, một ngày không thấy nhau ví bằng xa cách ba năm; dù cho ngày đêm cô cậu nhớ nghĩ đến nhau không phút nào quên, nhưng trong tâm người này cũng không hề xướng niệm tên của người kia, mà chỉ là không ngừng nhớ tưởng nhau mà thôi. Cho tới lúc nhớ tưởng đến độ nhập thần, hoàn toàn quên mất mình, quên cả âm thanh cùng thế giới bên ngoài; thì cái cách nhớ tưởng như thế đó, chính là cái tinh nghĩa chủ yếu của chương “Niệm Phật Viên Thông”.
    Ngay khi chúng ta nhớ nghĩ một đức Phật hay một vị Bồ-tát, trong tâm không có hình tượng, âm thanh, danh hiệu; nhớ một đức Phật, tưởng một đức Phật, mà không có một niệm nào khác, đó là thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm tiếp nối. Đơn giản mà lại thanh tịnh như thế, sao lại không tu? Trái lại cứ phải lặp đi lặp lại, phiền phức lôi thôi rằng, phải cần chấp trì danh hiệu mới có thể nhớ Phật, niệm Phật! Bởi vậy, trong chương “Niệm Phật Viên Thông”, từ đầu tới cuối đã không nói tới việc chấp trì danh hiệu Phật, mà cứ nói đi nói lại hai chữ nhớ và niệm. Nếu là pháp môn trì danh, thì như kinh Phật Thuyết A Di Đà chẳng hạn, xương minh việc chấp trì danh hiệu, trong bao nhiêu ngày được nhất tâm bất loạn liền được vãng sinh; hoặc trong giờ phút lâm chung, chấp trì danh hiệu đến bao nhiêu niệm nhất tâm bất loạn thì được vãng sinh Tịnh-độ. Bởi vậy cho nên, hai chữ “ức niệm” chính là mục đích căn bản của chương “Niệm Phật Viên Thông”. Nếu có vị thiện tri thức dùng pháp môn trì danh niệm Phật để thuyết minh cho pháp môn niệm Phật viên thông, tức là vị ấy đã dùng phương tiện quyền xảo để tiếp dẫn chúng sinh; rồi sau đó sẽ cân nhắc lúc nhân duyên phù hợp mà nói tiếp về phương pháp niệm Phật vô tướng, dẫn dắt chúng sinh tiến vào mục đích căn bản của chương “Niệm Phật Viên Thông”. Nếu người đã có cơ sở vững chắc về trì danh niệm Phật, nay phát tâm tu tập pháp môn này, thì có thể điều phục sáu căn một cách mau chóng, pháp hỉ tràn đầy, trở thành một người vô cùng an vui trong pháp môn niệm Phật vô tướng.
    2. Kinh Lăng Nghiêm đã dành một phần rất lớn để thuật lại việc đức Thế Tôn vì tôn giả A Nan và đại chúng mà xét rõ tâm tánh, được gọi là “tìm tâm ở bảy chỗ mà tìm không thấy”. Sau khi giảng cho chúng đệ tử hiểu rõ “tự tánh vốn không”, đức Thế Tôn lại bảo 25 vị Vô-học [53] và Bồ-tát, mỗi vị tự trình bày sự tu tập của mình về pháp môn viên thông Lăng-nghiêm đại định. Ngài cũng bảo Bồ-tát trí tuệ đệ nhất, thầy của bảy đức Phật [54], là Văn Thù Sư Lợi, bình luận xem, trong 25 pháp môn [55] đó, pháp môn nào thích hợp nhất cho chúng sinh ở thế giới này tu tập. Ngài Văn Thù Sư Lợi nhận định rằng, pháp môn thích hợp nhất cho chúng sinh ở thế giới này là pháp môn “Nhĩ căn viên thông” của Bồ-tát Quán Thế Âm. Sau lời bình luận của Bồ-tát Văn Thù, đức Phật nói tiếp bốn lời dạy bảo rõ ràng thanh tịnh, rồi lại nói kĩ về quá trình tu tập định lực này, trong đó, phải biết rõ tường tận như thế nào là phạm vi của sắc uẩn, như thế nào là chứng nhập tính không của sắc uẩn; cho đến như thế nào là phạm vi của thọ, tưởng, hành, thức, và như thế nào là chứng nhập tính không của thọ, tưởng, hành, thức. Tiếp đến đức Phật dạy về cách nhận rõ các ma sự. Nếu nội dung kinh Lăng Nghiêm chỉ là nói pháp môn trì danh để vãng sinh về tịnh độ của chư Phật, thì đức Thế Tôn chỉ cần trình bày sự thù thắng của tịnh độ ấy cùng cách phát nguyện trì danh đến chỗ nhất tâm bất loạn để cầu vãng sinh về cõi ấy, thế là đủ, chứ đâu cần phải khổ lao tâm huyết, dạy bảo kĩ càng, dùng biết bao nhiêu thì giờ để nói biết bao nhiêu tri kiến! Như thế có thể biết, 25 pháp môn nói đến trong kinh Lăng nghiêm, đều là những pháp môn tu Lăng-nghiêm đại định; mà Niệm Phật Viên Thông chính là pháp môn tu định phát thiền chỉ đứng hàng thứ nhì sau pháp môn Nhĩ Căn Viên Thông. Cho nên, Niệm Phật Viên Thông là trực tiếp lấy phương pháp tu Định để tu pháp môn Tịnh Độ một cách rốt ráo, duy tâm.
    Xã hội trước cuộc cách mạng sản nghiệp là xã hội nông nghiệp, mặt trời mọc thì làm, mặt trời lặn thì nghỉ, thời gian rảnh rang ngoài các việc đồng áng thì có nhiều, mà nhân khẩu lại ít. Ra khỏi thành ba dặm là bặt tiếng các loài gia súc, âm thanh huyên náo của chợ búa cũng không còn nghe được. Bên mé nước, dưới bóng cây, khó bị quấy rầy. Lúc đó, việc tu tập pháp môn nhĩ căn viên thông quả là vô cùng thuận lợi. Còn như ngày nay, hình thái xã hội đã thay đổi quá nhiều, ngày ngày mặt trời chưa kịp mọc liền đã ra khỏi nhà, làm việc vội vàng bận rộn suốt một ngày dài, mặt trời lặn đã lâu mà vẫn chưa về nhà. Bây giờ thì đừng nói là ra khỏi thành ba dặm đã bặt tiếng các loài gia súc, mà ngay như lánh ẩn nơi núi thẩm rừng sâu cũng rất khó mong không bị quấy nhiễu! Nếu muốn tu tập pháp môn nhĩ căn viên thông giống người trong xã hội trước như vừa nói, thì cả hoàn cảnh và thời gian đều không còn thích hợp nữa.
    Nếu cứu xét sâu sắc hơn, hai pháp môn này kì thật không có cao thấp, mà rốt cuộc đều là một. Trái lại, theo cái nhìn của kẻ hậu học này, thấy rằng, so với pháp môn nhĩ căn viên thông, pháp môn niệm Phật viên thông có phần trực tiếp hơn; nhất là đối với con người thời hiện đại không còn cơ hội được nghe tiếng nước chảy róc rách, tiếng gió khua động lá rừng trong khung cảnh thiên nhiên.
    Pháp môn nhĩ căn viên thông là dùng tai lắng nghe âm thanh để hạ thủ tu tập. Trước tiên là ở trong tư thế tĩnh tọa mà lắng nghe cho kĩ, nhiếp tâm an trú mà không duyên theo một cảnh nào khác; sau đó là nghe đến đâu thì di chuyển theo đến đó, không lưu lại điều gì trong tai cả. Tiếp theo đó, tâm và cảnh đều vắng lặng, từ “nhập lưu” đến “vong sở” [56], cũng tức là nói rằng: tiếng từ đâu tới, cùng ta đã không can hệ gì nhau; tiếng là tiếng, ta là ta, an trú nơi cảnh giới tự tâm, bấy giờ đã do từ nhĩ căn mà qui về ý căn vậy. Mục đích của sự lắng nghe âm thanh chỉ là dùng nó như một phương pháp trừ khử trạng thái tán loạn; hay nói cách khác, tất cả các phương pháp tu hành (chỉ cho môn học tu định và các môn học trong Phật pháp) đều cần qui kết về ý căn mà hạ thủ tu tập. Pháp môn nhĩ căn rất thích hợp cho con người ở xã hội nông nghiệp trước kia tu trì. Thời đại ngày nay không giống như thế. Chúng ta đang sống trong cái hoàn cảnh hỗn tạp, chen lấn, ồn ào, khó có thể nghe được tiếng nước róc rách, tiếng gió xào xạc. Đến ngày nghỉ cuối tuần mới được rảnh rang, lòng vui mừng hớn hở, ra chơi nơi bờ hồ hay công viên, không ngờ đâu cũng đầy người! Người lớn kêu réo, trẻ con la hét, không chỗ nào có thể ngồi nghỉ yên tâm. Đường sá đầy xe, chen lấn vô trật tự, vất vả lắm mới về được đến nhà; thì lại phải nghe nào tiếng chuông điện gọi cửa, tiếng điện thoại reo, tiếng chó sủa bên nhà hàng xóm, tiếng loa rao hàng của người bán hàng rong, tiếng còi xe hơi, tiếng đầu máy xe lửa xình xịch chạy qua; rồi tiếng còi xe cứu hỏa, xe cứu thương đau nhói tim người, tiếng còi báo động inh tai nhức óc... Hôm nay thì ông A tới thăm; ngày mai lại phải đi thăm ông B. Mới vừa ngồi xuống trên chiếc bồ đoàn thì chuông điện thoại lại reo! Trong cái không khí sinh hoạt đầy khẩn trương, bận rộn của khắp cả mọi người, nếu mỗi ngày có thể có được một khoảng thời gian chừng một giờ đồng hồ để tĩnh tọa, thế là quí quá rồi, đâu dám mong có bốn, năm giờ, cho đến tám, chín giờ! Nếu không có được một khoảng thời gian dài liên tục trong một hoàn cảnh yên tĩnh, làm sao tu tập được pháp môn nhĩ căn viên thông? Cho nên, nếu có một pháp môn nào đó cho phép chúng ta, bất luận là trong lúc hoạt động hay trong lúc tĩnh tọa đều có thể tu trì được, thì đó chính là cái pháp môn mà cả người học thiền tu định lẫn người tu tịnh độ trong thời hiện đại, đều mong mỏi khao khát. Niệm Phật Vô Tướng chính là loại pháp môn ấy! Vả lại, Niệm Phật Vô Tướng là pháp môn trực tiếp từ ý căn mà hạ thủ tu tập, một khi thành công thì bất luận là ở tình huống nào, đều có thể nhớ Phật niệm Phật. Dù cho hoạt động không ngừng trong âm thanh và hình sắc, sự tịnh niệm nhớ Phật vẫn giữ được liên tục, không bị gián đoạn, không bị trở ngại. Đó là điều mà các thiền sư thường nói: “Cưỡi lên âm thanh, che phủ hình sắc”. Đến bực này thì muốn tu tập Lăng-nghiêm đại định cũng được, muốn phát nguyện cầu vãng sinh tịnh độ của chư Phật cũng được, mà muốn tham thiền ngay trong sinh hoạt hằng ngày cũng được; tại vì đã có đầy đủ cái công phu trong động vậy.
    3. Trong kinh văn của chương “Niệm Phật Viên Thông” ấy có nói dùng tâm nhớ Phật niệm Phật; cuối đoạn kinh văn ấy thì nói thu nhiếp hết cả sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, nhập vào chánh định. Đó không phải là “trì danh niệm Phật”; như câu: “Nếu tâm chúng sinh nhớ Phật niệm Phật, thì hiện tại và tương lai nhất định thấy Phật, thân cận bên Phật.” Hoặc như câu: “Tôi trong thời kì tu nhân, đã dùng tâm niệm Phật mà chứng vô sinh nhẫn.” Những câu ấy đều nói đến việc trực tiếp dùng tâm niệm để bắt đầu tu tập: Câu trên thì nói dùng tâm mà nhớ Phật niệm Phật, không phải xưng tụng danh hiệu; câu dưới thì đức Bồ-tát Đại Thế Chí nói chính mình đã do dùng tâm niệm Phật mà chứng nhập vô sinh pháp nhẫn.
    Nếu người tu mà danh hiệu Phật cứ liên tục ở trong tâm, muốn nhập vào chánh định, tương đối có khó khăn; tại vì, mỗi một câu Phật hiệu là do rất nhiều vọng niệm hoặc âm thanh kết thành. Trong tâm mà cứ đeo dính danh hiệu Phật không rời thì không thể nhập định. Nếu người ấy ít phiền não, lại có tri kiến chân chính, sẽ hiểu được rằng, ở phút chót, khi vọng tưởng không còn sinh khởi nữa, thì Phật hiệu cũng không còn xuất hiện trong tâm, chỉ an trú trong một niệm nhớ Phật, tâm không chấp trước vào Phật, bèn dần dần có thể vào định. Nhưng xét cho cùng, đó cũng chỉ là cách gián tiếp, so ra thì đâu có bằng cách trực tiếp dùng tâm nhớ Phật niệm Phật!
    Lại như có người ngồi chuyên tâm niệm ra tiếng danh hiệu Phật, người này cũng rất khó vào định. Nếu người ấy ít phiền não, khi xướng niệm Phật hiệu đã đến chỗ vọng tưởng không còn sinh khởi nữa, tâm không còn chấp trước ở Phật hiệu; miệng cứ tiếp tục niệm Phật hiệu, không gấp không huỡn, mà tâm không đeo dính Phật hiệu, một lòng nhớ Phật mà không chấp trước vào Phật, thì có thể ở trong trạng thái câu Phật hiệu không dứt nơi miệng mà cũng vào được chánh định. Tuy nhiên, ở trường hợp này, cần phải có công phu thật mạnh mẽ, chứ muốn đến được cảnh giới ấy hoàn toàn không dễ dàng. Dù sao cũng không bằng trực tiếp đem tâm niệm mà nhớ Phật niệm Phật, đã nhẹ nhàng, không tổn hơi, lại dễ vào định, thành tựu nhanh chóng.
    Bởi vì pháp môn này là trực tiếp do ý căn – lấy tâm niệm để hạ thủ tu tập, không phải do thiệt căn và nhĩ căn mà chuyển vào ý căn, cho nên nói là “Thu nhiếp hết sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, nhập vào chánh định, đó là đệ nhất.” Và như thế thì có thể biết, pháp môn niệm Phật này là vô tướng, là pháp môn Tịnh Độ do tu định mà chứng nhập; cũng tức là pháp môn khử trừ hình tượng, ngôn ngữ, văn tự, danh hiệu, mà trực tiếp đem tâm nhớ Phật để niệm Phật. Và cũng cần phải dùng cái phương cách “tịnh niệm nối tiếp nhau không dứt để nhớ Phật” này mới có thể nói được là “thu nhiếp hết sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”; nếu có một ý niệm nào khác, thậm chí một câu Phật hiệu xuất hiện, đều không thể gọi là “tịnh niệm tiếp nối”. Do sự nhớ Phật bằng tịnh niệm tiếp nối không gián đoạn này mà sau cùng có thể nhập vào chánh định, như người có căn cơ thượng thượng, cho đến chứng nhập cảnh giới năm uẩn đều không, giải thoát rốt ráo, đó là tịnh độ duy tâm, tịnh độ rốt ráo; đó chính là pháp môn Niệm Phật Viên Thông mà đức Bồ-tát Đại Thế Chí đã nói.
    Nhìn tổng quát lại những điều vừa trình bày trên, có thể thấy, pháp môn này là Niệm Phật Vô Tướng, là pháp môn Tịnh Độ do định mà chứng nhập. Quí vị hành giả chớ nên vì trong quá khứ các vị thiện tri thức đã dùng việc trì danh niệm Phật làm phương tiện hướng dẫn mà chưa nói đến cảnh giới niệm Phật vô tướng, bèn cho rằng đa số các vị thiện tri thức đều công nhận pháp môn niệm Phật viên thông do đức Bồ-tát Đại Thế Chí nói đúng là trì danh niệm Phật, mà lấy đó cho là quan niệm chủ yếu, rồi bài xích pháp môn niệm Phật vô tướng. Kẻ hậu học này tin tưởng sâu sắc rằng, chư vị thiện tri thức khi quán sát thấy nhân duyên thành thục, tất sẽ nói tiếp về cái lí lẽ thâm diệu của việc nhớ Phật niệm Phật, niệm Phật vô tướng, v.v... nói chung là pháp môn Niệm Phật Viên Thông, để cho cái công đức rộng lớn của việc hoằng dương pháp môn Niệm Phật Viên Thông được hoàn toàn viên mãn.
    IV. NGƯỜI HỌC PHẬT NÊN XA LÌA TÂM TAM ĐỘC, TÂM PHAN DUYÊN và TÂM GIÁC QUÁN
    (BÀN TIẾP về TRI KIẾN – 2)
    Tổ thứ tư của Thiền tông là thiền sư Đạo Tín nói: “Trừ bỏ tâm tam độc, tâm phan duyên [57], tâm giác quán. Niệm Phật tâm tâm tiếp nối, bỗng nhiên lắng trong, không còn niệm sở duyên. Kinh Đại Phẩm nói: ‘Không có cái để niệm, đó gọi là niệm Phật.’ Thế nào gọi là không có cái để niệm? Tức là, niệm Phật bằng tâm thì gọi là không có cái để niệm...... Vì sao vậy? Thức không có hình, Phật không có hình, Phật không có tướng mạo.” Trên đây là trích lời của thiền sư Đạo Tín [58], mục đích là để hành giả khử trừ hay giảm thấp tâm chấp trước đối với sắc thân, danh hiệu, thanh âm, và vọng niệm.
    Người thế gian phần nhiều bị ba thứ phiền não độc hại là tham ái, sân hận và vô minh che lấp, đến nỗi không thể tự mình thấy được Phật tánh; do đó mà tham đắm vào các dục vọng như hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm, hoặc tiền tài, sắc dục, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ; thường là không biết kính trên nhường dưới. Một chút gì không bằng lòng liền nổi trận lôi đình. Khi tiền của, thế lực không đủ bằng người, liền nghĩ cách ám hại báo thù; nếu tiền của dồi dào, thế lực mạnh mẽ thì công nhiên cưỡng đoạt của người. Tất cả những hành động tham lam, sân hận của thân, miệng, ý đều nhân vì vô minh mà gây nên. Do vô minh mà không thấy được thật tướng của pháp giới chúng sinh, cho rằng vật chất là thật có mà sinh tâm chấp trước; không thấy cái bản chất chân không diệu hữu của tự tánh, nên mới chấp cái thân năm uẩn huyễn hữu này mà cho là “ngã”; từ đó tạo ra các nghiệp. Người tốt thì biết làm lành để cầu sinh lên các cõi trời; người ở bậc trung bình thì biết làm lành để cầu có được phước báo, tiếng tốt trong đời này; người xấu ác thì làm lành giả dối, mượn danh khi người, thậm chí dùng mánh khóe thủ đoạn để cướp đoạt của người; nhân đó mà tâm phan duyên không dứt, mỗi niệm mỗi niệm đều chứa đầy tham sân si.
    Nếu tự mình thấy được tự tánh, cảnh giới chứng ngộ không lùi, tất thấy cái bản chất chân không diệu hữu của Phật tánh vốn có, cái cảm giác chân thật về thân tâm và thế giới liền tiêu mất; không còn khởi niệm chấp trước đối với thân tâm thế giới, thì tâm tam độc tự nhiên dứt tuyệt, không còn tạo nghiệp xấu nữa. Kẻ phàm phu chúng ta nên suy nghĩ thân tâm là vô thường, thế giới là vô thường, tất cả mọi vật đều do nhân duyên giả hợp, chỉ có tạm thời, cuối cùng cũng tiêu hoại. Nếu trong sinh hoạt hằng ngày, gặp việc gì cũng suy nghĩ về sự vô thường, trong lúc tĩnh tọa lại càng suy nghĩ sâu xa về tính chất vô thường của thân tâm và thế giới, thì tâm chấp trước của chúng ta đối với thế giới, thân tâm, quyến thuộc, của cải, danh lợi v.v..., sẽ giảm nhẹ đi nhiều lắm, cái tác dụng của tâm tam độc cũng yếu dần, và lúc đó thì cái tâm phan duyên cũng hạ xuống thật thấp, rất dễ dàng an trú trong chánh niệm để niệm Phật.
    Ở trong thế giới đầy năm trược này, nếu có người tu định, tham thiền, tu tịnh độ, cho đến nhiều pháp môn khác, để cầu ra khỏi ba cõi, giải thoát sinh tử, cũng như hồi hướng đến việc cứu độ chúng sinh ra khỏi ba cõi, giải thoát sinh tử, thật khó có gì đáng quí hơn! Nhưng người tu thì nhiều mà người thành công thì ít; bởi vì phần nhiều người ta thiếu chánh tri chánh kiến và mong cầu cảm ứng, mà giác quán thì không dứt. Chính cái tâm giác quán này đã làm chướng ngại cho người niệm Phật hoặc tu thiền tập định, khiến cho họ khó đạt đến chỗ nhất tâm bất loạn.
    Sau đây xin lược bàn về tâm giác quán, từ cạn đến sâu, giúp cho hành giả xây dựng được tri kiến chính xác, trong quá trình tu học tự biết chọn lựa, quyết định. Xin quí vị hành giả xem kĩ và suy nghĩ.
    Người niệm Phật nhân mong cầu cảm ứng, luôn luôn quán sát trong lúc niệm Phật có trạng thái khác lạ hay không, tâm khởi giác quán. Nếu thấy ánh sáng, nghe âm thanh, ngửi mùi hương, thân tâm khinh an, bèn khởi tâm phan duyên, bồng bềnh không định tĩnh. Muốn được nhất tâm bất loạn thật là khó khăn. Họa hoằn có người trì niệm danh hiệu Phật mà đạt đến chỗ không còn khởi vọng tưởng, người ấy lúc bấy giờ trong tâm chỉ muốn định, chứ không muốn niệm danh hiệu Phật; nhưng vì không nghe được những lời chỉ dạy về định, tri kiến không đầy đủ, trong tâm dùng dằng, không biết nên trì niệm Phật hiệu hay bỏ đi, rồi sinh phiền não, đến nỗi không được nhất tâm bất loạn. Nếu có đầy đủ tri kiến, thiện căn, thì lúc bấy giờ người ấy sẽ biết buông bỏ Phật hiệu mà an trú trong cảnh giới niệm Phật vô tướng. Nếu được Phật cảm ứng, phóng ánh sáng, nghe mùi hương, thân tâm khinh an, mà không lấy đó làm mừng, tâm không khởi động, luyện tập lâu dài, ngày ngày tiếp nối không gián đoạn; thậm chí trong sinh hoạt hằng ngày, lúc động cũng như lúc tĩnh đều có thể niệm Phật vô tướng, được thấy một niệm ban sơ [59], cho đến dần dần đạt được chánh định niệm Phật, thì có niềm vui nào sánh bằng! Được như vậy là đều do đã xa lìa được tâm giác quán thô thiển.
    Qua những điều vừa trình bày trên thì biết rằng, tâm tam độc, tâm phan duyên và tâm giác quán, đối với người niệm Phật rất là đại kị, cần phải xa lìa.
    Đến như người tu học thiền định, thì cái hại của tâm tam độc tham sân si như vừa nói trên, cũng đại kị và cần phải xa lìa như vậy. Lại nữa, người tham thiền có lúc nào đó bỗng thấy mình là người lợi căn, rồi sinh tâm khinh bỉ người niệm Phật, cho rằng người niệm Phật căn khí yếu kém, cả tri kiến và đức tin đều không đầy đủ, cho nên mới niệm Phật để cầu sinh về cõi tịnh độ do chư Phật hóa hiện ra. Đâu biết rằng, trong số người niệm Phật cũng không thiếu gì những người thượng căn, từng đạt đến chỗ tâm không có gì để niệm, không có Phật để niệm, dường như tâm định.
    Cũng có một số ít người tu thiền, không những khinh bỉ người niệm Phật, mà đối với những người cùng tu thiền, thậm chí đối với những đạo tràng tu thiền khác, cũng sinh tâm kiêu mạn, cho rằng mình là giỏi hơn tất cả, không chịu lắng nghe tiếng nói cùng những kinh nghiệm của người khác. Như thế là ở trên cái tâm tam độc lại có thêm cái tâm ngã mạn, rồi nhân cái tâm ngã mạn ấy mà tâm sân hận càng trở nên mạnh mẽ. Cho nên, tâm ngã mạn thật quả là mối nguy hại to lớn cho người học thiền tu định; nếu không dứt trừ thì suốt ngày chỉ lẩn quẩn trong cái ý niệm nhân ngã, phân biệt hơn thua, muốn cầu tâm được định, cho đến thấy được tánh, thật giống như kẻ phàm phu mà muốn lên các cõi trời, khó khăn vô cùng!
    Còn cái tâm phan duyên làm chướng ngại cho thiền định, đối với các hành giả mới phát tâm cũng như những vị đã tu tập lâu năm, hầu như không khác nhau mấy. Người mới học thiền định, thường thường ở trong quá trình tu hành, hễ nghe âm thanh, thấy ngoại cảnh, liền khởi tâm phan duyên; đó gọi là “tâm viên ý mã” [60], đợi đến lúc tỉnh ra thì có sớm cũng đã mười tám ngàn dặm, muốn được tâm định, ôi xa quá là xa! Đến như người tu hành đã lâu năm thì thường cố chấp nơi Phật pháp và cảnh giới khinh an, niệm niệm không trụ, phan duyên không dừng, muốn cầu được tâm định, cũng quả thật là khó! Muốn trừ khử cái tâm phan duyên này, trong lúc động cũng như trong lúc tĩnh đều có cách để tu. Cuốn sách này nhằm giới thiệu pháp môn “NIỆM PHẬT VÔ TƯỚNG”, động tĩnh đều thích nghi; dùng cái tâm vô tướng nhớ Phật lạy Phật, và cách trì danh niệm Phật làm phương tiện quyền xảo cho bước khởi đầu, thì có thể nhập vào pháp môn đó.
    Tâm giác quán không những là phiền não đối với người tu định, mà còn là thứ đại kị đối với người tham thiền; xin phân tích trình bày như sau:
    1. Người tu định thường dùng phép đếm hơi thở, thu nhiếp tâm ý vào một cảnh liên tục. Lúc đầu tâm còn thô sơ nên tán loạn, phải mỗi hơi thở mỗi đếm; đếm tới mười thì trở lại một. Cứ lặp đi lặp lại như thế, cho đến khi tâm không còn phan duyên thì chuyển sang phép theo dõi hơi thở. Theo dõi hơi thở một cách liên tục thì tâm sẽ qui về một mối thuần nhất. Lúc đó thì cái tâm giác quán thô sơ cũng không còn, người có trí sẽ khéo léo dùng tâm giác quán vi tế, khi các thứ cảnh giới vi diệu khởi lên từ tâm thuần nhất đó, biết khéo léo chọn lựa quyết định, sẽ chọn lựa một cảnh giới thiện diệu mà để tâm an trụ vào đó. Nếu an trụ được lâu, tâm sẽ lại chuyển thành vi tế hơn nữa, bấy giờ phải dần dần xả bỏ luôn tâm giác quán vi tế, mới có thể nhập vào “vị-đáo-địa định” [61]. Nếu đã nhập được vào vị-đáo-địa định, lại tập luyện thuần thục, khi những chướng ngại tâm tánh đều bị tiêu trừ hết, liền ở nơi sự sáng tỏ hoàn toàn của giác quán mà được nhập vào Sơ-thiền. Do công đức Sơ-thiền mà có được lạc-thọ, đó gọi là tâm thuần nhất với giác quán hỉ lạc [62]. Nếu đến giai đoạn cuối cùng mà vẫn còn chấp chặt nơi giác quán, không chịu buông bỏ, thì không thể nhập vào vị-đáo-địa định; không tu tập vị-đáo-địa định thì khó có thể nhập Sơ-thiền, huống gì là Nhị, Tam hay Tứ-thiền! Cho nên người tu định, trong thời kì đầu phải buông bỏ tâm giác quán thô lậu, cột tâm vào một pháp; sau đó sinh khởi tâm giác quán vi tế, khiến tâm an trú nơi cảnh giới vi tế. Sau khi sự an trú đã trở nên thuần thục, bấy giờ lại phải buông bỏ luôn tâm giác quán vi tế, mới có thể chứng nhập vị-đáo-địa định và Sơ-thiền. Khi tu Nhị-thiền, Tam-thiền, Tứ-thiền, và Tứ-không định, cũng hoàn toàn giống như vậy. Hành giả do biết rõ giác quán, có thể bỏ cái thô sơ lấy cái vi tế, cuối cùng thì bỏ luôn cái vi tế mới có thể vào định, chứng được các thiền. Còn nữa, khi các cảnh giới huyễn hóa của sáu thức hiện ra, phải khéo léo đối trị, không để bị giao động. Nếu chấp trước nơi tâm giác quán thì liền bị mê hoặc bởi các cảnh giới do sáu thức biến hóa, tâm phát sinh tham ái, tạo cơ hội thuận lợi cho ma vương dẫn dắt vào đường hiểm ác; rồi đưa đến việc nói dối mình chứng đắc cảnh thiền này, cảnh thánh nọ, đó là cầu đi lên nhưng trái lại là đọa lạc. Cũng có lúc qua lại với quỉ thần, bị quỉ thần quấy phá, tâm không định được, tất không thể nhập vào cảnh giới của chư Phật.
    2. Người tham thiền lại càng phải trừ bỏ giác quán. Nếu không đoạn giác quán thì công phu sẽ không thể kết tụ thành một khối, nghi tình không khởi không sâu. Muốn tiến vào được giai đoạn “thấy núi không phải là núi, thấy sông không phải là sông” (xin xem chú thích số 7 của tác giả ở cuối sách) cũng còn không thể được, nói gì đến việc đánh phá khối nghi, thấy tánh giác ngộ!
    Bác Sơn Vô Dị Nguyên Lai thiền sư [63] là một vị thiền sư lớn ở cuối triều đại nhà Minh [64], cũng là vị cao tăng quán thông cả Tông-môn và Giáo-hạ [65], từng biên soạn sách Tông Giáo Thông Thuyết (1 quyển). Ngài cũng có sách Bác Sơn Hòa Thượng Tham Thiền Kỉnh Ngữ lưu truyền ở đời, trong đó ngài chỉ dạy người tham thiền phải tu tập như thế nào. Nơi nào trong sách ấy ngài cũng nêu rõ cái lỗi của tâm giác quán, lại còn nhấn mạnh điều mà ngài bảo là “Không được đem tâm chờ ngộ [66]!” Người tham thiền, khi tâm sinh khởi nghi tình, nếu có tâm “chờ ngộ” thì không thể tiến được vào giai đoạn “thấy núi không phải là núi”. Nếu không có đủ công phu để tiến vào cảnh giới này, muốn cầu tự mình minh tâm kiến tánh, quả thật là khó khăn! Chỉ có nương nhờ một vị thiện tri thức thông suốt cả Tông và Giáo hướng dẫn và thúc đẩy mà thôi; nhưng loại thiện tri thức như thế cũng thật là hiếm có!
    Bác Sơn thiền sư lại nói: “Khi tu tập, chỉ biết nghi tình không phá, ngoài ra không có niệm gì khác. Nếu có một niệm tơ hào nào khác, tức thì huệ mạng bị tổn thương.” Thậm chí ngài còn nói rằng: “Tôi nói ‘niệm khác’, không phải chỉ có pháp thế gian, mà tất cả những việc tốt trong Phật pháp – ngoại trừ việc quán xét tâm, – tất cả đều gọi là ‘niệm khác’. Mà cũng đâu phải chỉ có những việc trong Phật pháp, mà ngay nơi tâm thể, những niệm như lấy, bỏ, chấp, buông, cũng đều gọi là ‘niệm khác’ vậy.” Tham thiền vì sao như thế? Nguyên nhân chính là tâm giác quán; đó là đại kị. Giác quán không đoạn trừ thì thoại đầu thường bị mất, nghi tình không phát khởi, vội gì bàn đến việc tham thiền!
    Người niệm Phật cũng vậy, cần phải diệt trừ tâm tam độc, tâm phan duyên và tâm giác quán; cần phải niệm Phật, niệm niệm tiếp nối. Niệm cho đến khi nhất tâm bất loạn, lắng trong vắng lặng, trong tâm không còn một niệm gì để duyên; điều đó cũng có nghĩa là không phan duyên cả đến hình tướng và danh hiệu Phật, âm thanh của danh hiệu Phật, cho đến một niệm nhớ tưởng cũng không phan duyên. Thiền sư Đạo Tín còn nêu một đoạn trong Kinh Đại Phẩm [67], rằng: “Không có cái để niệm, gọi là niệm Phật. Thế nào là không có cái để niệm? Tức là tâm niệm Phật, gọi là không có cái để niệm.” Nói cách khác, bất luận hành giả tu hành theo pháp môn nào, chỉ cần lấy “đệ nhất nghĩa” làm căn bản, không chấp trước vào “sắc ngã”, cho đến không chấp trước vào “thọ tưởng hành thức ngã”, không khởi các tâm tam độc, phan duyên và giác quán, không chấp trước vào tất cả pháp thế gian lẫn xuất thế gian, không một niệm nào duyên theo cảnh, bám theo cảnh, gọi đó là “không có cái để niệm”. Cái tâm “lắng trong vắng lặng không có một niệm phan duyên” này mới thực sự là cái “tâm niệm Phật”; đó là cảnh giới “lí nhất tâm”, là cảnh giới của “thật tướng niệm Phật”. Cư sĩ Bành Nhị Lâm [68] cũng đã viết trong tác phẩm Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam Muội Luận của ông: “Biết tất cả Phật cho đến tâm ta, tất cả đều như mộng. Biết tất cả Phật đều như ảnh tượng, tâm mình như nước. Biết sắc tướng của tất cả Phật cho đến tâm mình, tất cả đều như huyễn. Biết tất cả Phật cho đến tâm mình, tất cả đều như tiếng vang. Ta biết như thế, ức niệm như thế, thì tất cả chư Phật mà ta trông thấy, đều do tự tâm.”
    Niệm Phật đạt đến cảnh giới “lí nhất tâm”, tất phải nhờ tu tập cùng lúc cả Thiền và Tịnh, thể cứu niệm Phật, tự mình thấy rõ bản lai diện mục “niệm Phật là ai?”, cảnh giới giác ngộ không lùi mất, từng giờ từng phút, lúc nào cũng đem con mắt tâm quán chiếu, thấy rõ Phật tánh vốn có sẵn nơi mình, trải qua tháng năm, vĩnh viễn không lùi mất. Cảnh giới ấy, không phải người chuyên niệm Phật thì không dễ thành tựu, ngay cả người tham thiền cũng ít ai đạt đến được. Thiền sư Hoàng Bá Hi Vận [69] thường lặp đi lặp lại câu nói: “Trong cửa này, ngàn người, vạn người, chỉ được ba, năm người.” Cho nên người tham thiền không nên khinh chê người niệm Phật, cũng đừng nên coi thường pháp môn Vô Tướng Niệm Phật. Pháp môn này có sâu có cạn. Cạn thì được “sự nhất tâm”, nhưng phần đông người tham thiền còn không nhất định đạt được. Sâu thì không những được “lí nhất tâm”, mà còn có thể chứng đắc Đẳng-giác, Diệu-giác [70], giải thoát rốt ráo.
    Câu mở đầu của chương “Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông” nói rằng: “Pháp vương tử Đại Thế Chí và 52 vị Bồ-tát cùng tu một pháp môn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, ......” Đã có vô lượng vô số các vị Bồ-tát từng tu chung pháp môn Niệm Phật Viên Thông với Bồ-tát Đại Thế Chí, cùng lúc tham dự pháp hội Lăng-nghiêm, trong đó, 52 vị làm đại biểu, đã cùng với Bồ-tát Đại Thế Chí đảnh lễ chân Phật; rồi do chính Bồ-tát Đại Thế Chí nói ra pháp môn Niệm Phật Viên Thông này. Vì sao có 52 vị Bồ-tát làm đại biểu, mà không phải là một con số nào khác? Con số “52” đó hàm chứa một ý nghĩa sâu xa rằng, pháp môn này có cạn có sâu, thu nhiếp cả người lợi căn lẫn độn căn. Từ hạng Bồ-tát phàm phu cạn cợt nhất (bắt đầu từ bậc Tín đầu tiên đến bậc Tín thứ mười, tức trọn vẹn cấp Thập-tín) và hạng Bồ-tát ở địa vị Hiền (gồm 3 cấp Thập-trụ, Thập-hạnh và Thập-hồi-hướng), lên trên đến Bồ-tát ở địa vị Thánh (từ Địa thứ nhất đến Địa thứ 10, tức trọn vẹn cấp Thập-địa), cho đến chư vị Bồ-tát sắp thành Phật ở hai địa vị Đẳng-giác và Diệu-giác [71], vô luợng vô số, đều đồng tu pháp môn Niệm Phật Viên Thông này. Từ đó có thể thấy, pháp môn Niệm Phật Viên Thông thù thắng đến mức nào!
    Phương pháp mà sách này trình bày, có thể giúp cho hành giả từ giai đoạn niệm Phật hữu tướng với tâm tán loạn, đạt đến giai đoạn niệm Phật trong “sự nhất tâm” (tức niệm Phật vô tướng). Phương pháp này giúp cho hành giả, ngay trong nếp sinh hoạt bận rộn của thời đại ngày nay, cũng có thể có được tịnh niệm tiếp nối (tức niệm Phật vô tướng); đó chính là một loại “công phu trong động”. Trong sinh hoạt thường ngày mà có thể hành trì vô tướng niệm Phật nhất tâm bất loạn, thì trong lúc tĩnh tọa lại càng dễ dàng đạt đến cảnh giới nhất tâm bất loạn. Đến như có thể đạt đến chỗ “lí nhất tâm” hay không, thì còn phải coi xem các kiếp trước của hành giả, thiện căn, tuệ căn thế nào; nhân duyên quả báo ra sao; cho đến có dứt bỏ được sự chướng, tiêu trừ được tánh chướng mà tinh tấn tu trì hay không.
    Hành giả tu tập pháp môn Niệm Phật Viên Thông này được thành công ở bước đầu (tức niệm Phật vô tướng trong sự nhất tâm), trong tương lai khi xả bỏ báo thân, muốn vãng sinh về cõi Phương-tiện hữu-dư hoặc cõi Thật-báo trang-nghiêm ở thế giới Cực-lạc, tùy ý mà cảm ứng, chắc chắn được vãng sinh (xin xem chú thích số 1 của tác giả ở cuối sách); ngoại trừ trường hợp vẫn còn quyến luyến thế gian, không buông bỏ quyến thuộc, tiền của và sự nghiệp, hoặc chưa tương ứng với biệt nguyện của chư Phật (xin xem chú thích số 8 của tác giả ở cuối sách). Nếu hành giả có đầy đủ thiện căn phước đức làm tư lương, và có phương tiện thiện xảo, tu tập vào sâu đến lí nhất tâm và cảnh giới thâm diệu hơn nữa, thì muốn vãng sinh về tịnh độ của chư Phật cũng đều được vãng sinh. Nếu không muốn sinh về tịnh độ chư Phật, cũng có thể trụ nơi “duy tâm tịnh độ”. Người đạt được sự nhất tâm (tức tu tập thành công pháp môn Niệm Phật Vô Tướng), cố nhiên có thể cầu vãng sinh về thế giới Cực-lạc ở phương Tây, cũng có thể sinh liền vào cảnh giới thâm diệu để tu học sâu xa hơn, nhờ đó mà tiến lên các phẩm hoa sen, được sớm trở lại cõi Ta-bà, cứu độ chúng sinh đau khổ.
    Người tham thiền nếu không muốn đi sâu vào pháp môn Niệm Phật Viên Thông, có thể lấy nó làm phương tiện, dùng xong liền bỏ đi – sự thật thì pháp môn này còn quí hơn cả vàng ngọc; cũng như qua sông thì phải dùng thuyền, khi đã đến bờ rồi thì không cần dùng thuyền nữa. Sau khi lấy pháp môn này tu tập thành tựu công phu trong động, tức đã đầy đủ năng lực khán thoại đầu, tham công án. Lúc bấy giờ tham thiền thì thật chắc chắn, vững vàng, tuyệt đối không gặp trở ngại. Cho nên người thật tâm tham thiền, nếu chưa có đủ năng lực khán thoại đầu, xin đừng nên vì không vừa lòng với phương tiện thiện xảo trong thời kì đầu của pháp môn này (tức lạy Phật và trì danh niệm Phật), mà bỏ cái pháp môn tu tập công phu trong động một cách tuyệt diệu này! Hành giả tu tập pháp môn ấy, có thể thành tựu công phu trong động; công phu đã có, bèn trở về thiền môn, tu thiền càng có hiệu quả lớn lao, còn gì vui hơn, sao lại không làm!? Lại còn có một điều lợi nữa: Pháp môn này rất thích hợp cho việc tu tập trong hoàn cảnh đầy chao động. Mỗi ngày chỉ cần hai buổi sớm tối đều dành ra từ 10 đến 20 phút để lạy Phật, đối với người học Phật bận rộn ngày nay, việc đó thích hợp không gì bằng!
    Những điều vừa trình bày ở trên, xin quí vị hành giả nên lĩnh hội sâu sắc, nắm vững tinh nghĩa, sau đó hãy y theo phương pháp và thứ tự rất mực đơn giản sẽ được trình bày trong Chương Bốn sau đây mà tinh tấn luyện tập, thì chắc chắn sẽ thành tựu pháp tu Niệm Phật Vô Tướng; không những có hi vọng cầu vãng sinh Tịnh-độ, mà còn có thể tùy duyên tham thiền, thể cứu niệm Phật, vui biết bao nhiêu!

  6. #6

    Mặc định

    PHƯƠNG PHÁP và THỨ TỰ TU TẬP PHÁP MÔN
    NIỆM PHẬT VÔ TƯỚNG
    I. BA QUI Y và BA NGHIỆP PHƯỚC TỊNH
    Hành giả (xin xem chú thích số 9 của tác giả ở cuối sách) nếu còn chưa phải là một Phật tử chính thức, xin hãy tìm chọn đến một ngôi tự viện Phật giáo chánh thống ở gần mình, liên hệ xin sắp xếp tổ chức lễ Qui y. Nghi thức lễ thọ ba qui y rất đơn giản. Điều kiện cần yếu là phải có mặt tại tự viện, quì trước Phật, một vị tì kheo hoặc tì kheo ni chứng minh và truyền trao “ba sự quay về và nương tựa”: - Quay về nương tựa Phật. - Quay về nương tựa giáo pháp do Phật nói. - Quay về nương tựa chư hiền thánh tăng, cùng hiền thánh tăng và tăng đoàn phàm phu hiện đang trụ ở thế gian để giữ gìn Phật pháp. Đồng thời cũng phát bốn lời thề nguyện lớn: - Chúng sinh không ngằn mé, xin nguyện đều độ khắp. - Phiền não không cùng tận, xin nguyện đều dứt sạch. - Pháp môn không số lượng, xin nguyện đều tu học. - Quả Phật không gì hơn, xin nguyện sẽ chứng thành. Đó là những lời thề nguyện quán thông khắp chư Phật. Sau lễ Qui y, hành giả liền chính thức trở thành người đệ tử của Ba Viên Ngọc Quí (Phật – Pháp – Tăng). Đó là bước chính yếu đầu tiên của người tu học pháp môn Niệm Phật. Tâm không chịu qui y mà muốn tu học Niệm Phật Viên Thông, muốn thành tựu Niệm Phật Tam Muội, điều đó không bao giờ xảy ra!
    Trước khi qui y, vị tăng trụ trì chắc chắn phải dạy trước cho người Phật tử cách lạy Phật như thế nào. Lễ lạy thì phải năm vóc [72] chạm đất, để biểu thị lòng cung kính, khát ngưỡng của người lạy đối với đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư của cả trời và người. Sự cung kính khát ngưỡng đã phát sinh từ nơi lòng tin, cộng thêm công đức và nguyện lực của Phật, thì tu pháp môn này chóng được thành công. Động tác lạy Phật, xin hành giả học tập trong tự viện, hoặc nhờ các Phật tử khác chỉ dẫn, ở đây xin miễn trình bày.
    Kinh Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật có nói: “... Nay Như Lai vì phu nhân mà rộng nói nhiều ví dụ, và cũng vì tất cả phàm phu trong đời vị lai, những ai muốn tu tịnh nghiệp [73] để được vãng sinh về thế giới Cực-lạc ở phương Tây. Muốn sinh về thế giới ấy, thường phải tu ba loại phước đức: một là hiếu thuận, phụng dưỡng cha mẹ, kính thờ các bậc sư trưởng, giữ tâm từ bi không giết hại chúng sinh, tu tập mười nghiệp lành; hai là thọ trì ba sự quay về và nương tựa, giữ gìn đầy đủ các giới luật, không phạm oai nghi; ba là phát khởi tâm bồ đề, tin tưởng sâu xa lí nhân quả, đọc tụng kinh điển đại thừa, khuyến khích, sách tấn người tu hành...” Cho nên tất cả phàm phu, những ai muốn tu tịnh nghiệp để vãng sinh về nước Cực-lạc, đều phải có đầy đủ ba nghiệp phước tịnh như trên. Tu trì pháp môn Niệm Phật Vô Tướng (là pháp môn dung thông cả Thiền, cả Tịnh, cả Mật) này cũng phải lấy các thứ tịnh nghiệp trên đây làm tư lương.
    Bởi vậy cho nên, nếu tu tập pháp môn này mà không đạt được kết quả, phải biết rằng trong đời này hoặc ở các đời trước, người ấy chưa từng tu ba nghiệp phước tịnh như vừa nói trên; vậy thì nên lập tức tu tập ba nghiệp phước tịnh đó để giúp làm trợ duyên. Nếu không hiểu rõ ràng nội dung của ba nghiệp phước tịnh này, xin tùy duyên học hỏi nơi các vị thiện tri thức, chắc chắn sẽ được chỉ bày cặn kẽ.
    Lại nữa, hành giả tu tập pháp môn Niệm Phật Vô Tướng này, nếu ăn chay được là tốt nhất, nếu không ăn chay được thì ăn “rau bên thịt” [74] cũng được; nhưng tuyệt đối không được ăn năm thứ rau có vị cay nồng (hành, tỏi, hẹ, hành tây, nén), rượu và thuốc lá cũng cấm tuyệt. Nếu vì bệnh hoạn mà phải uống rượu thuốc, thì cần phải y theo toa thuốc mà uống có liều lượng nhất định, vào thời giờ nhất định, không nên tham uống.
    Những điều trình bày trên đây là nhằm gia tăng trợ duyên và giảm thiểu cho đến trừ khử chướng duyên, xin quí vị hành giả để tâm ghi nhớ.
    II. ĐIỂM CỐT YẾU của SỰ LẠY PHẬT
    Hành giả đã qui y, và sau khi đã học tập động tác lạy Phật, thì phải tập luyện cho thuần thục. Mỗi ngày hai buổi sáng tối lạy Phật tại nhà, mỗi lần lạy từ 10 đến 20 phút. Lạy Phật, không nhất định phải có Phật đường, không cần phải có tượng Phật, chỉ cần một nơi sạch sẽ, không có người quấy rầy, là được; các nơi như phòng đọc sách, phòng khách vắng người, cho đến phòng làm việc dọn dẹp gọn gàng, phòng ngủ, đều được. Nếu trong nhà có bày bàn thờ Phật, có chưng tượng Phật thì càng tốt. Mỗi ngày hai buổi sáng tối, sau khi niêm hương, liền có thể lạy từ 10 đến 20 phút.
    Lạy Phật vô tướng: Khi lạy Phật, động tác thật chậm rãi, không ham lạy nhiều lạy, chỉ cần tinh thần tập trung. Trong tâm không nhẩm danh hiệu Phật, chỉ chuyên chú vào mỗi động tác và mỗi cảm giác trong khi lạy Phật. Nếu phát giác tâm đang hướng ra ngoại duyên, tức khắc thu nhiếp tâm về động tác lạy Phật. Nhất tâm duyên nơi động tác lạy Phật, dù cho bên mình xảy ra việc kinh thiên động địa gì cũng không để ý tới, chỉ chuyên tâm lạy Phật. Nếu lạy Phật với tốc độ nhanh thì thở gấp, tim nhảy, không dễ được định, mà tâm cũng dễ dàng phan duyên, cho nên phải chậm rãi, thật chậm rãi, một phút không hơn hai lạy. Đối với người mới học, tốc độ thích hợp nhất là khoảng từ 45 giây đến một phút cho một lạy. Khi lạy thì để hết tinh thần nơi động tác lạy, tâm không duyên bên ngoài. Luyện tập như thế hai ngày, điều chỉnh dần dần, thì có thể tập quen với động tác lạy Phật chậm rãi; điểm này phải làm cho được!
    III. NHỚ PHẬT LẠY PHẬT VÔ TƯỚNG là PHƯƠNG TIỆN QUYỀN XẢO
    của PHÁP MÔN NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG
    Nhớ Phật lạy Phật vô tướng: Trước khi lạy Phật, hành giả nên chọn một đức Phật hay một vị Bồ-tát để làm đối tượng lễ bái. Thường thường người ta chọn đức Thế Tôn Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, hoặc các đức Phật A Di Đà, Phật Dược Sư, hay các đức Bồ-tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền, Địa Tạng v.v..., hay đức Phật hoặc vị Bồ-tát nào khác cũng được; hễ thấy có duyên thì tâm liền khế hợp, như vậy là tốt. Sau khi đã chọn được một vị làm đối tượng rồi thì không bao giờ thay đổi; cho đến sau này khi tu thành công pháp môn Niệm Phật Vô Tướng, cũng vẫn là một vị ấy.
    Sau khi đã chọn một đức Phật hay một vị Bồ-tát thì bắt đầu lễ lạy. Khi lễ lạy, chỉ dùng cái “tâm niệm nhớ Phật” để lạy Phật. Thông thường khi lạy Phật, trước tiên người ta nhẩm đọc trong tâm một câu Phật hiệu, rồi lạy một lạy, 3 lần xưng niệm, 3 cái lạy mà thôi. Nhưng với phương pháp ở đây thì không xưng niệm Phật hiệu, trừ bỏ Phật hiệu, chỉ lạy đức Phật hay vị Bồ-tát do chính mình đã chọn. Khi lạy, phải biết thật rõ ràng là chính mình đang lạy đức Phật hay vị Bồ-tát ấy. Không những miệng không xưng niệm Phật hiệu, mà trong tâm cũng không được có Phật hiệu. Không có tướng ngôn ngữ, tướng văn tự, cũng không có hình tượng Phật và Bồ-tát; thậm chí bất cứ một dấu hiệu nào đại biểu cho Phật và Bồ-tát đều không được có. Khi lạy, tâm phải an nhiên, động tác phải chậm rãi, chuyên chú quán sát chính mình ở mỗi sát na trong từng cái lạy, để xem tự mình có biết rõ là mình đang lạy đức Phật hay vị Bồ-tát ấy hay không. Nếu danh hiệu Phật hoặc hình tượng Phật xuất hiện trong tâm, phải lập tức trừ khử, trở về với cái niệm duy nhất. Cách thức lạy Phật này là phương tiện quyền xảo, đối với người tu học pháp môn Niệm Phật Vô Tướng, quả là trọng yếu phi thường! Người mới phát tâm học Phật, nếu không được rèn luyện từ phương pháp này, muốn tu thành công pháp môn Niệm Phật Vô Tướng thật không phải dễ. Cũng không được bài xích phép tu lễ bái Phật và Bồ-tát. Nên biết công đức của chư Phật và chư đại Bồ-tát là vô lượng vô biên, không thể nói hết được. Chí thành đảnh lễ chắc chắn có lợi ích lớn lao. Lại nữa, cái tối kị của người học Phật là tâm ngã mạn, lạy Phật, Bồ-tát, nhất là lạy ở nơi công cộng đông người, tâm ngã mạn rất dễ tiêu trừ, đối với Đạo Pháp thật có ích lợi.
    Thường người ta hay chấp trước vào danh hiệu và hình tượng của Phật và Bồ-tát. Nếu không có hình tượng và danh hiệu thì không biết làm sao mà niệm Phật. Ở một đoạn trước, kẻ hậu học này đã dẫn lời của thiền sư Đạo Tín rằng: “Thế nào gọi là không có cái để niệm? Tức là tâm niệm Phật, gọi đó là không có cái để niệm... Vì sao thế? Vì thức không có hình, Phật không có hình, Phật không có tướng mạo.” Phàm có hình tượng, âm thanh, ngôn ngữ, phù hiệu, cho đến một chữ “Phật”, đều không phải là Phật.
    Nếu ngôn ngữ là Phật, khi trong miệng chúng ta phát ra tiếng đọc “Thích Ca Mâu Ni Phật”, thì Phật Thích Ca Mâu Ni phải từ trong miệng xuất hiện ra. Nếu một loại âm thanh nào đó được đặt định là Phật, đại biểu cho Phật Thích Ca Mâu Ni, thì khi chúng ta phát ra loại âm thanh đó, Phật Thích Ca Mâu Ni phải xuất hiện ở trước mắt. Nếu văn tự là Phật, đương khi chúng ta viết xuống bốn chữ “A Di Đà Phật”, thì Phật A Di Đà phải xuất hiện. Nếu hình tượng là Phật, thì tất cả tượng Phật ở các tự viện và của các Phật tử thờ phượng đều phải biến thành Phật; cho đến trong Thiền tông có một công án rất nổi tiếng: “Thích Ca, Di Lặc vẫn là đầy tớ của nó, nó là anh chàng nào?” Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện hơn 2500 năm trước, và đức Phật Di Lặc sẽ xuất hiện ở thế giới này vài ngàn vạn năm sau (xin xem chú thích số 10 của tác giả ở cuối sách), vẫn chỉ là đầy tớ của nó, vậy ông hãy tham cứu thử xem, rốt cuộc “NÓ” là ai? Ý nói rằng, trên lịch sử thì quả thật có đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện ở thế gian; nhưng đó chỉ là cái thân ứng hóa do pháp thân của Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện mà thôi. Đức Phật Di Lặc sẽ hạ sinh trong tương lai cũng giống như vậy.
    Đệ tử Phật phần nhiều đều biết Phật có ba thân: thân pháp tánh, thân hiện báo viên mãn và thân ứng hóa. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện ở Ấn-độ hơn 2500 năm trước, đó chỉ là cái thân ứng hóa. Nhân vì nhiều người ở thế gian này có nhân duyên được cứu độ đã thành thục; và vì cái “đại sự nhân duyên” ấy mà Ngài giáng thần vào thai mẹ, rồi ra đời ở hoàng cung vua Tịnh Phạn tại thành Ca-tì-la-vệ, thành một vị thái tử, cưới vợ sinh con, tuần du bốn cửa thành, trông thấy các cảnh khổ sinh già bệnh chết, phát nguyện cứu độ chúng sinh thoát khổ mà nửa đêm đi xuất gia. Học hết các giáo lí ngoại đạo, lại tu khổ hạnh 6 năm, sau khi nghiệm ra sự thành Phật không phải ở chỗ hành hạ xác thân cực khổ, Ngài liền tắm rửa và thọ nhận bát sữa. Sau khi khí lực đã khôi phục, Ngài ngồi tham cứu nơi cội cây bồ đề, khi sao mai vừa mọc thì đại ngộ thành Phật. Tiếp đó Ngài thị hiện chuyển pháp luân, hàng phục ngoại đạo, cứu độ chúng sinh, cho đến thị hiện già bệnh mà nhập niết bàn – nhập đại niết bàn không sinh không diệt, thường trụ ở thế gian mà không có chỗ trụ, cho tới ngày nay vẫn được các chúng sinh có duyên cung kính tin theo. Tất cả các sự việc vừa nêu trên, chỗ nào cũng nói cho chúng ta biết: đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni chỉ là thân ứng hóa, vì những chúng sinh có duyên được độ nên đến thế giới này; những chúng sinh nào chưa được cứu độ, cũng vì họ mà gieo nhân duyên để trong tương lai sẽ được độ. Khi nhân duyên đã hết thì thị hiện tướng sinh diệt để nhắc nhở chúng sinh.
    Cái thân hiện báo viên mãn của Phật thì có 32 tướng tốt của bậc đại nhân và 80 vẻ đẹp vi tế ẩn mật trong thân thể, đó là pháp tướng [75] Phật thị hiện cho các chúng Thanh-văn và Bồ-tát hiền thánh [76] thân cận tu học cư trú tại các cõi Phương-tiện hữu-dư độ và Thật-báo trang-nghiêm độ.
    Cái thân pháp tánh không hình không tướng, tất cả chúng sinh đều không thể thấy, cho nên Phật cần có thân ứng hóa và thân hiện báo làm phương tiện độ sinh. Nếu nói một cách thực tế, thân pháp tánh mới là thân chân thật của Phật, xa lìa tất cả (như xác thân, những hành động của xác thân, ngôn ngữ, văn cú, âm thanh, hình tượng, phù hiệu), không thể biểu thị, chỉ có một tánh không. Không tên gì có thể đặt tên, chỉ tạm đặt ra “phật”, “pháp thân”, rồi gọi đó là tên. Đó là Phật thật tế, cho nên thiền sư Đạo Tín nói: “Không có cái để niệm, gọi là niệm Phật.” Điều này, phải sau khi đạt đến cảnh giới “lí nhất tâm”, lại tư duy quán chiếu thì mới hiểu biết một cách sâu xa. Đó là lí tưởng của người học Phật, chưa chắc người người ai cũng hiểu được. Nhưng niệm Phật ở bước “sự nhất tâm” (tức niệm Phật vô tướng), thì chỉ cần tinh tấn tập luyện, ai ai cũng đạt được.
    Những điều trình bày trên đây có vẻ phiền phức, nhưng không phải là không giúp ích gì cho hành giả. Xin đừng chấp trước vào danh hiệu Phật nữa, hình tượng hay phù hiệu cũng vậy, mà hãy nhất tâm nhớ Phật lạy Phật vô tướng!
    Sách này lấy phép xưng danh niệm Phật và phép nhớ Phật lạy Phật vô tướng làm phương tiện buổi đầu mà tiến vào pháp môn này. Xưng danh niệm Phật là một pháp phương tiện do đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, vì tín tâm yếu kém của chúng sinh trong thời kì mạt pháp mà nói ra. Nương vào nguyện lớn của đức Phật A Di Đà, các chúng sinh hành trì phép trì danh niệm Phật có thể vãng sinh về thế giới Cực-lạc; nhưng cũng không phải là tất cả mọi người đều có thể vãng sinh. Cần phải có đủ lòng tin, phát nguyện cầu vãng sinh, trong sinh hoạt hằng ngày không ngưng câu niệm Phật, miệng đọc tâm niệm. Một khi gặp chuyện khẩn cấp, cũng lập tức nghĩ đến Phật A Di Đà, buột miệng kêu cứu, như thế mới gọi là tu hành kiên cố, đến khi mạng chung mới có thể vãng sinh về Tây-phương Tịnh-độ. Trong kinh từng nói, không thể do một chút ít căn lành, nhân duyên phước đức kém cỏi, mà được sinh về nước Cực-lạc. Chắc chắn là phải chấp trì Phật hiệu đến chỗ nhất tâm bất loạn, hoặc chuyên niệm từng giây phút, tâm không xáo trộn, thì mới có thể vãng sinh; vì vậy, cũng không phải là ai ai cũng chắc chắn được vãng sinh! Đến như trong kinh nói vãng sinh lên chín phẩm hoa sen, trong đó, ba phẩm bậc Thượng [77] cùng hai phẩm Trung-thượng và Trung-trung của bậc Trung [78], đều cần phải chuẩn bị đầy đủ các điều kiện nhất định, mới có thể vãng sinh. Nếu người không chuẩn bị đầy đủ các điều kiện ấy mà được vãng sinh về thế giới Cực-lạc, phần nhiều thuộc vào phẩm Trung-hạ, phải ở trong búp sen 7 ngày, sau đó hoa nở, thấy hai đức Bồ-tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, được nghe pháp, vui mừng, chứng quả Tu-đà-hoàn (Sơ-quả). Sau đó, trải qua một tiểu kiếp mới chứng quả A-la-hán (Tứ-quả). Xét ra, một ngày ở thế giới Cực-lạc tương đương với một đại kiếp ở thế giới Ta-bà; thì người vãng sinh về phẩm Trung-hạ của thế giới Cực-lạc, thời gian ở trong búp sen, tính ra lâu dài biết bao nhiêu! Xin hành giả tự mình suy nghĩ, xem xét cho tường tận. Ở thế giới Cực-lạc, từ quả vị Tu-đà-hoàn tu tập cho đến khi chứng quả A-la-hán, cần một thời gian là một tiểu kiếp, cái khoảng thời gian quá lâu dài ấy, con người làm sao tưởng tượng cho nổi! Nếu ở thế giới Ta-bà này tu học, dù cho tu một đời rồi quên ba đời, thì tốc độ thành tựu, đem so với thời gian tu học của người ở phẩm Trung-hạ của thế giới Cực-lạc, vẫn nhanh hơn gấp trăm ngàn vạn lần! Quí hành giả không thể không suy xét. (Hành giả muốn biết rõ sự việc ấy, xin đọc Kinh Di Lặc Hạ Sinh).
    IV. THỨ TỰ 10 BƯỚC TU HỌC
    từ NHỚ LẠY PHẬT VÔ TƯỚNG đến NIỆM PHẬT VÔ TƯỚNG
    1. Mỗi buổi sáng và buổi tối trong ngày đều dành ra một khoảng thời gian từ 10 đến 20 phút để lạy Phật. Xin y theo cách thức vừa trình bày trong tiết III ở trên mà luyện tập phép nhớ lạy Phật vô tướng. Khi lạy, không xướng đọc Phật hiệu, mà trong tâm cũng không để xuất hiện âm thanh hoặc văn tự của Phật hiệu, chỉ cần trong tâm nhớ Phật Bồ-tát, tưởng niệm Phật Bồ-tát, chuyên chú vào một đức Phật (hoặc Bồ-tát). Tuy không có ngôn ngữ, văn tự, hình tượng, nhưng rõ ràng là mình biết mình đang nhớ tới đức Phật (hoặc Bồ-tát) ấy, rõ ràng là mình biết mình đang lạy đức Phật (hoặc Bồ-tát) ấy. Trong tâm tuyệt nhiên không để xuất hiện danh hiệu hay hình tượng Phật, mà thuần túy chỉ là ức niệm. Giống như xa mẹ vài mươi năm, trong tâm tưởng nhớ, lo nghĩ, mà không có tên tuổi, hình tượng. Khi lạy, biết rõ mình đang lạy, đang nhớ đức Phật (hoặc Bồ-tát) của mình, và cứ giữ chắc một niệm đó, nhất định không rời bỏ. Nếu không hiểu được “ức và niệm”, có thể dùng tâm quán sát, xem cái ý niệm lạy Phật (hay Bồ-tát) ở nơi mình có thật rõ ràng hay không; xem tâm mình có biết rõ là mình đang lạy đức Phật (hay Bồ-tát) ấy hay không.
    Phương pháp nhớ lạy Phật vô tướng này là phương pháp cốt lõi để quyết định việc tu tập pháp môn Niệm Phật Vô Tướng có thành công hay không, hành giả nên hiểu rõ, đọc đi đọc lại suy nghĩ kĩ càng. Nếu suy nghĩ nhiều ngày, cho đến một, hai tháng mà vẫn không thể nào thể hội được, xin hãy đến trước Phật Bồ-tát (nhất là đức Phật Thích Ca, đức Bồ-tát Quán Thế Âm và Bồ-tát Đại Thế Chí) lễ bái, sám hối tội lỗi, cầu xin gia hộ. Hãy phát nguyện thọ giới Bồ-tát, tu tập hạnh Bồ-tát, độ vô lượng chúng sinh. Sau đó hãy tĩnh tọa, đọc kĩ những điều vừa nói ở đoạn văn trên và tiết III ở trước, suy nghĩ chín chắn, siêng năng luyện tập, thì có thể thông hiểu. Nếu không có thánh tượng, cứ vọng lên hư không mà lạy cũng được, chỉ cần chí tâm thành khẩn, không chút coi thường.
    Một khi đã thông hiểu, liền y theo cách thức này mà nhớ lạy Phật vô tướng. Trừ bỏ danh hiệu và hình tượng, nhớ rõ đức Phật mình lạy, và giữ cho cái niệm nhớ ấy không bị đứt đoạn. Nếu biết được cái niệm nhớ Phật ấy không thể rõ ràng, cũng có thể dùng cách “tưởng”, như ở tuổi thanh xuân, nam nữ đang trong tình luyến ái mà phải Đông Tây phân cách, không thấy được nhau, sáng tư tối tưởng; khi lạy Phật có thể dùng tâm tưởng này, tưởng tượng pháp thân Phật không hình không tượng, biến khắp hư không, không chỗ nào không có. Hoặc tưởng tượng pháp thân Phật không hình không tượng, trụ nơi tâm (không phải quả tim) mình, hoặc trong óc mình, luôn luôn hộ niệm, không giây phút nào bỏ rơi mình. Tưởng niệm như thế, gọi là “niệm Phật”. Cho nên chữ “niệm” trong từ “niệm Phật”, bên trái không có bộ “khẩu”; nếu có bộ khẩu (tức chữ 唸 [79]) thì thành ra là đọc Phật – miệng đọc tâm niệm cũng có thể tương ứng; nếu miệng đọc mà tâm không niệm thì cùng với Phật không tương ứng, đọc đến năm con lừa [80] mới có thể vãng sinh về tịnh độ Cực-lạc!
    Nếu có người đọc đi đọc lại sách này, tư duy, luyện tập, mà kết quả thì “ức” đã không được, mà “tưởng” cũng không được, lại “niệm” cũng không được, thì khi lạy Phật có thể dùng tâm “xem” [81] cái ý niệm lạy Phật này có phải là biết rõ ràng là mình đang lạy đức Phật (hoặc Bồ-tát) của mình hay không. Xem cái niệm ấy, không để nó bị đứt đoạn, cũng không để cho Phật hiệu xuất hiện trong tâm. Mỗi một lạy đều chuyên tâm xem thấy, theo sát một niệm đó đang an trú trong tâm mình, không tiêu mất. Nếu xem cũng không được nữa, lại xin đổi sang phương pháp khác:
    Ví dụ ngày thường hành giả lấy đức Phật Thích Ca Mây Ni làm đối tượng để trì danh niệm Phật, trước hết hãy ngồi nơi yên tĩnh, không bị ai phá rầy, trong tâm đọc thầm câu danh hiệu “Thích Ca Mâu Ni Phật” (tùy theo nhân duyên, hành giả tự chọn lấy một danh hiệu Phật), đồng thời nhớ tưởng Ngài. Câu Phật hiệu tuy đã đọc qua rồi, nhưng đừng để cho cái niệm tưởng Phật bị đứt đoạn; thời gian tưởng niệm vẫn tiếp nối cho đến khi cái niệm tưởng niệm đứt đoạn, thì ngưng. Khi biết cái niệm tưởng niệm đã đứt thì trở lại ngay từ đầu, trong tâm đọc thầm câu danh hiệu “Thích Ca Mâu Ni Phật”, đồng thời nhớ tưởng Ngài, không đọc lại câu Phật hiệu, cho đến khi cái niệm nhớ tưởng chấm dứt. Cứ tập luyện lặp đi lặp lại như thế.
    Sau khi tập luyện đã thuần thục, vào buổi sáng sớm khi đầu óc còn tỉnh táo, ngồi yên tĩnh trước tượng Phật (hoặc một nơi vắng vẻ không người quấy rầy). Khi tâm đã lắng, hãy thầm đọc một câu “Thích Ca Mâu Ni Phật” (hoặc một Phật hiệu nào khác), đồng thời tưởng niệm Ngài, và trong tâm bắt đầu quán sát: Phật hiệu đọc qua rồi, cái niệm tưởng niệm Phật này, rốt ráo là tình trạng gì. Sau khi đã quán sát thật rõ ràng, thì bắt lại từ đầu; nhưng không phải bắt đầu từ lúc đọc thầm Phật hiệu, mà từ cái đoạn thời gian sau khi câu Phật hiệu “Thích Ca Mâu Ni Phật” đã qua rồi. Đó chính là nhớ Phật, niệm Phật, tưởng Phật, ngay như niệm Phật vô tướng, tiếp theo sau, cũng có thể dùng một niệm này mà lạy Phật; đó chính là nhớ lạy Phật vô tướng.
    Khi vừa bắt đầu tu tập phép nhớ lạy Phật vô tướng, cần phải phi thường chăm chỉ, phải đem ý chí mạnh mẽ để nỗ lực chế ngự, thì danh hiệu Phật và hình tượng Phật mới không thể xuất hiện trong tâm; nếu lơ là một chút thôi, là danh hiệu và hình tượng Phật xuất hiện trong tâm tức thì. Tuy phải rất mực chú tâm, nhưng xin hãy buông thư thân thể, tránh sự khẩn trương. Như thế luyện tập mỗi ngày không nghỉ, nỗ lực không ngừng, trải qua một thời gian, Phật hiệu dần dần không còn xuất hiện nữa. Nhưng có lúc hơi mất chú ý, chữ đầu tiên của Phật hiệu vẫn có thể xuất hiện. Khi lạy Phật vào mỗi buổi sáng và buổi tối trong ngày, hành giả phải tập chú hết tinh thần thì mới có thể trừ khử được Phật hiệu. Đến như tâm phan duyên mà mạnh, lại đó là người cố chấp, thì khi lạy Phật, tuy chưa xuất hiện danh hiệu Phật, nhưng lại thường hay xuất hiện một chữ “Phật”. Đó là cái tập khí thâm căn cố đế, cần phải luôn luôn suy nghĩ: “Danh hiệu Phật không phải là Phật.”, “Chữ Phật không phải là Phật.”; cả đến trong lúc tĩnh tọa cũng phải suy nghĩ sâu như vậy, mới mong trừ khử cái tập khí cố chấp này.
    Hành giả cần phải nhận thức rõ: Bước đầu nhập môn của pháp môn Niệm Phật Viên Thông này (tức niệm Phật vô tướng), có tu tập thành công hay không, hoàn toàn phải xem cái ý chí của hành giả đối với phép nhớ lạy Phật vô tướng, hành giả có thể hội hoàn toàn hay không, có tu tập chân thành hay không. Xin đừng trách kẻ hậu học này sao cứ nói tới nói lui, lắm lời nhiều chuyện. Nếu muốn tu trì pháp môn Niệm Phật Vô Tướng mà không chịu khởi bước từ phép nhớ lạy Phật vô tướng mà thâm nhập thể hội và siêng năng luyện tập, thật khó thành công; trừ phi đó là người lợi căn, hoặc đã dày công tu hành, vừa nghe là hiểu ngay, hiểu tới đâu liền thâm nhập tới đó, mới có thể an trụ.
    Nếu hành giả không phải là người lợi căn, vào mỗi buổi sáng, tối, xin hãy dành từ 10 đến 20 phút để tu tập pháp nhớ lạy Phật vô tướng, một là tiêu trừ nghiệp chướng, hai là rèn luyện công phu. Đối với con người hiện đại, sáng tối đều dùng từ 10 đến 20 phút để tu tập nhớ lạy Phật vô tướng, có thể nói là không mất nhiều thì giờ, nhẹ nhàng, dễ thực hiện. Niệm Phật một tiếng đã diệt tội nhiều như cát trong sông, huống là lạy Phật trong lúc nhất tâm bất loạn, tâm định nhớ Phật, diệt tội vô lượng. Phép nhớ lạy Phật vô tướng này là một phương pháp tu định mạnh mẽ và có nhiều năng lực. Công phu này đạt được từ trong chỗ xao động, cho nên sau này khi tu thành công pháp môn Niệm Phật Vô Tướng, thân tâm có thể tới lui trong thanh sắc tự tại an nhiên, không có gì làm chướng ngại cho công phu “tịnh niệm tiếp nối” của Niệm Phật Vô Tướng.
    Thêm một cách thực hành phương tiện: Đối với người không có đủ kinh nghiệm về trì danh niệm Phật, lại không hiểu rõ như thế nào là nhớ Phật niệm Phật vô tướng, thì trong sinh hoạt hằng ngày nên tập trì danh niệm Phật. Luôn luôn trong tâm thầm đọc Phật hiệu. Tâm đọc tâm nghe. Nhờ đó mà dập tắt tâm phan duyên, thu nhiếp tâm tán loạn về một mối. Hành giả có thể lấy thánh hiệu của đức Phật hoặc Bồ-tát mà mình lạy trong lúc tu phép nhớ lạy Phật vô tướng, biến thành một câu mà mình cho là có giai điệu hay nhất, giống như người ta ca hát; trong tâm niệm đi niệm lại không ngừng, đồng thời nhớ Phật tưởng Phật. Giai điệu của thánh hiệu không được khoan thai nhẹ nhàng, mà phải vững chắc đẹp đẽ, tốc độ xướng niệm (thầm) càng nhanh càng tốt. Chỉ có một câu niệm đi niệm lại, không thể đem nhiều câu biến thành hợp âm để xướng niệm. Cũng không thể trong lúc nhớ lạy Phật vô tướng thì lạy đức Phật Dược Sư, mà lúc thường lại xướng niệm Bồ-tát Quán Thế Âm; lạy và xướng niệm cùng một vị mà thôi, thì tâm không bị phân rẽ, lạy Phật và niệm Phật được chuyên nhất. Ngoài ra, lúc bình thường, khi trong tâm thầm xướng niệm thánh hiệu, không nên ham niệm cho nhiều, mà nên chậm rãi khoan thai; khi xướng niệm hãy chú ý coi tâm mình có hấp tấp không, có nổi vọng tưởng không, có đang nhớ Phật không. Nếu người đã có kinh nghiệm trì danh niệm Phật, hoặc đã hiểu rõ như thế nào là nhớ Phật lạy Phật, thì nên chuyên tâm học tập pháp nhớ lạy Phật vô tướng, không cần phải thực hành pháp trì danh niệm Phật.
    2. Mỗi buổi sáng tối trong ngày đều nhớ lạy Phật vô tướng từ 10 đến 20 phút, không để cho gián đoạn; cũng không thể hôm nay thì lạy Phật 2 giờ đồng hồ, rồi ngày mai ngày mốt lại nghỉ. Cũng như chèo thuyền, cần phải chèo liên tục, nếu ngưng chèo trong một khoảng thời gian thì thuyền sẽ trôi khỏi luồng chạy, hoặc bị nước đẩy trôi trở lại phía sau. Thời gian lạy Phật chỉ có thể gia tăng mà không được giảm bớt. Trừ thời gian lạy Phật ra, trong tâm còn phải xướng niệm Phật hiệu không ngưng nhỉ. Sau khi luyện tập như thế một thời gian, tâm tán loạn dần dần bị khống chế. Nhưng vẫn sẽ phát hiện những tạp niệm trong khi mình lạy Phật tuy ngày càng giảm thiểu, Phật hiệu cũng không thể xuất hiện trong tâm, lại rất dễ bị các thứ âm thanh bên ngoài hấp dẫn. Các thứ âm thanh như tiếng chuông điện thoại, tiếng chuông gọi cửa, tiếng người nói, tiếng máy truyền hình, tiếng ca nhạc, tiếng chó sủa v.v..., chỉ cần có âm thanh thì tâm liền phan duyên liên tưởng, tiếp nối không dứt. Thẳng đến lúc động tác của một lạy kết thúc, và lạy sau sắp bắt đầu, mới lại nghĩ rằng chính mình đang nhớ lạy Phật vô tướng, nhiên hậu lại bắt đầu cái lạy mới. Hành giả đừng lấy đó làm buồn; đối với người sơ học, đó là cái giai đoạn không thể tránh khỏi. Chỉ cần hạ quyết tâm, giữ cho bền chí, mỗi ngày nhớ lạy Phật vô tướng và thầm niệm Phật hiệu không gián đoạn (người nguyên đã có cơ sở trì danh, nên dùng ức niệm mà niệm Phật), nhất định sẽ tiến bộ.
    Do mỗi ngày giữ liên tục việc luyện tập nhớ lạy Phật vô tướng và niệm Phật trong ức niệm, hoặc thầm xướng niệm Phật hiệu, mà tâm phan duyên không ngừng bị giảm xuống, cuối cùng không còn bị những âm thanh bên ngoài ảnh hưởng nữa, mà chuyên chú vào phép tu nhớ lạy Phật vô tướng. Điều đó cho biết công phu của mình đã được tăng cường, năm căn nhĩ, tị, thiệt, thân và ý đã bị chế ngự; chỉ riêng nhãn căn và nhãn thức thì còn khó khống chế, thường thường khi nhớ lạy Phật vô tướng, khi thấy trên đất có một sợi tóc hay một vật gì khác, tâm liền phan duyên. Mỗi lần khom lưng lạy xuống, không tự chủ được, cũng phải nhìn nó một cái. Đã biết rõ mình phải để hết tâm ý nhớ Phật lạy Phật, theo sát cái niệm nhớ Phật, mà lại không có cách nào làm cho mình đừng nhìn đến nó. Cái tâm phan duyên này, một cách tương đối, so với các loại tâm phan duyên khác, cũng đã là vi tế hơn nhiều rồi. Chúng sinh từ vô thỉ kiếp cho đến nay, các tập khí do nhãn căn mà có, rất khó đối trị, với công phu hiện có, thật không đủ sức để khắc chế. Phương pháp duy nhất là tạm thời hãy nhắm mắt lại để khỏi phải thấy gì hết. Đợi đến sau này, khi công phu mạnh mẽ thì mở mắt trở lại. Đến đây, hành giả có thể bước vào giai đoạn thứ ba.
    3. Nhắm mắt nhớ lạy Phật vô tướng: Nhắm mắt nhớ lạy Phật vô tướng có thể đối trị tâm phan duyên ở nhãn căn, tinh thần tập trung dễ dàng, công phu tăng cường nhanh chóng; mà tâm quán chiếu khi lạy Phật cũng rõ ràng hơn. Nhưng nhiều người khi lạy Phật mà nhắm mắt thì lại dễ bị choáng váng, vậy phải tìm hiểu cái nguyên nhân của tình trạng choáng váng ấy để khắc phục. Dù thế nào thì cũng đừng vì sự choáng váng ấy mà bỏ đi cái giai đoạn rất quan trọng này. Đại khái, các nguyên nhân làm cho đầu choáng váng như sau:
    a) Choáng váng vì mất cảm giác về phương hướng: Những người thuộc trường hợp này, trước khi nhắm mắt nhớ lạy Phật vô tướng, hãy tự cảnh tỉnh rằng: “Phật không có căn thân, không tướng mạo, pháp thân đầy khắp mọi nơi, Phật ở ngay trong tâm mình. Phật tượng ngay ở trước mặt mình cũng không phải là Phật, mà chỉ là một thứ tượng trưng, một loại pháp khí mà thôi.” Cho nên không cần phải cố chấp mà bắt thân thể mình nhất định phải lạy về một phương hướng nào. Dù cho quay ra sau mà lạy – tức là xoay lưng lại với tượng Phật mà lạy, thì cũng chẳng quan trọng gì. Trong tâm đã trừ bỏ được sự cố chấp về phương hướng, thì nhắm mắt lạy Phật không còn bị choáng váng nữa.
    b) Choáng váng vì cái tư thế lạy Phật không được chính xác: Lúc khom lưng hạ người xuống, không nên để đầu thấp hơn thân thể (nếu người không bị chứng choáng váng thì không cần quan tâm điểm này), lúc lạy xong đứng dậy, lúc nào cũng giữ cho đầu cao hơn thân thể chút ít. Khi khom lưng mà đầu cúi thấp thì máu sẽ chảy dồn xuống đầu, khi ngẩng dậy máu lại đột ngột chảy dồn về thân thể, rất dễ làm cho choáng váng; cho nên, làm như cách trên là để tránh khỏi bị choáng váng. Một trường hợp khác cũng có thể làm cho choáng váng, là khi năm vóc gieo xuống đất mà cánh tay quá cao; trường hợp này, nên đưa thân thể thụt ra sau, hạ mông thật thấp xuống, để tránh cho lượng máu khỏi đầy ứ nơi đầu. Nếu vì quần dài quá chật hoặc không có tính co dãn, khiến không thể hạ mông xuống thấp được, thì nên thay loại y phục rộng rãi mặc lúc nghỉ ngơi, hoặc loại quần áo tập thể dục. Dây lưng quần nên dùng dây thun hay cái “ghen” (đeo tất) là thích hợp. Khi đầu chạm đất thì chóp mũi phải cùng lúc chạm đất, để tránh cho đỉnh đầu không chạm đất.
    c) Thân thể béo mập: Người thân thể béo mập, nên đặt cái đệm để lạy, cao khoảng 2 tấc tây. Khi lạy, cả hai chân và hai đầu gối đều chạm đất, còn đầu và bàn tay, khuỷu tay đều đặt trên cái đệm lạy. Làm vậy để tránh cho máu không dồn ứ trên đầu, khỏi bị choáng váng.
    Sau khi đã khắc phục được chứng choáng váng do nhắm mắt lạy Phật, liền có thể tiếp tục phép nhớ lạy Phật vô tướng. Mỗi ngày chuyên chú nhất tâm, liên tục luyện tập, không phan duyên ngoại cảnh, so với lúc trước, tiến bộ nhanh chóng; khi lạy Phật, Phật hiệu đã khó xuất hiện được trong tâm.
    4. Tránh đừng áp chế hơi thở: Từ giai đoạn khó khắc phục ở trên trở về sau, có nhiều người biết mình không còn phan duyên theo sắc thanh hương vị xúc pháp, nhưng có thể lại phát giác ra rằng mình bị khó thở, hoặc có cảm giác như có cọng cỏ mắc kẹt nơi cuống họng, rất khó chịu. Đó chẳng qua là vì “tâm” vẫn còn quá thích phan duyên; nhưng lúc bấy giờ năm căn nhãn, nhĩ, tị, thiệt và ý đều bị bít lối, không thể phan duyên được, tốt hơn hết là chuyển sang phan duyên nơi hơi thở của thân căn vậy. Nhân đó, một mặt thì lạy Phật, một mặt thì ở tầng dưới của ý thức ra tay khống chế hơi thở! Lúc đầu thì không biết, đến khi phát giác thấy khó chịu nơi cuống họng, hơi thở khó khăn, thì sự trạng cũng đã trải qua vài tuần rồi. Bây giờ đã phát hiện biết có hiện tượng đó, thì khi lạy Phật, phải chú ý đến nó, không để cho tầng dưới của ý thức phan duyên làm khó hơi thở nữa. Nếu hiện tượng khống chế hơi thở đã quá nghiêm trọng (rất ít người bị), làm cho cuống họng vô cùng khó chịu, có thể tạm thời dùng miệng để thở. Sau một thời gian thì trở lại thở bằng mũi, nhưng phải chú ý đề phòng tầng dưới của ý thức lại phan duyên khống chế hơi thở. Nếu người gặp tình trạng này, thì khi thầm xướng niệm Phật hiệu trong sinh hoạt hằng ngày, cũng sẽ gặp tình trạng khó thở tương tự, cho nên phải chú ý đề phòng. Cho đến khi lạy Phật mà không còn vướng bất cứ mối phan duyên nào, cái giai đoạn khó khăn này mới gọi là đã hoàn toàn vượt qua. Nếu người nào không bị hiện tượng khó thở này, xin tiến thẳng vào giai đoạn kế tiếp sau đây.
    5. Khi nhắm mắt nhớ lạy Phật vô tướng có thể đạt đến cảnh giới một niệm không sinh: Hành giả lúc nhắm mắt nhớ lạy Phật vô tướng, đã có thể chuyên nhất ức niệm nơi Phật. Cái niệm chuyên nhất nhớ Phật ấy thật sáng tỏ, rõ ràng, không bị phan duyên theo sắc thanh hương vị xúc pháp. Tuy là được như thế, nhưng không nên tự mãn, mà vẫn phải tinh tấn thực tập cho tinh thục. Cũng giống như chăn trâu, luôn luôn phải chú ý theo sát chúng; công phu nhớ lạy Phật vô tướng và thầm niệm Phật hiệu trong lúc bình thường cũng phải như vậy. Mỗi ngày tinh tấn tập luyện, thì mai sau, sự tịnh niệm nhớ Phật khi lạy Phật sẽ giữ được liên tục một cách an nhiên tự tại. Lúc đó, không còn phải đem hết tinh thần chú ý, mà tự nhiên nhớ niệm. Cái niệm tự nhiên ấy thật rõ ràng phân minh, mà cái lạy lúc ấy cũng thật khoan thai mát ý, không có gì gấp gáp rộn ràng. Nếu hành giả đã từng tu tập nhiều năm phép thiền đếm hơi thở, có thể cảm thấy được chuỗi tịnh niệm tiếp nối trong khi nhớ lạy Phật vô tướng, so sánh với công phu đếm hơi thở trong lúc tĩnh tọa khi đạt đến chỗ “đếm mà không đếm, một niệm tiếp nối”, quả thật không có chỗ phân biệt. Lúc bấy giờ tâm đã vô cùng vững chắc, vào lúc nhớ lạy Phật vô tướng đã hoàn toàn thể nhập cảnh giới “một niệm không sinh”. Do đây có thể hiểu được ý của kẻ hậu học này khi nói rằng: “Đối với người đã tiến vào cảnh giới này, thật sự phải nói đó là cảnh giới một niệm tiếp nối.” Hành giả đã đến giai đoạn này, trong những lúc đi đứng ngồi nằm thường ngày, trong tâm vẫn phải thầm niệm Phật hiệu, đừng để bị gián đoạn. Đến lúc này, nếu tốc độ xướng niệm Phật hiệu trở nên vô cùng chậm rãi thì đừng nên hoang mang, vì đó là hiện tượng bình thường, nó chứng tỏ định lực bắt đầu hiển hiện, tâm không còn trạo cử. Tuy có lúc tâm rất khinh an, không muốn thầm niệm Phật hiệu, nhưng không phải vì vậy mà bỏ quên Phật hiệu; vẫn phải thầm niệm Phật hiệu một cách bình thường, đồng thời ức niệm trong tâm. Người đã có cơ sở trì danh niệm Phật, trong sinh hoạt hằng ngày phải thường tự cảnh giác hành trì nhớ Phật niệm Phật, không nên thầm đọc Phật hiệu nữa.
    6. Mở mắt lớn lên mà nhớ lạy Phật vô tướng: Do vì công phu hiện tại đã gia tăng mạnh mẽ, có năng lực khắc phục các phan duyên của nhãn căn, cho nên chuyển (từ nhắm mắt) sang mở to đôi mắt mà nhớ lạy Phật vô tướng. Vẫn mỗi ngày hai buổi sáng tối đều lạy Phật từ 10 đến 20 phút. Khi lạy Phật cứ mở mắt, nhưng vẫn nhớ nghĩ đến Phật. Lúc đầu có thể bị xao lãng chút ít, lại còn bị sắc trần lôi cuốn. Có lúc mắt xem tượng Phật, trong tâm liền có tượng Phật; có lúc thấy một vật phẩm ở dưới bàn thờ, hoặc một sợi tóc, một miếng bông gòn, hay một mẩu hoa văn. Lúc đó hành giả phải tức thời thu nhiếp tâm thần, chuyên tâm chú ý đến dòng tịnh niệm khi lạy Phật, xem có bị đứt đoạn hay không. Tiêu điểm của cặp mắt phải lìa khỏi tất cả hình tượng. Mắt tuy có thấy, nhưng đó chỉ là một ảnh tượng mơ hồ, thu nhiếp nhất tâm hướng vào trong, tưởng đến pháp thân Phật, an trú tại tâm mình, một lòng chỉ có nhớ Phật lạy Phật, và quán sát cái niệm nhớ Phật ấy thật rõ ràng, phân minh. Ngày ngày đều tinh cần chuyên nhớ chuyên niệm lạy Phật, đừng để cho tâm thần bị phân tán. Dần dần có thể nhìn mà không thấy, nghe như không nghe, chuyên nhớ đến một đức Phật mà lễ bái. Khi lạy Phật, sáu trần (xin xem chú thích số 12 của tác giả ở cuối sách) không làm chướng ngại mình. Bấy giờ, tốc độ lạy Phật tự nhiên sẽ nhanh hơn lúc trước một chút; đó là vì công phu sắp thành công.
    7. Bắt đầu pháp môn Niệm Phật Vô Tướng trong sinh hoạt thường ngày: Lúc nhớ lạy Phật vô tướng ở giai đoạn trên, có thể không để ý đến ảnh hưởng của sắc thanh hương vị xúc pháp, mà chuyên nhớ chuyên lạy một cách chậm rãi, an tường, không bị phân tâm, tức có thể bắt đầu bảo trì được thường xuyên cái niệm nhớ Phật khi lạy Phật trong sinh hoạt thường ngày, mà không cần phải thầm niệm Phật hiệu nữa; đó tức là niệm Phật vô tướng. Niệm Phật vô tướng lúc bấy giờ, đức Phật mà mình nghĩ nhớ trong tâm, phải cùng là đức Phật mà mình lạy khi tu tập phép nhớ lạy Phật vô tướng trong hai buổi sáng tối mỗi ngày. Không thể ở hai buổi sáng tối, khi nhớ lạy Phật vô tướng thì lạy Phật Thích Ca Mâu Ni, mà khi bình thường niệm Phật vô tướng, lại niệm đức Bồ-tát Quán Thế Âm! Nếu không nhất trí như thế thì công phu sẽ bị giảm yếu, hoặc không thể tăng cường. Cũng không thể có lúc thì nhớ tưởng đức Phật Thích Ca Mâu Ni, có lúc thì nhớ tưởng đức Phật A Di Đà; lại càng không thể cùng lúc nhớ nghĩ đến hai, ba hay bốn vị. Cần phải chuyên tâm ức niệm chỉ một đức Phật (hay Bồ-tát) mà mình đã tự chọn từ lúc bắt đầu tu học pháp môn này, vĩnh viễn không thay đổi. Như thế, ở trong sinh hoạt thường ngày, luôn luôn lúc nào cũng giữ gìn cái niệm nhớ Phật của lúc nhớ lạy Phật vô tướng, không có danh hiệu, hình tượng, âm thanh, trong tâm biết một cách rõ ràng chính mình đang nghĩ nhớ đức Phật (hay Bồ-tát) ấy; đó chính là niệm Phật vô tướng, là bước đầu tiến vào cánh cửa pháp môn Niệm Phật Viên Thông của đức Bồ-tát Đại Thế Chí. Đương nhiên, bằng cách trì danh niệm Phật, hành giả cũng có thể đạt đến tầng bậc này, với điều kiện là phải chuẩn bị chính xác và đầy đủ tri kiến và công phu về thiền định mới được; – ngoại trừ một số rất ít người có đầy đủ thiện căn, phước đức, và nhân duyên, còn người thường, cơ hồ có thể nói rằng, hi vọng thì được mà đạt đến thì hoàn toàn không có khả năng.
    Công phu Niệm Phật Vô Tướng đến đây là thành tựu, cần phải trân quí giữ gìn, không nên buông lung tâm mình mà trở về lại với phép trì danh niệm Phật. Tuy nhiên, khi hành trì niệm Phật vô tướng trong sinh hoạt hằng ngày, hành giả cũng có lúc bị quên mất cái niệm ấy, giống như những người hành trì phép trì danh niệm Phật vậy. Nhưng, đối với người học Phật mười mấy năm mà không thông đạt, khi người ấy luyện tập đến giai đoạn này, trong tâm tự biết nhân duyên đã thù thắng, hiểu rõ rằng pháp môn này chính là thứ mình được thọ dụng, do đó mà chí không thối chuyển; cho nên, dù có lúc bị quên mất cái niệm này, cũng tức thì biết tự cảnh tỉnh, phản chiếu nội tâm, khơi dậy lại chánh niệm nhớ tưởng Phật. Trong khi nói chuyện với người khác, nhân vì phải lắng nghe và phải suy nghĩ để đáp lời, cho nên cái niệm này có thể bị quên đi; khi phải suy nghĩ về các sự việc công tư, cái niệm này cũng nên tạm thời buông bỏ. Nếu chức nghiệp hay công tác của hành giả có tính nguy hiểm cao độ, thì cứ để tâm chuyên chú vào công tác, đừng để cho tâm bị phân tán. Mỗi tối trước khi ngủ, hành giả có thể nằm trên giường một cách an nhàn mà niệm Phật vô tướng, bất tất phải chuyên tâm, tự nhiên ngay trong lúc niệm Phật vô tướng mà đi vào giấc ngủ. Đã tiến đến bước này, hành giả vẫn phải hành trì nhớ lạy Phật vô tướng đều đặn hai buổi sáng tối mỗi ngày, không được bỏ qua. Cho tới khi hầu hết thời gian trong ngày có thể niệm Phật vô tướng mà không quên mất, tức là giai đoạn này đã thành công. Bấy giờ thì đã có được niềm pháp hỉ mạnh mẽ. Nếu thời gian tu thành công giai đoạn này mà chiếm hơn hai tháng thì niềm pháp hỉ hơi nhạt. Thời gian trải càng lâu, niềm pháp hỉ càng nhạt; nếu kéo dài đến sáu tháng mới tu tập thành tựu, niềm pháp hỉ ấy hầu như không có; tuy nhiên, công phu vẫn đầy đủ. Tu tập thành công nhanh chóng, niềm pháp hỉ có được cũng sẽ nhân vì thói quen nơi cảm giác mà dần dần cũng trở nên nhạt phai, hành giả đừng để tâm về chuyện đó.
    8. Lạy nhiều đức Phật và Bồ-tát: Những ngày đầu của giai đoạn này, vào mỗi buổi sáng, vẫn chuyên nhất lạy một đức Phật (hay Bồ-tát); khi lạy thì chuyên nhớ chuyên niệm, mà không danh hiệu, không hình tượng. Trong sinh hoạt thường ngày cũng vẫn nhớ nghĩ vô tướng cùng một đức Phật (hay Bồ-tát) đó. Khi lạy Phật vào buổi tối, có thể đổi cách ra lạy nhiều đức Phật và Bồ-tát. Trước khi lạy, hãy chọn sẵn từ 3 đến 6 vị, xếp theo thứ tự, Phật trước, Bồ-tát sau. Vị chắc chắn phải chọn đầu tiên là đức Phật Thích Ca Mâu Ni, vì chúng sinh ở thế giới Ta-bà này, tất cả người học Phật đều là đệ tử của đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, đều do nơi đức Thế Tôn Thích Ca mà biết tu học Phật pháp. Uống nước nhớ nguồn, vì cảm đội ơn đức của Ngài, nên khi lạy Phật thì lạy Ngài trước tiên. Tiếp đến là các đức Phật và Bồ-tát khác. Như vậy, hành giả tùy tâm tự biết mình có duyên với đức Phật và Bồ-tát nào, hãy chọn thêm từ 2 đến 5 vị nữa, xếp sau đức Thích Tôn. Sau khi đã xếp đặt như thế xong rồi là vĩnh viễn không thay đổi. Khi hành trì phép nhớ lạy Phật vô tướng vào buổi tối mỗi ngày, y theo thuận tự mà lạy các đức Phật và Bồ-tát đó. Lạy mỗi vị 3 lạy, và vẫn giữ thời gian chừng mực là từ 10 đến 20 phút. Nếu đến giờ mà lạy chưa xong, cứ tiếp tục chậm rãi mà lạy cho xong. Khi chọn các đức Phật và Bồ-tát có duyên, tối thiểu phải là 3 vị, mà tối đa cũng chỉ đến 6 vị mà thôi; ít hơn 3 vị thì tác dụng không rõ ràng, nhiều hơn 6 vị thì tinh thần dễ bị phân tán (vì tâm phải nhớ cái thứ tự quá dài), đưa đến tâm tán loạn.
    Giai đoạn này cũng là phương tiện quyền xảo, mục đích là huấn luyện cho hành giả tâm càng trở nên vi tế ẩn mật thì lại càng sáng tỏ; muốn cho hành giả không những có năng lực phân biệt niệm tưởng (thoại đầu), mà ngoài ra, sau này khi tham thiền, cũng đủ năng lực tư duy quán chiếu (xin xem chú thích số 12 của tác giả ở cuối sách).
    Hành giả khi lạy Phật vào buổi tối, vẫn phải trừ bỏ danh hiệu, hình tượng và âm thanh, nhưng mỗi khi lạy một lạy, phải phân biệt rõ ràng rằng: niệm này là lạy đức Thế Tôn Thích Ca; niệm này là lạy đức Thế Tôn Di Đà; niệm này là lạy đức Bồ-tát Quán Thế Âm; niệm này là lạy đức Bồ-tát Đại Thế Chí. Cái “tướng niệm” [82] của niệm trước và niệm sau sai khác ở chỗ nào, đều phân minh rõ ràng.
    Khi mới bước vào giai đoạn này, buổi sáng vẫn chỉ chuyên nhất lạy đức Phật (hay Bồ-tát) mà mình đã chọn từ lúc bắt đầu tu tập pháp môn này; đến buổi tối mới lạy nhiều đức Phật và Bồ-tát. Bởi vì hành giả vừa mới thành công ở giai đoạn 7, công phu chưa đủ mạnh; vừa chuyển vào giai đoạn này, khi niệm Phật vô tướng trong sinh hoạt hằng ngày, vẫn cần nương vào công phu mà mình đã đạt được trong phép lạy Phật vô tướng ở buổi sáng; cho nên mỗi buổi sáng vẫn phải giữ chuyên nhất lạy một đức Phật, lí do là như thế. Nếu vừa mới bước vào giai đoạn này mà sáng tối đều lạy nhiều đức Phật và Bồ-tát, có thể khiến cho công phu của hành giả bị đình trệ, không tiến bộ thêm. Cho nên xin đề nghị với hành giả, khi bắt đầu vào giai đoạn này, lạy Phật vào buổi sáng, chỉ lạy một đức Phật; nhờ sự nhớ lạy Phật chuyên nhất đó mà công phu trong động sẽ được gia tăng mạnh mẽ, khiến mình có thể tập trung tâm lực niệm Phật vô tướng trong sinh hoạt hằng ngày, nhanh chóng tu tập thành tựu.
    Giai đoạn này phải luyện tập liên tiếp trong thời gian từ hai đến bốn tuần lễ, cho đến khi cái niệm về niệm Phật vô tướng của hành giả trong sinh hoạt đi đứng ngồi nằm hằng ngày, đạt đến chỗ càng ở trong tình trạng xao động, càng trở nên rõ ràng phân minh; bấy giờ, hành giả có thể chuyển sang bước kế tiếp là cả hai buổi sáng tối đều lạy nhiều đức Phật và Bồ-tát. Nhưng phải nhớ, trong cả hai buổi ấy đều lạy các đức Phật và Bồ-tát giống nhau như đã chọn, cả thuận tự của các Ngài cũng không được thay đổi; còn bình thường niệm Phật vô tướng thì vẫn là đức Phật mình đã chọn từ lúc ban đầu, không được đổi tới đổi lui.
    Hành trì phép nhớ lạy Phật vô tướng trong giai đoạn này, mỗi đức Phật và Bồ-tát phải lạy đúng 3 lạy, không hơn không kém; hơn thì tác dụng phân biệt tướng niệm không rõ ràng, kém thì tâm dễ tán loạn, công phu khó tăng tiến. Khi vừa mới bước vào giai đoạn này, thường bị quên số lần lạy: có lúc mới 1 lạy thì nhớ là đã 2 lạy; có lúc đã 3 lạy thì nhớ là mới có 2 lạy. Nếu khi lạy mà bị lẫn lộn, không biết rõ ràng, thì hãy cứ chấp nhận con số mà mình biết lúc đó, không cần phải tự trách mình sao đã quên con số; làm như thế là vì tránh không để cho tâm hối hận có thể gây ảnh hưởng xấu cho công phu tu hành vào giờ phút đó.
    Ngoài ra, số lần lạy Phật sở dĩ có là vì có thân thể và có động tác lạy Phật, nếu lìa thân thể và động tác, thì con số ấy không có. Chúng ta đang lợi dụng thân thể và động tác để làm công cụ luyện tâm, chỉ cần có thể chế ngự được tâm trụ một chỗ, chỉ cần được chuyên nhất, phân biệt tướng niệm được tỉ mỉ, được như thế là tốt; số lần đúng hay sai không thành vấn đề, quan trọng là chúng ta có tu thành tựu công phu phân minh rõ ràng hay không. Do đó, hành giả trong lúc nhớ lạy Phật vô tướng, nếu số lần lạy bị nhớ lẫn lộn, cứ dứt khoát chấp nhận ngay con số mình biết lúc bấy giờ, rồi tiếp tục lạy; không để cho tâm hối hận hoặc trách cứ mình làm ảnh hưởng đến công phu tu hành.
    Về sự ghi nhớ số lần lạy Phật, không được để cho chữ hay tiếng “một, hai, ba” xuất hiện trong tâm, mà vẫn biết rõ mình đang lạy cái lạy thứ mấy, đồng thời cũng nhớ rõ đức Phật mình đang lạy. Sau khi lạy một đức Phật (hay Bồ-tát) 3 lạy rồi, trong tâm cũng không được khởi lên ý niệm, ví dụ: “Tiếp theo là lạy đức Bồ-tát Đại Thế Chí.”; mà hãy nhớ nghĩ trực tiếp đức Phật (hay Bồ-tát) kế tiếp, và an trụ nơi ý nghĩ về cái lạy thứ nhất, tuyệt nhiên không có danh hiệu và con số. Cái “niệm nhớ tưởng Phật Bồ-tát” và cái “ý nghĩ lạy thứ nhất” đồng thời cùng tồn tại, rỏ ràng, phân minh. Luyện tập một thời gian lâu, tự mình có thể phân biệt rõ ràng: hiện tại mình đang lạy đức Phật (hay Bồ-tát) đó, và đây là cái lạy thứ mấy. Cái niệm về một đức Phật trước khi lạy, và cái niệm về một đức Phật sau khi lạy, phải được phân biệt rõ ràng.
    9. Phật ở Linh-sơn, đừng tìm xa: Khi hành giả hoàn thành công phu của giai đoạn thứ 8, tự biết mình còn không bao lâu nữa sẽ hoàn toàn tu tập thành tựu pháp môn Niệm Phật Vô Tướng, trong tâm vô cùng vui mừng; nhưng, phải đề phòng tâm tự mãn và cống cao! Nếu khởi tâm tự mãn thì sẽ không lạy Phật nữa, công phu liền đình trệ, không tiến tới nữa. Hành giả nên biết, công phu của pháp môn này cần phải dùng phép nhớ lạy Phật vô tướng làm phương tiện, thì mới được gia tăng mạnh mẽ. Nếu tâm sinh tự mãn rồi giải đãi trong việc lạy Phật, công phu khó mà tăng tiến. Trừ phi hành giả đã từng tu định từ nhiều kiếp, là người lợi căn, hoặc công phu đã vượt khỏi tầng bậc này thì không nói, còn không, vẫn phải tinh cần tu tập phép nhớ lạy Phật vô tướng vào hai buổi sáng tối mỗi ngày.
    Nếu khởi tâm cống cao thì cũng khởi tâm phân biệt, cho rằng ta có khả năng, còn người khác thì không có khả năng; người kia không bằng ta, họ phải học theo ta. Đã khởi tâm phân biệt, đối với người tất khởi tâm khinh mạn; tâm đã phân biệt khinh mạn thì mất hết các pháp lợi. Cho nên hành giả đã tiến đến giai đoạn này, cần phải trừ khử tâm tự mãn và cống cao ngã mạn, tiếp tục tinh cần tập luyện, ngày càng thuần thục, tâm càng sáng tỏ, thanh tịnh. Cuối cùng, khi nhớ lạy Phật vào hai buổi sáng tối mỗi ngày, ý chí không cần gắng sức mà có thể soi thấy cái niệm nhớ Phật, rõ ràng phân minh; cái niệm về lạy đức Phật trước, cùng với cái niệm về lạy đức Phật sau, phân biệt cực kì tỏ rõ. Khi lạy Phật thì thư thái, an nhiên, tự tại. Số lần lạy mỗi đức Phật (hay Bồ-tát) sẽ không bị quên mất, cũng không có chữ hay tiếng của con số xuất hiện trong tâm. Lúc bấy giờ thì sự hành trì niệm Phật vô tướng trong sinh hoạt hằng ngày cũng thư nhẹ, tự nhiên như vậy. Tuy thân đang bận rộn trong đời sống đầy rối rắm khẩn trương hiện tại, nhưng không giờ phút nào mà không niệm Phật vô tướng một cách tự tại; thậm chí khi cùng người nói chuyện, khi xử lí các công việc công tư, suy nghĩ mọi sự, đều không nhớ mà nhớ, niệm Phật vô tướng một cách tự động, tự phát.
    Hành giả tu tập đến bước này, trong tâm sáng tỏ thanh tịnh, tự biết Phật ở tại tâm mình, Phật ở trong tự thân mình; đó gọi là “Phật ở Linh-sơn đừng tìm xa, Linh-sơn vốn tại ngay tâm ta.” Thẳng xuống nhận định: cái niệm niệm Phật vô tướng này thật sự là hướng vào nội tâm mà niệm. Nếu hành giả trước nay vốn niệm đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thì tự biết đức Thích Ca Mâu Ni kì thật ở tại tâm mình, không cách xa gang tấc; nếu vốn niệm Phật A Di Đà (hoặc một đức Phật hay Bồ-tát nào khác), cũng đều như vậy.
    Hành giả lúc bấy giờ, nếu đang đi đường thì thấy con chó là Phật, thấy người cũng là Phật. Tất cả cái gì nhãn căn trông thấy cũng đều là cái niệm nhớ Phật, mà không hề có Phật hiệu, âm thanh, hay hình tượng. Hoặc ở trong sinh hoạt hằng ngày, nghe bất cứ một tiếng gì, cũng đều là cái niệm nhớ Phật, mà trong tâm không hề có tiếng của Phật hiệu. Những cảnh tượng được diễn tả trong Kinh Phật Thuyết A Di Đà như: “Gió thổi nhẹ làm lay động các hàng cây báu và các mạng lưới báu, phát ra âm thanh vi diệu, ... Người nghe các âm thanh ấy đều tự nhiên sinh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.”, tức là trường hợp này vậy. Chúng ta ở nơi thế giới Kham-nhẫn [83] đầy năm thứ dơ bẩn này, tuy không có các hàng cây báu và các mạng lưới báu để phát ra âm thanh vi diệu, nhưng do biết y theo pháp môn Niệm Phật Viên Thông để khéo léo tu trì, khi đạt được đến bước này, nghe tất cả mọi âm thanh huyên náo, tự nhiên khởi tâm niệm Phật, tất cả mọi niệm khởi lên trong tâm đều là niệm nhớ Phật. Hành giả tu tập đạt đến bước này, niềm cảm thọ pháp hỉ đạt được ở đỉnh đầu. Nếu người tinh tấn cùng cực, trong vòng 6 tuần lễ tu tập đã đạt đến được bước này, thì niềm pháp hỉ lại vô cùng mãnh liệt, thậm chí còn nhảy nhót nữa! Gặp ai cũng khuyên tu tập pháp môn này, khởi tâm từ bi, nguyện khắp mọi người đều do từ pháp môn này mà chứng nhập “duy tâm tịnh độ”, hoặc vãng sinh về tịnh độ của chư Phật. Mình tự biết chắc chắn, đến khi lâm chung là vãng sinh Cực-lạc, không chút nào do dự. Tâm vô cùng an ổn, vững chãi, khác với tâm trạng bàng hoàng của những người học Phật không thành công. Nếu hành giả vốn có tham thiền, thì lúc này đã đủ sức để sẵn sàng tham thoại đầu và tư duy quán chiếu, cánh cửa vô-môn đã ở ngay trước mắt, tâm vô cùng hoan hỉ, bèn phát thệ nguyện: Nguyện cho tất cả mọi Phật tử đều do từ pháp môn Niệm Phật Vô Tướng này mà đích thân trông thấy cánh cửa vô-môn!
    Thông thường người tu tập pháp môn Niệm Phật Vô Tướng này, đến giai đoạn thứ 9 thành công, đa phần trên dưới 3 tháng thì niềm pháp hỉ phai dần. Nếu không tinh tấn thì 4, 5 tháng, thậm chí cả năm, cũng không thành công. Người căn khí không nhạy bén, nếu tu tập tinh cần, hết 6 tháng cũng có thể thành công, nhưng niềm pháp hỉ sẽ rất nhạt. Hành giả tu tập pháp môn này, tối kị là tính nôn nóng, cứ muốn vượt gấp tới trước, tham cầu pháp hỉ; nên biết, quá nóng vội sẽ hỏng việc, lại còn mất thêm thì giờ, sau ăn năn không kịp. Vả lại, pháp hỉ chỉ là loại cảm giác tâm lí do tu tập thành công, giống như được tưởng thưởng, lúc đầu thì vui mừng, rồi dần dần phai nhạt đi; đó là niềm vui vô thường, không phải là là niềm vui vĩnh cửu. Hành giả không nên tu tập pháp môn này vì cầu được thưởng thức niềm pháp hỉ, mà mục tiêu tu tập loại công phu này phải là vì đạt được sự giải thoát rốt ráo; còn pháp hỉ chỉ là cái ích lợi phụ giúp mà thôi.
    10. Động tịnh kiêm tu: Sau khi tu tập thành công pháp môn Niệm Phật Vô Tướng, hành giả vẫn không được tự mãn. Nếu quán sát thật kĩ, vẫn có thể phát giác ra rằng, cái ý niệm nhớ Phật trong lúc cùng người nói chuyện hay suy nghĩ sự việc gì, vẫn chưa được rõ ràng hoàn toàn. Cho nên, khi nói chuyện hay suy nghĩ việc gì, cần chú ý, “nội nhiếp và ngoại duyên [84] phải cân bằng” (xin xem chú thích số 13 của tác giả ở cuối sách); nếu trong ngoài đều cân bằng thì cái niệm nhớ Phật liền trở nên sáng tỏ. Muốn đạt được bước này, ngoại trừ việc hành trì nhớ lạy Phật vô tướng vào hai buổi sáng tối hằng ngày và niệm Phật vô tướng trong sinh hoạt hằng ngày, còn phải tham gia một hội niệm Phật để cùng tu chung với người khác. Khi cùng tu chung thì miệng xướng niệm Phật hiệu, tâm quán chiếu niệm nhớ Phật, làm sao cho cái niệm này không bị ảnh hưởng bởi câu Phật hiệu, mà luôn luôn chuyên nhất, rõ ràng. (Mình ở tại nhà cũng có thể xướng niệm như vậy.) Ngoài ra, mỗi ngày nên tĩnh tọa một giờ. Khi tĩnh tọa thì niệm Phật vô tướng, không được hôn trầm, quán chiếu cái niệm vô tướng niệm Phật này từ thô sơ đến vi tế. Đó là công phu từ động chuyển thành tĩnh. Chư Phật tử muốn thành tựu đạo nghiệp, cần phải tu tập cả trong lúc động lẫn trong lúc tĩnh; được thế thì nhanh chóng nhập đạo.
    Nếu hành giả muốn vào cảnh giới “niệm Phật tam ma địa”, tu “duy tâm tịnh độ”, cũng phải mỗi ngày tĩnh tọa niệm Phật vô tướng, không nên chỉ ỷ lại nơi công phu niệm Phật vô tướng trong hoàn cảnh xao động hằng ngày. Bởi vì tam ma địa có tướng định [85], cho nên phải tìm cầu trong lúc ngồi yên. Khi niệm Phật vô tướng trong lúc tĩnh tọa, thân không nghiêng ngả giao động, sáu căn đều thu nhiếp, tịnh niệm tiếp nối; cứ thế mà ngày ngày luyện tập. Đến một sáng sớm nào đó, tánh chướng [86] tiêu trừ, liền nhập vào tam ma địa. Nếu không tự mãn, lại chuyên cần tu tập, tam ma địa thuần thục, dần dần đạt được các công dụng tam muội của pháp môn Niệm Phật. Nhân vì pháp môn này thâm nhập vào cảnh giới niệm Phật viên thông của Bồ-tát Đại Thế Chí, cho nên dần dần sẽ chứng nhập Lăng-nghiêm đại định. Về việc chứng các cảnh giới của Lăng-nghiêm đại định và thấy được các cảnh giới tương quan với tự tánh, xin hành giả tự mình tìm đọc trong Kinh Lăng Nghiêm, ở đây xin khỏi trình bày.
    Khi đã thành công giai đoạn này, hành giả có thể ở trong hai tướng động tĩnh, lúc nào cũng soi thấy rõ ràng cái niệm niệm Phật vô tướng. Giống như con trâu đã tập luyện thuần thục, ngoan ngoãn đi theo người, không còn hung dữ nữa. Bấy giờ hành giả bỗng nhiên hiểu ra cái điều mà trong kinh từng nói “một niệm ban sơ”, nguyên lai là như thế đó. Đến đây, công phu Niệm Phật Vô Tướng đã hoàn toàn thành tựu; nhưng thực ra, đó cũng chỉ là bước nhập môn của pháp môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ-tát Đại Thế Chí mà thôi.
    Hành giả tu tập đến đây, nếu muốn vãng sinh về tịnh độ của chư Phật, chỉ cần mỗi ngày một lần đứng trước Phật hoặc vọng lên không trung xưng niệm danh hiệu Phật, nhớ đến bốn lời nguyện lớn và lời phát nguyện đặc biệt của đức Phật ở quốc độ mà mình muốn vãng sinh về (như một lời nguyện nào đó trong 48 lời nguyện lớn của đức Phật A Di Đà ở thế giới Cực-lạc, tương ứng với chí nguyện của mình; hoặc như một lời nguyện nào đó trong 12 lời nguyện lớn của đức Phật Dược Sư ở thế giới Lưu-li tại phương Đông, tương ứng với chí nguyện của mình); thêm vào đó, đem công đức tu hành mỗi ngày hồi hướng phát nguyện, khi xả bỏ báo thân sẽ vãng sinh về cõi nước của đức Phật ấy. Như thế là được. Thì giờ còn lại thì chuyên nhớ nghĩ đến đức Phật ấy. Khi ngày giờ vãng sinh đến, mong được báo trước. Sau đó 7 ngày, đức Phật mà mình hằng nhớ nghĩ, sẽ hiện ra trước mặt và trao tay cho mình, rồi an tường vãng sinh, không có gì chướng ngại. Đó là thông thường các hành giả tu niệm Phật Tịnh-độ hằng khao khát mong cầu.
    Nếu hành giả tự biết mình nhất tâm bất loạn, trong tương lai vãng sinh không bị chướng ngại, mà muốn ở trong đời này, tiến thêm một bước nữa trong việc tu tập Phật pháp, thì hãy kéo dài thời gian tĩnh tọa, thâm nhập vào pháp môn Niệm Phật Viên Thông, tùy mỗi hành giả có tinh tấn hay không, và thiện căn sâu cạn không giống nhau, mà dần chứng được các cảnh giới giải thoát và các thứ tam muội niệm Phật của Lăng-nghiêm đại định. Các cảnh giới trong đại định đó, kẻ hậu học này chưa đủ khả năng dò tìm để trình bày được. Bởi vì, pháp môn Niệm Phật Viên Thông do đức Bồ-tát Đại Thế Chí thuật lại, thứ lớp từ cạn đến sâu, từ hàng Bồ-tát ở bậc Tín đầu tiên cho đến hàng Bồ-tát ở bậc Đẳng-giác, Diệu-giác (cả thảy 52 bậc trong quá trình tu tập Bồ-tát hạnh), đều cùng thông dụng. Pháp môn tuy một, mà trình độ chứng đắc thì sâu cạn không đồng đều. Nếu, như trong Kinh Lăng Nghiêm nói, tu tập cho đến khi tưởng ấm tận diệt thì tiến vào phạm vi của hành ấm; cho đến hành ấm tận diệt thì cảnh giới của vị Bồ-tát này đã vượt hơn quả vị A-la-hán của bốn quả Thanh-văn; nếu qua phạm vi của thức ấm mà đến được chỗ thức ấm tận diệt, tức là viên mãn cả 10 bậc Địa của cấp Thập-địa, trở thành Bồ-tát Đẳng-giác. Từ chỗ cạn nhất là niệm Phật vô tướng, tiến đến chỗ sâu xa nhất là thức ấm tận diệt, thời gian chứng đắc của mỗi vị hành giả không giống nhau, cảnh giới cũng không phải là một. Đối với các loại cảnh giới giải thoát thứ lớp không đồng nhau có nói trong kinh, chúng ta nên lấy tinh thần “Trông lên càng cao, dùi vào càng cứng” [87], hợp sức siêng năng tu hành. Không bao giờ vừa đạt được chút ít đã vội cho là đủ, rồi vọng ngôn nói rằng mình đã thành tựu pháp môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ-tát Đại Thế Chí, tội lỗi vô cùng! Hãy tu hành trong khiêm tốn, thầm lặng, ân cần cúng dường lễ bái đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni và các đức Phật, Bồ-tát mà mình luôn nhớ nghĩ.
    Last edited by linh_tinh_85; 22-02-2011 at 06:42 AM.

  7. #7

    Mặc định

    Cho hỏi đây có phải do tâm của linh tinh viết ra hay post từ nơi này qua nơi khác ,để MINH ĐÀI còn vì đạo hữu cố gắng đọc thọ lãnh cái tâm thật ,
    rose4rose4 Chúc mọi người vạn sự bình an

  8. #8

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi minh đài Xem Bài Gởi
    Cho hỏi đây có phải do tâm của linh tinh viết ra hay post từ nơi này qua nơi khác ,để MINH ĐÀI còn vì đạo hữu cố gắng đọc thọ lãnh cái tâm thật ,
    Xin huynh coi cho kỹ ở bài đầu tiên phần chot nghe!

    Tác giả
    Cư sĩ TIÊU BÌNH THẬT
    Ngày 28 tháng 2 năm 1992
    Trích http://www.tinhdo.net/sachdao/145-niemphatvotuong.html

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Đạo Phật Có 8 Lớp Học
    By phimanh in forum Đạo Phật
    Trả lời: 15
    Bài mới gởi: 20-09-2012, 09:33 PM
  2. BỬU SƠN KỲ HƯƠNG - TÁC GIẢ VƯƠNG KIM
    By vankhuc in forum Bửu Sơn Kỳ Hương
    Trả lời: 9
    Bài mới gởi: 22-07-2012, 04:47 PM
  3. 100 phước báo khi niệm Phật !
    By vietnamese in forum Đạo Phật
    Trả lời: 7
    Bài mới gởi: 18-01-2012, 10:53 PM
  4. Dành cho người hữu duyên
    By nguoi_mu in forum Đạo Phật
    Trả lời: 101
    Bài mới gởi: 24-04-2011, 07:54 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •