kết quả từ 1 tới 7 trên 7

Ðề tài: âm Thanh Và ánh Sáng

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định âm Thanh Và ánh Sáng

    ÂM THANH VÀ ÁNH SÁNG
    TRONG THỂ NGHIỆM THIỀN
    Phạm Doãn


    Sóng-Bản chất của thế giới
    Sự tiến bộ của vật lý cho ta biết thêm những cấu tạo dưới nguyên tử (sub atomic). Đó là những hạt quarks. Hiện tại người ta lại biết rằng Quarks không phải là cấu tạo cơ bản vì chúng có tính không ổn định, chúng có thể thay đổi. Lý thuyết mới nhất Super string theory: Cho rằng yếu tố cơ bản không phải là hạt (particle) mà là dây (string). Theo lý thuyết này, Proton gồm có 3 dây, mỗi dây tương ứng với một quark. Mỗi dây có chiều dài bằng nhau (chiều dài đó có trị số bằng hằng số Planck), nhưng rung động với các tần số khác nhau. Sự rung động của mỗi dây giống như mỗi nốt nhạc. Cả thế giới vật chất là một bản giao hưởng vĩ đại.

    Thế giới vật chất của chúng ta có bản chất là sóng. Toàn bộ vũ trụ với các thiên thể là những sóng. Đất đá là sóng. Cơ thể sinh học chúng ta là sóng. Âm thanh, ánh sáng, hương-vị, cảm giác cũng là sóng. Như vậy có thể cái đầu tiên cũng là sóng năng lượng chăng? Trong kinh Tân Ước, thánh John viết:

    “In the beginning was the Word and the Word was with God and the Word was God”. Ban đầu có Ngôi Lời? Ngôi Lời ở cùng Chúa trời và Ngôi Lời chính là Chúa trời.

    Cái gì là Ngôi Lời-The Word? Giải thích của giáo hội Cơ Đốc theo nhiều người là rất khó hiểu. Nếu thoát ra khỏi sự giải thích của Giáo hội Cơ đốc, người ta có thể phân vân Ngôi Lời phải chăng chính là biểu tượng của âm thanh, của sự rung động, của sóng. Triết học Hy Lạp coi Ngôi Lời là Logos, là cái Lý sáng tạo toàn thể vũ trụ và loài người (Bùi Giáng dịch là cái Lồ gồ :P)

    Âm thanh bên trong-The inner sounds

    Giống như tất cả mọi hiện hữu vật chất. Cơ thể của chúng ta cũng là sóng tức những dao động. Và những dao động này ta có thể cảm nhận được. Thỉnh thoảng khi bạn mệt, bị cảm cúm hoặc sau một cố gắng quá sức, bạn có thể nghe ù tai (nghe như tiếng ve kêu). Triệu chứng này bác sĩ gọi là tinnitus (French: bourdonnement de l’oreilles). Ù tai loại này xuất hiện thình lình và cũng biến mất đột ngột, ít khi kéo dài quá vài ngày. Tôi dám chắc rằng nó không phải là tổn thương những sợi lông nhỏ của tai trong, như chẩn đoán của các bác sĩ tai-mũi-họng, nhưng đó là “âm thanh bên trong, the inner sound”! Những âm thanh này chính là những dao động của cơ thể của bạn. Đây là cơ chế tự bảo vệ của cơ thể, nó xuất hiện để bạn có ý thức về chính cơ thể mình. Ngoài ra có thể nó còn đi kèm với cơ chế tự sửa chữa, tự phục hồi cơ thể!

    Thỉnh thoảng ngay lúc bạn hoàn toàn khỏe mạnh, bạn cũng có thể nghe được Âm thanh bên trong. Thỉnh thoảng trong lúc ngồi thiền bạn cũng có thể nghe âm thanh bên trong. Đa số nghe âm thanh bên trong giống như tiếng côn trùng, tiếng ve, tiếng vang trong vỏ ốc lớn. Có người nghe được tiếng sáo, tiếng trumpet, tiếng tù-và, tiếng đàn Harp, tiếng trống, tiếng sấm, tiếng sóng biển.v.v…Đôi khi rất hiếm, có người nghe được tiếng nhạc với melody rõ rệt. Lịch sử chế tạo nhạc cụ cho biết rất nhiều nhạc cụ được chế tạo ra do kinh nghiệm từ âm thanh bên trong.

    Ấn độ giáo thường được biết đến với biểu tượng thần Krisna đang thổi sáo. Chương Khải huyền (Revelation, Apocalype) của Tân Ước kể về mặc khải của Đức Jesus với bảy thiên thần thổi bảy cây kèn Trumpet. Đại thừa Phật giáo trong Kinh Diệu pháp liên hoa, phẩm Phổ môn có đề cập tới Diệu âm, Phạm âm, , Hải triều âm, Quán thế âm, Thắng bỉ thế gian âm. Rất nhiều tôn giáo` và giáo phái có đề cập đến âm thanh bên trong với những từ khác nhau như: Naad, Akash Bani, Sruti (trong Vedanta) hoặc Nada, Udgit (trong Upanisad) hoặc Kalma (trong kinh Qur’an) hoặc Music of the sphere (Pythagoras).

    Ánh sáng bên trong-The inner lights

    Cũng như âm thanh, ánh sáng cũng là sóng. Ai cũng biết về sóng ánh sáng, về sự tương ứng giữa màu sắc với tần số sóng. Trong thiền định ta có thể đột nhiên thấy xuất hiện ánh sáng. Sự cảm nhận ánh sáng trong thiền định có lẽ khó hơn so với sự cảm nhận âm thanh. Theo kinh nghiệm của tôi, ánh sáng dễ xảy ra khi thiền nhắm mắt. Thoạt đầu vùng đen tối lộn xộn trước mắt ta từ từ trở nên đen tuyền và mịn màng như một khối đồng nhất (homogeneous), sau đó dần dần có những chấm sáng lóe lên. Có thể ánh sáng có nhiều hình dạng hoặc nhiều màu sắc khác nhau. Đôi khi ta có thể cảm nhận như có hai luồng sáng phát ra từ hai đuôi mắt phía ngoài (phía thái dương). Cũng được coi như là cảm nhận ánh sáng nếu ta bỗng chợt nhìn thấy một hình ảnh hoặc một khung cảnh nào đó với những cường độ sáng khác nhau. Có những phân loại cường độ ánh sáng trong thiền định như: Bóng tối, những điểm ánh sáng lóe, ánh sáng đêm trăng, ánh sáng mặt trời… Một người rất thân của tôi ngồi thiền trong bóng tối bỗng thấy quanh mình là ánh sáng rất sáng, dường như có thể đọc sách được. Bằng thiền định sâu, khi quay về được với bản thể sóng của mình, ta có thể cảm nhận âm thanh hay ánh sáng. Ngay thời điểm giác ngộ cũng có biểu hiện ánh sáng với cường độ cao. Khi Jean Baptist làm phép nước, Jesus Christ cảm nhận một làn ánh sáng từ trời cao vụt xuống ngài, Tân ước ẩn dụ là… giống như con chim bồ câu trắng đang lao xuống. Tuy nhiên một blog friend của tôi kể rằng trong lúc tâm hồn đau khổ cùng cực bỗng nhiên cô trông thấy toàn thể căn phòng rực sáng! Lúc đó phòng tắt đèn và cô cũng không ngồi thiền (?).

    Nghĩa là có rất nhiều điều được kể lại về thể nghiệm ánh sáng từ những chuyện thuộc về lịch sử tôn giáo cho đến chuyện của người hành thiền bình thường hôm nay. Theo kinh điển Mật tông, khi chết, lúc cơ thể sinh học tan rã, bản thể chúng ta cũng được bộc lộ như những vùng ánh sáng chói chang (clear light of the nature) và những âm thanh chấn động trong cõi trung ấm.

    Surat Shabd Yoga

    Chắc chắn sự hiểu biết về âm thanh và ánh sáng đã có từ lâu trong truyền thống triết học và tôn giáo Ấn. Nhưng có một phong trào thiền định về âm thanh và ánh sáng nở rộ cách đây khoảng 700 năm gọi là Surat Shabd yoga. Shabd có nghĩa là âm thanh (Sound) hay lời (Word). Surat Shabd hình thành ở bắc Ấn độ vào thế kỉ 13th, được biết đến như phong trào Sant Mat hay Satsang. Đó là phản ứng của tầng lớp dân dã Ấn độ trước sự kiêu ngạo độc quyền của giai cấp Bà la môn. Người Bà la môn không chạm vào dù là cái bóng của người ở giai cấp khác. Phong trào Sant Mat như một cuộc cách mạng tôn giáo phủ nhận cái bóng quá lớn của Bà la môn tức Ấn giáo bằng những Guru nổi tiếng. Sant Mat vẫn tiếp tục truyền thống của nó tới tận hôm nay với rất nhiều guru và giáo phái. Hiện nay, Surat Shabd ở Ấn độ là Radhaswami. Surat Shabd ở Đài Loan và Việt Nam là pháp môn quán âm. Surat Shabd ở Mỹ là Master Path, Eckanka…Bởi vì Surat Shabd luôn là những giáo phái bí mật (esoteric) hoặc bán bí mật (half esoteric) cho nên nhận diện Surat Shabd là điều không dễ.

    Hình ảnh của Sant Mat đáng lẽ trở nên tốt đẹp hơn nếu họ không đi theo bánh xe cũ của Ấn độ giáo là tính bảo thủ. Ví dụ họ vẫn giữ những thuộc-tính xấu mà đa số các tôn giáo đã mắc phải, thậm chí họ trở thành những giáo phái thần bí và rất khắt khe. Ví dụ họ vẫn sử dụng lí luận truyền thống của Vedanta là: một người không thể giác ngộ nếu không thọ giáo với một minh sư. Lịch sử cho thấy sa môn Siddartha đã chứng minh luận điểm này là không đúng, là quá cố chấp. Surabd Shabd dùng khái niệm minh sư còn sống (living master) để giữ độc quyền sự phổ biến pháp môn. Cũng từ đó, sự tranh dành địa vị “Minh sư tại thế” đưa đến đấu đá tranh dành quyết liệt trong suốt lịch sử phát triển của Sant Mat. Một số Guru vì thế phải dấu kín tông tích của mình.

    Phép quán âm thanh và ánh sáng của Surat Shabd

    - Quán âm thanh: Người thực hành chọn sóng chấn động bên trong cơ thể mình làm đối tượng quán. Lắng nghe âm thanh bên trong đầu của mình. Hiệu ứng tăng lên khi dùng ngón cái bịt lỗ tai và trong tư thế ngồi xổm. Lúc đầu người tập nghe được âm thanh côn trùng, lâu dần có thể nghe được những âm thanh gọi là cao hơn như tiếng sáo, tiếng đàn harp, tiếng kèn túi, tiếng sóng, tiếng sấm, tiếng nhạc v.v…

    - Quán ánh sáng: Người tập ngồi với tư thế thoải mái, tập trung tư tưởng vào giữa hai chân mày, nơi được coi là con mắt thứ ba. Sau một thời gian sẽ cảm nhận được ánh sáng. Lấy ánh sáng bên trong này làm đối tượng quán để tiếp tục công phu thiền định cho đến mức độ cao hơn. Hiện tại Surat Shabd ở Việt Nam được lấy tên là “Pháp môn Quán âm” hoặc “Pháp môn Diệu âm” với giáo lí cải biến cho phù hợp với Phật giáo là tôn giáo chiếm tỉ lệ cao trong cộng đồng. Trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam cũng có một pháp môn dùng kĩ thuật thiền định bịt hai lỗ tai mà họ gọi là “soi hồn” đó là pháp môn vô vi sáng lập bởi ông Đỗ Thuần Hậu, hiện tại kế tục bởi ông Lương Sĩ Hằng.

    Nhận xét:

    Quán âm thanh hay ánh sáng bên trong, là quán một cảm thọ của chính cơ thể mình, vì vậy về nguyên lý đó cũng là Vipassana. Thực sự thì quán âm thanh bên trong, rất dễ cho người mới thực hành thiền định, và điều này mau làm tâm ổn định. Quán ánh sáng thì khó hơn, thậm chí có người thực hành hơn hai mươi năm mà vẫn chẳng thấy gì, dù có được truyền tâm ấn (initiated) , ăn chay tuyệt đối, duy trì thời gian thiền hai tiếng rưỡi mỗi ngày! Sự thể nghiệm nhiều hay ít tùy thuộc vào yếu tố tiên thiên của từng người (predisposed factors) tức là yếu tố nghiệp, bộ genes của từng người.

    Quan sát cho thấy, pháp quán âm thanh và ánh sáng cũng chỉ là một pháp tu thiền định như những pháp tu tâp khác. Nó nâng tâm thức người thực hành lên đến mức độ nào, tùy theo căn cơ nghiệp chướng của người đó. Ý nghĩ cho rằng âm thanh và ánh sáng là bản thể cuối cùng của thế giới, và đồng nghĩa với Phật tánh, thì hoàn toàn sai. Thế giới vật chất của ta, mà bản thể có thể là ánh sáng, nằm trong tam giới. Phật tánh thì vượt qua tam giới, bao trùm vô lượng thế giới. Tuy nhiên phương pháp tu tập hướng sự di chuyển nhận thức, từ cơ thể vật chất thô đến rung động vi tế sâu hơn, như rung động cấp tế bào, cấp phân tử, và cấp vi tế hơn nữa…thì hướng di chuyển này là hợp lý. Nương theo âm thanh hay ánh sáng để thâm nhập cõi giới vi tế hơn. Có lúc phải vượt qua ánh sáng để đến những thế giới cao hơn. (Surat shabd cho rằng cái ánh sáng mà pháp môn họ đề cập tới là loại ánh sáng khác với ánh sáng thông thường. Đó là loại ánh sáng không có bóng!)

    Kinh Lăng Nghiêm có nhấn mạnh đến thể nghiệm ánh sáng của người tu thiền. Trong phần ngũ ấm ma, kinh cũng khẳng định thể nghiệm ánh sáng là một ấn chứng bình thường, nhưng nếu nhận đó là Phật tánh thì liền rơi vào ma chướng. Một số người lại e sợ những thể nghiệm, coi tất cả là ma chướng. Vì thế, vấn đề “ma chướng”, phải nên được hiểu một cách thật rõ ràng. Có thể nói, mọi thể nghiệm đều là ma chướng, cho tới khi bạn đạt quả vị A nậu đa la. Nếu không dám đi qua những thể nghiệm ấy nghĩa là bạn đứng yên một chỗ trên đường tu hành. Đức Phật trước giây phút cuối cùng để thành quả vị A nậu đa la mà còn phải đối mặt với bao nhiêu là thể nghiệm ma chướng!

    Kết luận:

    Mục đích bài viết là muốn:

    - Gợi ý về một sự tương đồng "có thể", giữa “bản thể" của thế giới Vật lý với “thực tại Tâm" của người đang trụ sâu trong thiền định ( Dĩ nhiên đây là điều còn rất nhiều tranh luận ). Hiểu rõ về bản chất vật lý của âm thanh và ánh sáng, cũng như thể nghiệm thiền định về âm thanh và ánh sáng, có thể giúp người thực hành có cái nhìn rộng rãi hơn về những hiện tượng này. Người thực hành thiền định sẽ không quá thần bí hóa, tôn sùng hoặc ngược lại quá e ngại hay sợ hãi những ấn chứng về âm thanh hay ánh sáng.

    - Giải thích thể nghiệm âm thanh và ánh sáng trong ý nghĩa khoa học của chúng. Tâm và Vật là hai thực thể không thể tách rời. Phần sâu nhất của Tâm cũng tương ứng với phần sâu nhất của Vật chất. Một cách đơn giản, ta có thể mường tượng Sự chứng đắc trong thiền định như là sự di dời ý thức từ cấp độ cơ thể đến cấp độ hạt cơ bản và sâu xa hơn nữa.

    - Giới thiệu những phương pháp thiền định nhắm vào bản thể vật chất của con người: sóng năng lượng. Tuy nhiên phải hiểu rằng âm thanh hay ánh sáng chưa phải là bản thể cuối cùng, chưa phải là Phật tính.

    - Xác nhận tính giới hạn của tri thức khoa học.Về mặt Vật lý, dĩ nhiên lí thuyết hạt hay dây chưa phải là điểm dừng, nhưng dưới hằng số Planck, là một thế giới mà Vật lý học vĩnh viễn không thể nào biết tới. Vũ trụ quan Phật giáo quan niệm có vô lượng thế giới. Thế giới mà chúng ta đang sống, đang tư duy triết lí, đang nghiên cứu khoa học, chỉ là một phần của cái vô lượng thế giới. Thế giới của chúng ta nằm trong tam giới. Để hiểu biết vượt ra ngoài tam giới, phải nhờ đến năng lực thiền định. Trong lịch sử, và có thể ngay trong hiện tại, đã từng có những bậc tu hành vượt qua giới hạn của thế giới vật chất bằng thiền định. Theo ngôn ngữ Phật giáo, đó là vượt ra ngoài tam giới.

    Phạm Doãn

    Vài links tham khảo
    Nghiên cứu về Sant Mat, Sat Sang, Surat Shabd
    Sant Mat
    Naam or Word
    Kirpal Singh
    Thakar Singh
    Guru Nanak

    Bài Viết Liên Quan:
    Pháp Môn Quan Âm, Hoàng Liên Tâm

    (Trích từ Thư Viện Hoa Sen)

  2. #2

    Mặc định

    rất cãm ơn huynh LNC có bài viết rất cận nhật của khoa học trong THIỀN HỌC trên dđ.tôi Luôn thèm khát đôi khi thấy thiếu những gì mình chưa biết.cãm ơn huynh .
    Last edited by kimduy; 14-03-2008 at 10:40 AM.

  3. #3

    Mặc định

    cam on nhieu nhe
    toi da rat muon tim hieu ve the gioi va kha nang vo tan,huyen bi cua con nguoi

  4. #4

    Mặc định

    xin loi Ngoc Chi da tho phap mon Quan Am chua?Neu muon tho phap mon Quan Am thi lam the nao?co ton tien khong va vi thay do co dat qua vi phat chua?

  5. #5

    Mặc định

    Bài nay rất hay, nếu tập thì phải có thầy, vì tập luyện dễ bị tẩu hỏa lắm.

  6. #6

    Mặc định

    Sẽ đến lúc Cổ Học và Khoa Học Hiện Đại cùng ngồi chung với nhau :) . Hi vọng sẽ không còn xa nữa :D
    Lãng lí ba đào bất khả minh
    Tử đồ hà xứ cảm trì danh
    Tam nhân nhật hội phù gia nghiệp
    Phong lĩnh giang hà hoài nhất sinh
    <Bác Nhược Thủy>

  7. #7
    phiphi
    Guest

    Exclamation Pháp môn ÁNH SÁNG & ÂM THANH










    Âm Thanh Trần Gian Và
    Âm Thanh Siêu Thế Giới


    Thanh Hải Vô Thượng Sư giảng tại Đài Bắc, Formosa
    (Nguyên văn tiếng Trung Hoa)
    Ngày 6 tháng 3, 1986



    Trước hết, chúng ta hãy nói về âm thanh thường của thế giới này, và sau đó sẽ nói đến âm thanh siêu thế giới - âm thanh của Thượng Đế. Từ xưa đến nay, âm thanh giữ một vai trò rất quan trọng trong đời sống của chúng ta. Khó mà tưởng tượng nổi, nếu thế giới này không có âm nhạc thì đời sống của chúng ta sẽ khó chịu như thế nào. Nhạc cổ điển tương đối êm dịu và nhẹ nhàng, khiến người nghe vui vẻ hơn, bình an và hiền hòa. Vì thế thời xưa có nhiều người cao quý và và hiền từ. Nhạc tân thời kích động hơn. Những người mà từ nhỏ đã chịu ảnh hưởng loại nhạc này, khi lớn lên sẽ rất khó dạy, vì loại nhạc đó tiêu biểu cho phong độ và cá tính của một con người. Trong dưỡng trí viện, bác sĩ thường cho bệnh nhân nghe nhạc êm dịu, để tâm họ lắng xuống. Khi làm việc mệt mỏi hoặc cảm thấy bực bội, buồn rầu, chúng ta nghe âm nhạc một lúc cũng khiến lòng bình thản lại.

    Vạn Vật Trong Vũ Trụ Đều Có Chấn Động Lực


    Trong vũ trụ, bất cứ cái gì cũng đều có chấn động lực. Lực chấn động này sẽ biến thành những âm thanh, giống như những làn sóng của các đài phát thanh phát, mà khi qua máy thu thanh tiếp nhận được chuyển thành âm thanh. Vạn vật trong vũ trụ, dù là đá, là cây, hoặc con người, đều có tầng số chấn động riêng của nó. Chính vì sự khác biệt về tầng số chấn động nên khó có sự câu thông giữa động vật và loài người, giữa người và người hoặc giữa vợ chồng.

    Có người có chấn động lực thô kệch, khiến ta vừa tiếp xúc đã thấy khó chịu. Ngược lại, có một số người có chấn động lực hoặc lời nói, điển quang hiền hòa hơn, khiến ta vừa thấy đã cảm thấy thoải mái, dễ chịu. Có những nơi mà chấn động lực gần giống chúng ta, vừa bước vào đã cảm thấy dễ chịu, nhưng có những người điển quang không tốt vừa bước vào một nơi nào đó đã khiến người khác cảm thấy sợ sệt, lo âu, vì chấn động lực của họ thấp kém và nặng nề, hoặc có thể nói nghiệp chướng của người đó rất nặng, nhiều ác tâm, nhiều ma chướng. Họ có nhiều âm khí trong khi chúng ta có nhiều dương khí hơn, nên hai bên không thể phối hợp được. Kết quả, chúng ta có cảm giác bất an.

    Trên quả địa cầu, không phải nơi nào cũng có chấn động lực như nhau, vì trên trái đất có đủ loại quặng kim loại phân phối không đồng đều. Do đó, có nhiều nơi những người không tu hành thường cảm thấy ở đó bất an. Tuy nhiên đối với người có tu hành đâu đâu cũng là Tịnh thổ, là Thánh địa. Nhưng nói dễ hơn làm. Mấy ai đã đạt đến trình độ này? Bầu không khí không hòa hợp này, những người tầm thường, không tu hành, cũng nhận rõ, ngoại trừ những người vô minh và vô giác như cỏ cây. Càng tu đến cảnh giới cao thì càng nhậy cảm, nhưng khi đạt được cảnh giới cao nhất thì nơi nào cũng vậy, không có sự khác biệt nữa.

    Dù chúng ta gần gũi ai, đều chịu ảnh hưởng bởi chấn động lực của người đó. Nếu điển quang của người đó nhu hòa thì chúng ta cũng sẽ trở nên nhu hòa hơn. Nếu người đó kích động, chúng ta cũng sẽ trở nên kích động. Chúng ta thường nghe nói Phật Bồ Tát thường gánh nghiệp chướng cho chúng sanh, vì Phật có thể bằng cách thu lực chấn động xấu, ảnh hưởng xấu, hoặc gọi là nghiệp chướng từ trên thân thể người đó lên trên người Phật, và đổi cho chấn động lực tốt, và bằng vào lực lượng tu hành, các Ngài có thể tiêu trừ nghiệp chướng này. Vấn đề cần bao nhiêu thời gian để tiêu hóa thì tùy các Ngài thu thập nghiệp chướng nhiều hay ít. Và trước khi có thể rửa sạch nghiệp chướng thì các Ngài sẽ bị ảnh hưởng như bị bệnh, bị phỉ báng, hay thậm chí bị giết hại.

    Giống như Chúa Giê-Su Kitô, vì gánh nghiệp cho nhân loại mà bị đóng đinh trên thập tự giá. Chúng ta hình như không hề nghe nói Phật Thích Ca Mâu Ni gánh nghiệp chướng cho ai, nhưng trong kinh điển có ghi như sau: "Có một người đã từng giết 99 người, sau đó lại muốn giết cả Phật, nhưng không thành mà còn được Phật độ cho, sau tu đắc quả A La Hán." Nếu Phật không gánh nghiệp chướng cho, thì nghiệp giết 99 người đi đâu rồi? Giết bao nhiêu mà còn đắc quả A La Hán, không phải là đi ngược lại với luật nhân quả hay sao? Không phải thế, bởi vì công đức của Phật Thích Ca rất dày, vô lượng vô biên, dư thừa để trả nghiệp chướng nên không thành vấn đề, chứ không phải người này không bị quả báo, mà vì nghiệp quả đã được Phật gánh giùm.

    Cho nên từ xưa tới nay, những ai muốn được giải thoát, trước tiên đều phải tìm Minh Sư. Vì chúng ta mới bắt đầu tu hành, lực lượng còn yếu không đủ để thanh toán quá nhiều nghiệp chướng. Những vị Minh Sư này tu hành lâu đời, phước báu sâu dày, họ có thể vừa chỉ dẫn đường đi nước bước, vừa gánh hành lý giùm cho ta vì họ có lực lượng. Người thường có lực lượng của người thường, người tu hành có lực lượng của người tu hành. Lực lượng này có thể ta không thấy được, nhưng rất vô lượng vô biên, mà lực lượng của thân xác không thể so sánh được. Quý vị có nghe nói rằng theo tôi tu hành thì năm đời sẽ được siêu sanh. Đó là nhờ vào lực lượng tu hành này mà kéo tất cả những người đó đi lên. Cho nên lực lượng tu hành rất quý, bao nhiêu tiền cũng không mua được, quyền thế tới đâu cũng không lấy được.

    Đôi khi tôi đi giảng kinh ở một nơi nào đó cảm thấy rất thoải mái, ăn nói trôi chảy. Nhưng cũng có khi thấy nặng nề, mệt mỏi và không nói được. Lúc Tâm Ấn cũng vậy, có khi thì trôi chảy, không hề gì, có khi cảm thấy mình như sắp chết tới nơi. Đó là do bởi những chấn động lực khác nhau của những người tới nghe giảng kinh, hay tới Tâm Ấn. Những chấn động lực cá nhân này được gọi là nghiệp chướng. Những chấn động lực đó do đâu mà thành? Nó được tạo ra bởi luật nhân quả, liên quan đến nghiệp chướng mà chúng ta đã gây ra trong tiền kiếp.

    Chúng ta vốn là những Thánh nhân khai ngộ. Chúa Giê Su Kitô cũng nói rằng chúng ta đều là con của Thượng Đế. Thế thì tại sao có người giàu người nghèo? Có người rất thông minh, nhưng có người lại ngu đần? Có người lương thiện, nhưng cũng có người lại hết sức xấu xa. Điều thứ nhất, dù rằng chúng ta đều là Phật, nhưng khi đến thế giới Ta Bà, chúng ta đang hạ đẳng cấp và quên đi phần lớn trí huệ của mình. Điều thứ nhì là chúng ta chịu ảnh hưởng của những hoàn cảnh bên ngoài.

    Thế Giới Hữu Hình Và Vô Hình


    Thế giới này khác với thế giới trên kia. Thế giới trên kia giúp chúng ta tu hành tiến bộ, giúp chúng ta càng ngày càng thoải mái và càng trở nên cao quý. Nhưng hoàn cảnh ở thế giới này rất dễ khiến chúng ta thoái bộ, trở nên ngu đần và xấu xa. Ở thế giới Cực Lạc, muốn gì có nấy, không phải khổ sở, vất vả. Nhưng ở thế giới này, chúng ta phải phấn đấu với thiên nhiên mới có thể sinh tồn. Dù là Phật Thích Ca Mâu Ni cũng phải đi khất thực, hoặc dùng những vật dụng của thế giới này để sinh tồn, vì đây là thế giới hữu hình, hữu sắc, có sự phân chia. Có nóng, có lạnh, có đẹp, có xấu, có nam, có nữ, không giống như trên kia, không hình, không sắc, không có sự phân biệt gì hết.

    Cho nên khi đến đây chúng ta trở thành một chúng sanh hướng về bên ngoài, nhìn thấy thức ăn là có ý niệm muốn ăn, nhìn thấy vật gì là lòng nẩy sinh ý niệm thích hay không thích. Vì đầu óc chúng ta đầy dẫy những điều ta ưa thích, nên chúng ta đã quên mất đại trí huệ của mình. Dần dần chúng ta trở nên xa cách với lực lượng tối thượng của vũ trụ, và trở thành những chúng sanh cô đơn.

    Lẽ ra tất cả mọi thứ đều là của chúng ta, nhưng vì chúng ta đặt tâm mình vào một hay hai sự vật mà mình thích, vô tình chúng ta đóng khung mình vào một phạm vi nhỏ hẹp, khiến chúng ta từ một trạng thái không phân biệt trở thành có phân biệt (nơi Cực Lạc ai ai cũng thân màu hoàng kim, không có nam cũng không có nữ). Vì chúng ta dốc toàn lực lượng yêu một hay hai người, hoặc sự vật, khiến ta càng lúc càng cô đơn và bị tách rời khỏi lực lượng vũ trụ, trở thành lực lượng nhỏ bé chỉ mới dùng có một chút là đã hết ngay. Cũng giống như một người ở giữa sông Hằng, xung quanh toàn là nước và xài không hết. Giả thử người này bị lôi cuốn bởi một vật nào đó trên bờ, rời giòng sông theo đuổi vật kia. Khi quá ham thích, anh ta sẽ quên đường trở về chốn cũ? Rồi khi khát nước, anh có thể tìm nước ở gần bên, và dĩ nhiên là sẽ không đủ.

    Rốt cuộc, chúng ta càng lúc càng yếu đuối, càng ngày càng thiếu trí huệ. Trí huệ không đủ thì sẽ sinh ra tham lam. Sự bất an khiến chúng ta muốn nắm giữ thêm nhiều thứ, và từ đó tham, sân, si nổi dậy. Những ý niệm này sẽ tạo thành một từ trường bao quanh chúng ta. Vì hoàn cảnh của mỗi người khác nhau nên từ trường cũng khác. Vì đồng thanh tương ứng, đồng khi tương cầu, những người tham và nóng nảy tự nhiên sẽ thu hút những gì kích động đến với từ trường của mình. Tương tự, người nhu hòa sẽ thu hút những gì nhu hòa. Đây là nguyên nhân của cái gọi là nghiệp chướng.

    Chúng ta thấy có những người, bất luận làm điều gì cũng lung tung lộn xộn, vì từ trường của họ chuyên thu hút những lực lượng xấu, hoặc lực lượng của chướng ngại, lực lượng của ma, nên không thu hút được lực lượng của đại trí huệ. Có những người thiên về tính động vật rất mạnh, cũng là bởi từ trường của họ. Hay chúng ta có thể nói thói quen tích lũy đời đời kiếp kiếp của họ chưa sửa đổi được. Khi từ trường của chúng ta cải thiện thì có nghĩa là chúng ta bắt đầu đi lên. Bao lâu mới có thể sửa đổi tốt hơn còn tùy vào tâm đơn thuần của chúng ta. Trong kinh điển và kinh Đạo Đức có nói rằng: Phải tâm đơn thuần như trẻ thơ thì mới trở về Thiên Quốc được.

    Muốn sửa đổi từ trường hay tập quán của chúng ta không phải dễ, tuyệt đối không phải nhờ vào đếm hơi thở hay tập Yoga mà sửa đổi được. Vì sự phát triển những thói quen của chúng ta là do đầu óc, nên chúng ta phải thay đổi đầu óc, ngõ hầu cải sửa thói quen của mình. Những phương pháp quán đơn điền, quán xương, quán thủy hay quán hơi thở, đều không đủ, mà phải tu pháp môn Quán Âm mới là cứu cánh.
    ( Kỳ tới: PHẬT ÂM )


    http://www.SupremeMasterTV.com

    BE VEG GO GREEN SAVE OUR PLANET !!


    _____________
    Cứu người như cứu hoả
    Thương người như thương ta








Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •