Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 34

Ðề tài: Tìm hiểu về TĐGCL

  1. #1

    Mặc định Tìm hiểu về TĐGCL

    Hôm nay có được nhân duyên
    Nghe Thượng đế giảng về quyền Chí tôn
    Cho mọi giới được học khôn
    Học thanh,học trược,bảo tồn lý chơn
    Toàn năng lời lẽ thiệt hơn
    Giúp ta phá chấp,tìm đơn để về
    Khi đi vay mượn tứ bề
    Khi về học trả,không hề thở than
    Học thanh vất vả gian nan
    Học trược chẳng dễ,ta bàn chút chơi
    Tam giáo hãy đến để lời
    Hòa đồng qui nhất tìm nơi trở về
    Ai yêu thượng đế chớ chê
    Vào đây đàm đạo,giải mê hồng trần
    Không phân biệt giới phú bần
    Ai yêu thượng đế dừng chân nơi này
    Toàn tâm,toàn ý tỏ bày
    Cha chung nên tỏ điều hay cùng hành
    Pháp luân thường chuyển hành nhanh
    Vì trần nhiễm trược,điển thanh rất cần
    Quán tục nơi tạm dừng chân
    Khách trần chia sẻ tao tân giải sầu
    Last edited by tinhkhithan; 26-04-2011 at 06:55 AM.
    VÔ VI LÀ HỌC NƠI TẤT CẢ VÀ HÒA NƠI TẤT CẢ

  2. #2

    Mặc định

    [QUOTE=dienthoai;297195]Trích “Đàn Cơ Đặc Biệt”
    dành cho phái tu Vô Vi có KIM THÂN CHA Dự Chứng Đàn(1978)
    tại Khổng Thánh Miếu (Tân Dân Minh Đức Đàn) có sự hiện diện của Kim Thân Cha và ông Tám (Lương Sĩ Hằng).
    (Ghi chú: Ông Tám vừa đến trước Thiên Bàn, Đức Thổ Địa Nam Phương xuống điển qua xác đồng tử Chơn An tiếp nghinh.)

    Bạch Hoàng Phụ, Tam tòa thọ ký
    LƯƠNG SĨ HẰNG Ngài nghĩ đến đây
    Cám ơn chư vị con Thầy
    Nhận nhìn tôn giáo sum vầy một Cha
    Tình nghĩa này đại hòa, đại hỉ
    Thần Nam Phương suy nghĩ tận tường
    Ngọc kia muôn vạn tình thương
    Tam tòa chiếu lịnh, Địa thì lắng nghe
    Thuở sơ khai lập phe lập đảng
    Nay kỳ cùng có bảng Linh Tiêu
    Ngài ơi! Ngọc Đế chắt chiu
    Cộng Đồng thương mến rất nhiều các con

    Ngài :

    Là đại giác vẫn tròn chiếu chỉ
    Xá Lợi tha Ngài nghĩ đến Thầy
    Ngài thương nhân loại từ đây
    Ngọc Kinh Hoàng Phụ là thầy chúng ta
    Bên Âu thì Chúa Cha tá điển
    Cõi miền Nam lưu điển cứu dân
    Đại căn sum hiệp lần lần
    Tân Dân Minh Đức cõi trần hôm nay
    Phụng mạng Thầy để rày hiệp nhứt
    Cám ơn Ngài chịu cực đến đây
    Ấy là ta hạp lòng Trời
    Xin Ngài hỉ xả những lời Địa dưng
    Chư đệ ơi! Địa mừng hỉ hỉ
    Bấy lâu rồi Thầy chỉ, chẳng làm
    Hôm nay đại hội kỳ tam
    Chúng sanh đang lúc không kham phận mình
    Bởi vì cảnh điêu linh cõi thế
    Lòng chúng sanh gởi để nơi đâu
    Chỉ là quỳ bái khẩn cầu
    Trời Cha Hoàng Phụ lo âu nỗi lòng
    Đến hôm nay cộng đồng Tam giáo
    Hội các chi để thảo từ chương
    Tam tòa còn mến còn thương
    Khai cơ dìu dắt mọi đường hôm nay.

    Bạch Ngài, lời của Thần Thổ Địa Nam Phương
    trình qua nhờ Ngài phê phán.

    Ông Tám:
    Đường lối vạn mối quy nguyên đã quy định từ Đại Định Giới, chúng ta có cơ duyên sum họp trong chu trình tiến hóa phần Hồn mọi giới, xóa bỏ tất cả mọi sự trần tục do mình tạo, cương quyết tiến thẳng về Nguồn Cội.
    Đấng Tạo Hóa, Ngọc Đế, đã lo cho mọi người, vậy mà mọi người không lo tu để trở về với căn bản, lo về bản thể quá nhiều. Hôm nay chúng ta đến chứng kiến thanh điển ở cõi Hư Không hạ giáng và đó là chúng ta thấy cảnh đời của chúng ta không phải ở cõi tạm. Nhưng chúng ta đến đây, xây dựng tiến lên sự căn bản đời đời hào quang bất diệt. Đó là nơi tiến hóa của mọi người.
    Chúng ta có cơ duyên sum họp, được nghe những lời thanh điển của giới vô hình, người đời nói tạm, nhưng trong cái không có cái có, luôn luôn an bài và dắt phần Hồn tiến hóa.
    Chúng ta có cơ hội tụ họp để hiểu và để xóa bỏ tất cả những cái gì cho là dị biệt, đạo này, đạo kia, đạo nọ. Đạo nào cũng trở về, quy nguyên tôn giáo do sự dày công của mình.
    Hãy cố gắng, bề trên dẫn chúng ta đi rất nhanh, bao nhiêu thế kỷ. Ngày hôm nay, là ngày quý báu nhứt để mỗi người có ý thức, chứng kiến được sự việc ở bề trên, không có sự phân biệt. Tất cả đạo giáo ở thế gian đều quy nguyên về Cội Nguồn...

    Đức Nam Phương: Cảm tạ Đại Đức. Xin lỗi Ngài, sơ giao ngộ Ngài đây, tôi là Trần Thế Độ
    Thổ Địa Nam Phương đây, phụng mạng Ngọc Đế dạy đàn em nhỏ, từ thanh mi đến bạch phát, mượn làn Thiên điển giáo hóa đàn em, sơ ngộ
    Ngài.

    MỪNG nguyên nhân dày công tu đức
    SĨ phu hòa chịu cực độ đời
    HẰNG đêm Ngài mảng vui chơi
    Về nơi non ngoại kịp thời lãnh ân
    Đấng Huyền Khung bao lần dạy dỗ
    Thương lòng Ngài đến chỗ ưu tiên
    Từ nay, Ngài lãnh mối giềng
    Dắt đàn con dại, điện tiền nhập cung
    Mối đạo trời trung dung tâm Việt
    Thần Nam Phương phải biết đắn đo
    Hạ Ngươn cố gắng chèo đò
    Chung tay hiệp bạn lần dò mà sang
    Sang sông Vị, an nhàn cực lạc
    Tấm lòng thành cỡi hạc quy đề
    Ngài ôi! Ở cõi trần mê
    Liu chiu, lít chít bộn bề thảm thương
    Ngộ tri kỷ tận tường hiệp nhứt
    Tôi cùng Ngài chịu cực vị tha
    Để quy vưng lịnh Tam tòa
    Không chia, chẳng rẽ ấy là hiền nhân
    − Bạch với Ngài,
    Địa rất mừng thấy Ngài dời gót ngọc đến đây, xả kỷ lợi tha, chung hòa với nhân sĩ.
    Mấy chục niên rồi, Đức Ngọc Đế khai đạo, các chi, các phái chia rẽ đạo này đạo nọ. Hôm nay:

    Phận em út cam đành nhẫn nhục
    Tưởng lại rằng thủ túc thành nguyên
    Xác thân ta phải nối liền
    Cậy trang hiền triết dính liền cùng nhau
    Cảm ơn Ngài đã trao lời ngọc
    Kể từ đây gấm vóc điểm tô
    Ngài ơi! Trong cõi hư vô
    Vị ngôi ngăn nắp đồ tô sẵn dành
    Chờ sĩ tử tâm thanh hồi khứ
    Rồi Ngọc Hoàng ân tứ thưởng ban
    Cám ơn quý vị đạo tràng
    Vô Vi hành pháp vẹn toàn. Địa lui.

    (Ghi chú: 15 phút sau Đức Kim Thân Cha tới)

    Đức Thổ Địa Nam Phương xuống điển nghinh tiếp Đức Kim Thân Ngọc Đế.
    􀂓 Cung nghinh Thượng Đế
    Thần thổ Địa Nam Phương cung nghinh
    Đẳng đẳng nam nữ
    Chúa trời giáng thế
    Cứu độ quần sanh
    Chư đệ thiện thành
    Cung nghinh trọn lễ

    Kim Thân Cha phán:
    Cha giả ơn cho tất cả các con! Hôm nay Cha đến đây để chứng đàn, và đây là một đàn cơ mà Cha đặc biệt hồng ân dành cho phái Vô Vi Huyền Bí Học. Từ trước tới nay, nó chưa hiểu Cha về cơ bút. Đây là một dịp cho nó biết them để rồi nó thấy “Vạn Pháp cũng quy nhứt” mà thôi. Thôi bây giờ các con lo sửa soạn hầu đàn.
    Thổ Địa Nam Phương xin kính chào và có bổn phận tiếp nghinh Ngọc Đế.
    HUỲNH đình tụng niệm phải tiêu tai
    QUANG sáng huyền châu độ sĩ tài
    BỒ niệm chơn tâm nghinh tiếp lịnh
    TÁT lai tác phúc ấy tài trai

    􀂓 Huỳnh Quang Bồ Tát lai lâm, chào mừng Kim Thân Ngọc Đế, và chào mừng tất cả các sĩ tài Đại Đức nguyên căn. Nam nữ nghiêm trang, tề chỉnh nghinh tiếp Đức Bạch Hạc giá ngự giờ này. Bồ Tát xin nhường, kiếu lui.

    BẠCH trầm hương tỏa trước đền
    HẠC chầu phụng múa chuyển rền Bạch Cung
    ĐỒNG tâm huynh đệ tương phùng
    TỬ thừa Thiên mạng chung cùng thế thiên
    Kìa xem long giá gần miền
    Tân Dân Minh Đức, chư hiền tiếp nghinh

    CAO minh PHƯỚC cả NGỌC nào mờ
    ĐÀI rộng ĐỨC lành HOÀNG chuyển cơ
    GIÁO hóa TIÊN chờ THƯỢNG trí thức
    CHỦ tiên ÔNG độ ĐẾ huyền thơ
    CHÚA cha, HUYỀN mặc minh, minh đức
    TRỜI mở KHUNG vàng trẻ nối tơ
    CỨU cánh THƯỢNG tri con có hiểu
    THẾ trần ĐẾ khuyến, dạ trông chờ

    􀂓 Thầy lai lâm chào mừng Kim Thân của ta đây.
    Chào các con nam nữ Vô Vi Đại Pháp, chào nam nữ Hiệp Thiên nguyên căn.
    Này các con ơi! Ngày Thầy khai đạo, tá danh Cao Đài Tiên Ông và danh từ mỗi nơi, hôm nay Thầy xưng danh ra đây để các các con biết rằng, Thầy, Chúa Cha công trình cực nhọc dung huyền diệu cơ bút và tá điển Kim Thân, để dìu dắt các con từ thành thị đến thôn quê và hang cùng ngõ hẻm. Vậy các con nên nhớ rằng, mấy chục niên nay rồi, đâu còn chần chờ nữa được. Các con phải tu tâm sửa tánh, quy nhứt tương đồng. Các con nhìn nhận rằng Đạo nào cũng của Thầy ban ra, cho các con tu hành sửa tánh. Các con nghĩ coi, ngoài chợ đời bán buôn nhiều thứ vật dụng cần dùng. Còn đối với Thầy đây, thì muốn cho các con tu để hồi nguyên trở lại, nên Thầy dùng mọi cách để khuyến độ mấy ức linh căn.
    Các con ơi! Nếu nhân loại như các con hôm nay, dầu các con chưa được toàn thiện toàn mỹ, nhưng các con biết Cội Nguồn để trở về “quy nhứt bổn tán vạn thù”. Thầy rất vui mừng, hôm nay nhờ Kim Thân của Thầy, nên các con mới tới đây hội ngộ. Một lần nữa, Thầy ban ơn lành cho các con. Điển ký con! Bình chữ một bài bát cú, Thầy xưng danh, để Thầy cho bài.

    (Ghi chú: Điển ký đọc bài thi xưng danh của Thầy, Thầy lấy mỗi chữ làm đầu của bài thi sau đây. Khoán thủ sẽ ráp lại thành bài thi xưng danh. )

    CAO Đài liên điện tiền Thầy ngự
    MINH chơn tâm ân tứ con hiền
    PHƯỚC lành sẽ được hồi nguyên
    CẢ kêu tôn giáo nối liền cùng nhau
    NGỌC bạch Kinh Thầy mau trở gót
    NÀO có dè còn sót rất nhiều
    MỜ lu phải chịu đìu hiu
    ĐÀI mây con hỡi, Thầy dìu bước sang
    RỘNG cửa Thiền vai mang áo bã
    ĐỨC càng dày Thầy trả phước lành
    LÀNH thay dìu dắt nguyên sanh
    HOÀNG gia ân tứ cam đành lo tu
    CHUYỂN huyền cơ để ru con dại
    CƠ thiên minh ân tải nguyên vì
    GIÁO dân chi đức tiên tri
    HÓA hoằng đại đạo con thì lo tu
    TIÊN còn chờ bao thu cực nhọc
    CHỜ con đây cố học đạo Trời
    THƯỢNG tri con hỡi dưng lời
    TRÍ tri con gắng tu thời nhập cung
    THỨC tỉnh lòng chung cùng khách tục
    CHỦ Nhân Ông đến lúc độ đời
    TIÊN chờ cựu vị con ơi
    ÔNG đây vẫn độ con thời hiểu chưa
    ĐỘ con hiền muối dưa đăng đẳng
    ĐẾ khuyết dìu dặm thẳng non bồng
    HUYỀN cơ con lập kỳ công
    THƠ ngâm khúc vịnh toại lòng nhân sanh
    CHÚA Trời Cha ân lành tế thế
    CHA dìu con còn để vị ngôi
    HUYỀN cơ con trẻ tịnh ngồi
    MẶC dù cõi tục chưa rồi người tu
    MINH chơn tâm thiên thu bất diệt
    MINH chơn hòa con biết chăng à!
    ĐỨC lành ban rải truyền xa
    TRỜI Cha cứu thế ái hà vớt con
    MỞ Long Vân cho tròn từ ái
    KHUNG thước vàng con phải đo đều
    VÀNG thau lẫn lộn không kêu
    TRẺ thơ ghi nhớ những điều Cha khuyên
    NỐI dây liền, điển Thiên tiếp xuống
    TƠ tầm mang, dù muốn dù không
    CỨU con thoát khỏi trần hồng
    CÁNH chim bằng nọ con hằng ngóng xa
    THƯỢNG trí tri ái hà quyết độ
    TRI nguyên căn đến chỗ đại thừa
    CON ơi! Hai buổi muối dưa
    CÓ Thầy dìu dắt để đưa ngôi vàng
    HIỂU chăng con? Khoa tràng đã mở
    THẾ trần này còn ở mà chi
    TRẦN ai khổ cực đó thì
    ĐẾ mầu Thầy dạy cung nghi khứ hồi
    KHUYẾN con thơ tô bồi thượng đẳng
    DẠ kẻ khờ lẳng lặng đứng nghe
    TRÔNG con Thầy kết thuyền bè
    CHỜ cho nguyên vị xuống ghe Thầy chèo
    Chèo qua bến giác rước con về
    Ở cõi trần đời lắm tái tê
    Con hỡi đại căn quy nhứt bổn
    Dìu nhau đến chốn dặm cương đề
    Thầy ban ân lành cho mỗi con.

    􀁗 THI 􀁘

    Kim Thân cứu thế ân còn dài
    Nghĩa nặng sánh bằng hiệp thới lai
    Non ngoại xây tròn lên thượng đẳng
    Vớt người bể tục mới kỳ tài
    Mới kỳ tài hoằng khai đại đạo
    Chuyển huyền cơ quát tháo độ đời
    Mạnh tay chèo, cố gắng mà bơi
    Sang Bến Giác kịp thời quy vị
    Vị mùi chẳng tục đó con ơi!
    Thầy mở trường Tiên chờ trẻ bồi
    Tân sĩ nhập trường quy chánh đạo
    Thi tài lập đức mới cao ngôi
    Mới cao ngôi trả rồi nợ thế
    Thầy thương con biết để nơi nào
    Thương con hiền, Thầy mãi quặn đau
    Thương nhân loại Thầy dồi dào Thiên điển
    Điển quang Thầy viếng các con hiền
    Cõi tục khổ sầu mãi nhuộm riêng
    Tâm tịnh khứ hồi nơi Bạch Ngọc
    Ở chi trần thế phải đau phiền
    Đau phiền con dại, hiểu chăng à?
    Tu học như là kết gấm hoa
    Chớ có dần dà rồi phải trễ
    Sớm kinh chiều kệ đáo ta bà
    Ta bà con ngự
    Ân tứ Linh Tiêu
    Dành để nhiễu điều
    Cho con hồi khứ
    Thầy mà ướm thử
    Nam nữ con thơ
    Thương trẻ đợi chờ
    Bao giờ mới đáo?

    Thầy hỏi, bạch tấu cho Thầy nghe nào?
    Kim Thân Cha phán: LƯƠNG SĨ HẰNG, con đại diện bạch tấu!
    Ông Tám bạch: Đường lối BI, TRÍ, DŨNG Thầy đã dạy, thì gắn liền với tâm tư mà thực hành.
    Mỗi mỗi chúng ta, ai ở thế gian này cũng mong có ngày được trở về Nguồn Cội, hội ngộ với Thầy. Đó là con đường cứu cánh. Nhưng mà tâm tư mỗi người phải cố gắng lên mới được.
    Hôm nay, chúng ta có duyên lành được Thầy giảng dạy từ ly từ tí. Mỗi tâm hồn đều tự thức giác và trong sự sai lầm của mỗi người phải tự cố gắng sửa để đạt đến mục đích. Vô Vi cứu giải lên trên cho thấy có ngày hội ngộ.
    Hôm nay, chúng ta được nhiều hồng ân rất quý báu của Thầy đã giảng dạy. Tâm tư của mỗi người đều ở trong duyên lành cởi mở tùy theo trình độ tiến hóa của từng con người. Trong khối Vô Vi của chúng ta, mỗi người phải cố gắng thực hành đạt đến phần thanh điển. Hôm nay, có cơ duyên tiến hóa lên một lớp nữa cho tất cả mọi người. Hãy cố gắng hướng về những âm thinh giảng dạy của Cha lành. Cố gắng tu để
    thâu đoạt phần Hồn.
    Kính bái.

    Này các con.

    Nghe qua lời ngọc phân bày
    Sĩ Hằng con hỡi, râu mày triết nhân
    Thầy giao con độ cõi trần
    Đệ huynh tương ái mười phân vẹn mười
    Con ơi! Vườn thượng hoa tươi
    Ta tìm giống tốt cho người ngắm xem
    Lại thêm bình ngọc con đem
    Chưng vào tiếp khách để xem hoa vàng
    Thầy đây là đấng Phụ Hoàng
    Thương con trần thế lại càng thiết tha
    Nghĩ vậy cho nên:
    Lê thân già la cà cõi tục
    Gậy đầu rồng đến lúc độ đời
    Thầy thương nhân loại trần vơi
    Nhiễm trần phải chịu tả tơi thế này!
    Ai có hiểu lòng Thầy đâu tá
    Chỉ có các con kha khá mới hay!

    Rằng các con nào được Thiên điển của Thầy, mới hiểu được lòng Thầy thôi, phải chăng LƯƠNG SĨ HẰNG con?

    Tình Cha như thể non Đoài
    Nghĩa Mẹ sánh tợ biển rày bao la
    Nhắc đến con Thầy mà đổ lệ
    Mãn ngày đêm khóc kể từng hồi
    Mong con trở lại vị ngôi
    Nghĩ tình cốt nhục chưa rồi phận Cha
    Huyết nhục này ai mà chia xẻ
    Chỉ có con những kẻ bất lương
    Con ngoan hiếu tử mọi đường
    Mới hòa trọn vẹn tình thương Cha lành
    Giữa Đài liên tâm thành Thầy chứng
    Các con ơi! Ẩn nhẫn từ từ
    Thầy đây quyền quản cung Hư
    Chế châm con trẻ, lòng từ Ngọc kinh
    Con nào tu, tốt xinh trở lại
    Con không tu còn phải đọa phàm
    Hôm nay Thầy mở kỳ tam
    Cậy bao Tiên Phật để làm Long Vân
    Chiêng đã đổ bao lần vang dội
    Trên Ngọc kinh thúc hối con về
    Ở chi nơi cõi trần mê
    Mà con đắm lụy tứ bề lao lung
    Phận nhân đạo trung dung duy nhất
    Thì các con tạo đức cho thành
    Mặc dù nơi cõi Tam thanh
    Thầy đều ghi sổ sẵn dành chờ con!


    Giã từ nam nữ mỗi con
    Ngòi son Thầy viết vẫn còn tuổi tên
    Thương con Thầy nhớ nào quên
    Dầu cho vạn dặm không quên con hiền
    􀁗 􀂓 􀁘
    Thần Thổ Địa Nam Phương xin lễ bái, chư hiền đồ nghinh tiếp Tam Giáo Tòa lãnh mạng Ngọc Đế phân minh sự hiện diện của Ngọc Đế tại trần gian.

    THÔNG minh NGƯƠN vị THÁI huyền quang
    THIÊN lịnh THỈ triều THƯỢNG đạo tràng
    GIÁO hóa THIÊN nhân ĐẠO đức lý
    CHỦ ông TÔN lịnh TỔ truyền sang.

    Tam Giáo Tòa lai lâm phụng mạng Ngọc Đế, có đôi lời chào mừng đại nguyên căn hữu vị, chào mừng Kim Thân Chúa Trời.
    Lành thay, Tam Giáo Tòa mong đợi có ngày này để thấy rằng các tôn giáo bạn, nhân loại biết hướng về Ngọc Đế.

    Tam Giáo Tòa hỉ lạc thay, Tam Giáo Tòa ban ân, mời những vị Đại Pháp Vô Vi ngước nhìn xem Thiên Điển.
    Lương Nhân, hiền!

    LƯƠNG nhân mặc khách hiệp hòa chung
    SĨ tử đại nguyên quyết chí cùng
    HẰNG buổi khai tràng quy sĩ tử
    Phụng thừa Thiên mạng lịnh Thiên cung

    Kim Thân Đức Chúa Trời, Tam Giáo Tòa tôi xin với Ngài rằng:

    Ở trần thế trược nhơ cặn bã
    Bạch cùng Ngài cao cả yên thân
    Sao Ngài cứ mãi xuống trần
    Chúng sanh phỉ báng nhiều lần buồn hiu
    Ngài cứ ngự Linh Tiêu tọa vị
    Xuống trần chi nó chẳng nghĩ đến Ngài
    Tưởng rằng mở Đạo kỳ khai
    Kiếm vàng kiếm bạc để rày độ thân
    Nào ai hiểu bao lần Ngọc Đế
    Thương chúng sanh như thể thương mình
    Thấy trần chịu cảnh điêu linh
    Nên Ngài chẳng nỡ Thiên Đình ngồi an
    Mãi xuống trần thế gian sỉ nhục
    Thần đau buồn lắm lúc bắt sầu
    Nguyện xin nơi cõi Long Lâu
    Bạch cùng Hoàng Phụ những câu kính nhường
    Ngài xuống thế, trần vương nhiều tội
    Nó không tường nhìn lỗi của mình
    Bạch qua Ngài gọi chớ khinh
    Hôm nay sáng mắt Ngọc Kinh đó Ngài

    Cảm ơn Dienthoai đã sưu tầm cho mọi người cùng tham khảo
    VÔ VI LÀ HỌC NƠI TẤT CẢ VÀ HÒA NƠI TẤT CẢ

  3. #3

    Mặc định

    Dt xin mạn phép trích đăng trọn quyển TĐGCL nơi đây để đáp lại thiện ý của Tinhkhithan mở dành riêng cho topic này, xin cám ơn Tinhkhithan một lần nữa.
    Xin mọi người tham khảo trên tinh thần khách quan học hỏi, như nội quy của diễn đàn TGVH đã nói.
    Kính báo,


    NAM MÔ NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VÔ CỰC ĐẠI CHÍ TÔN
    OCTOBER - 2006
    VIỆT NAM - VO-VI MULTIMEDIA COMMUNICATION
    THƯỢNG ĐẾ GIẢNG CHÂN LÝ

    MỤC LỤC
    Thay Lời Tựa .................................................. .........................................1
    63 Câu Vấn Đáp Giải Thích Chơn Lý............................................... ......11
    Huấn Từ của KIM THÂN CHA về “Tình Yêu Của Cha” Sau Buổi Hội Ngộ Đầu Tiên Với Thầy LƯƠNG SĨ HẰNG Xuân Đinh Tỵ (3/1977)............213
    Trích Buổi Đàn Cơ 26/6 Mậu Ngọ (1978) có KIM THÂN CHA Chứng Đàn Lần Đầu Tiên tại Khổng Thánh Miếu……………………………… 223
    Trích “Đàn Cơ Đặc Biệt” Dành Cho Phái Tu VÔ VI có KIM THÂN CHA Dự Chứng Đàn (1978) .................................................. ......................241
    Huấn Từ của KIM THÂN CHA Khi Tiếp Bạn Đạo Cần Thơ và Trà Vinh (1978) ………………………………………… …………......................263
    Huấn Từ của KIM THÂN CHA Dịp Bạn Đạo Cần Thơ và Trà Vinh Chào Từ Biệt (1978)............................................ ..........................................267
    Huấn Từ của KIM THÂN CHA tại Tư Thất Bà T.T.N (1978) ..............273
    KIM THÂN CHA Giảng về chữ “LỄ” (1978)…………...........................279
    KIM THÂN CHA Giảngvề Cách Phục Sức của Người Tu (1978) .......283
    Buổi Hội Ngộ tại TÂN DÂN ĐÀN Qua Điển Quang Giáng Xuống của
    KIM THÂN NGỌC ĐẾ và QUÁN ÂM NAM HẢI (1978)……….............285
    Huấn Từ của KIM THÂN CHA Dịp Mồng 1 Tết Xuân Kỷ Mùi tại Tân Dân Đàn (1979)…………………………………… …………………….........293
    Huấn Từ Của KIM THÂN CHA Nhân Tân Dân Đàn làm Lễ Tiễn Đi Quy Ẩn 23/2/1979 (27/1 Âm Lịch) ……............................................ ...........307
    Huấn Từ Của KIM THÂN CHA Nhân Phái Tu VÔ VI Làm Lễ Tiễn Đi Quy Ẩn 25/2/1979 (29/1 Âm Lịch) ……............................................ ...........317
    Huấn Từ Của KIM THÂN CHA Nhân Một Số Bạn Tu Bất Ngờ Diện Kiến
    Dịp Tết Canh Thân (1980)............................................ .......................343
    KIM THÂN CHA Đáp Lời “Sớ Xuân Dâng Cha” và Bài Thơ Hỏi “Bao Giờ Xuân Được An?” của Nhóm Thiên Khai Huỳnh Đạo Dịp Mồng 1 Tết Tân Dậu (1981) ………………………………………… ……………….......347
    Huấn Từ của KIM THÂN CHA Dịp Mồng 2 Tết Tân Dậu tại Thiền Đường (1981) .................................................. ...............................................351
    KIM THÂN CHA Giảng về “Trần Gian Được Ơn Cứu Rỗi của Thượng Đế” (1981) .................................................. ............................................353
    Huấn Từ Gửi các Bạn Tu ở Hải Ngoại (1981)....................................355
    Huấn Từ của KIM THÂN CHA Dịp Giáng Sinh Tân Dậu (12/1981)....357
    Huấn Từ của KIM THÂN CHA Dịp Tết Nhâm Tuất (1982) cho một nhóm Thiên Khai Huỳnh Đạo............................................ ...............................359
    Huấn Từ của KIM THÂN CHA Dịp Tết Nhâm Tuất (1982) tại Thiền Đường .................................................. ..............................................367
    Huấn Từ của KIM THÂN CHA cho một nhóm Thiên Khai Huỳnh Đạo Dịp
    Đệ Tam Chu Niên Ngày Quy Ẩn 7/3/1982 (12/2 Âm Lịch)………..............371
    Trích Nguyên Văn Vấn Thư Nêu Thắc Mắc của Một Số Tín Đồ Cao Đài .................................................. ..............................................401
    KIM THÂN CHA Giải Đáp Vấn Thư Nêu Thắc Mắc của Một Số Tín Đồ Cao Đài (1982)............................................ ...........................................403
    KIM THÂN CHA Giải Đáp Vấn Thư (23/9/1982) của Bạn N.P.Y. (Hoa Kỳ) Nêu Thắc Mắc: Việc Dựng VOVILAND Hải Ngoại Phải Chăng Là Lập Mô Hình Đơn Vị Kiễu Mẫu của Nền Văn Minh Di Lạc? .................................…………….. .437
    KIM THÂN CHA Giảng “Phá Mê Về Địa Tiên” (1982) ...........................443
    KIM THÂN CHA Giảng về “Mê Chấp và Phá Mê Phá Chấp” (1982)..........449
    Huấn Từ của KIM THÂN CHA Dịp Tết Quý Hợi tại Thiền Đường (1983)…………………………………… ………………………...................... .............………467
    KIM THÂN CHA Giải Thắc Mắc của Một Số Tín Đồ Thiên Chúa Giáo (1983).........................……………… ………………………………………… ………...473
    KIM THÂN CHA Giảng về “Giả, Chơn, Hư, Thực” (1983)......................539
    Huấn Từ của KIM THÂN CHA Dịp Đầu xuân Giáp Tý (1984)..................551
    Huấn Từ Nhắn Nhủ Bạn Tu VÔ VI (1991).........................................561
    Vài Lời Nhắn Nhủ 2005.............................................. ...................577
    Tư Liệu Ghi Từ Thiền Đường H.V.E ................................................57 9

    *
    **
    ***

  4. #4

    Mặc định

    THAY LỜI TỰA 1
    Nguyên văn vấn thư nêu thắc mắc về việc hình thành quyển bửu kinh “Thượng Đế Giảng Chơn Lý” và giáo huấn đáp lời của Kim Thân Cha.
    Cali…1985

    Kính thưa Cha
    Trước tiên con kính xin đảnh lễ Cha và kính chúc Cha những điều tốt lành nhất cho năm mới vừa đến. Bao năm qua, lạc lõng nơi xứ người, lòng con luôn nhớ quê hương vẫn còn chìm đắm trong tối tăm đau khổ. Thưa Cha, ngoài giờ làm việc, lúc rảnh rỗi con vẫn thích nghiên cứu về triết học, khoa học, giáo lý các tôn giáo. Thú thật, tuy con không chống đối bất cứ tôn giáo nào, nhưng vẫn nhận thấy trong tôn giáo đầy dẫy điều mê tín, nhất là những tôn giáo buộc người ta phải tin nhiều điều mà khoa học ngày nay không chấp nhận được. Cả khoa học cũng còn nhiều điều lầm lạc, vẫn còn đang tìm dò sự thật như người mù đi trong đêm tối. Trong nỗi thất vọng thường trực với bao điều kiếm tìm không thỏa mãn trong cuộc sống, bỗng nhiên hội ngộ một duyên may chưa từng có: Tình cờ con được đọc quyển “Thượng Đế Giảng Chơn Lý”. Thật không lời nào diễn tả được cảm xúc dâng trào! ... Tâm hồn con bừng sáng lâng lâng như được tưới cam lồ…Thực ra, cảm giác nầy không phải riêng con. Nhiều người mà con quen biết, sau khi đọc quyển kinh đều có cảm xúc như vậy. Con còn được biết, một triết gia nổi tiếng trong cộng đồng người Việt mà nhiều tác phẩm triết học của ông con rất ngưỡng mộ (Linh mục giáo sư K.Đ.), nghe nói rằng, sau khi nghiền ngẫm thâm sâu quyển bửu kinh nầy, ông đã không tiếc lời khen ngợi và không ngần ngại tôn vinh Kim Thân Cha như một vị hiền triết thượng thặng tầm cỡ thế giới. Kính thưa Cha, giá trị vĩ đại của quyển bửu kinh khiến lòng con bồi hồi xúc động, lòng khao khát muốn biết thêm chi tiết xung quanh quyển chơn kinh nhưng chẳng có tư liệu gì rõ rệt ngoài mấy chữ “những góp nhặt rải rác ở những buổi thuyết giảng trong hai năm”… ở phần lời tựa của quyển kinh. Vậy kính xin Cha, nếu có thể, ban ơn giảng dạy chi tiết hơn về việc hình thành quyển bửu kinh mà giá trị minh triết còn cho muôn đời sau. Trân trọng kính bái
    T.M.

    ĐÁP: À, các con muốn biết chi tiết hơn về việc hình thành quyển kinh. Thật sự, tài liệu trong quyển kinh nầy là những góp nhặt rải rác Kim Thân Cha qua những băng từ hiếm hoi, ghi lại được một số buổi thuyết giảng mà chắc chắn việc thu băng vào thời điểm đó không thể tổ chức chu đáo được.
    Vào đầu năm 1977, Cha xuất hiện trong phái Vô Vi trong thế ẩn dạng, chỉ Lương Sĩ Hằng và đôi khi, một số ít người có căn duyên được gặp và nghe Cha thuyết giảng. Thật đáng tiếc, rất nhiều siêu lý trong giai đoạn nầy được diễn giảng không có thu băng.
    Sang năm 1978, Cha chuyển đến Tân Dân Đàn làm việc với phái Minh Đức Nho Giáo. Nhờ vậy các con có tư liệu một số buổi đàn cơ có Kim Thân Cha dự chứng đàn.
    Đầu năm 1979, Cha quyết định đi quy ẩn. Được tin nầy, các con phái Minh Đức Nho Giáo, các con phái Vô Vi làm lễ tiễn Cha đi, rồi thì đạo tâm các tỉnh các nơi hay tin kéo đến Tân Dân Đàn viếng Cha rất đông. Trước tình huống đặc biệt nầy, Cha cũng mở cửa hội ngộ cùng con cái trước lúc lên đường, cho nên mỗi ngày, hằng vài trăm con gồm nhiều màu sắc, nào phái Nho Giáo, phái Vô Vi, nào Phật Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Thiên Khai Huỳnh Đạo vv…..Tự sắp xếp theo từng nhóm, nối đuôi nhau từ 8g sáng đến 9g tối để viếng thăm tiễn biệt, nhân tiện nêu mọi thắc mắc về chơn lý xin Cha giảng giải.
    Sự kiện đặc biệt nầy kéo dài từ ngoài tết cho đến đầu tháng hai âm lịch năm Kỷ Mùi 1979 là lúc Cha rời Tân Dân Đàn Khổng Thánh Miếu. Khoảng Thượng Đế Giảng Chơn Lý trung tuần tháng hai âm lịch, một nhóm đạo hữu thuộc phái Thiên Khai Huỳnh Đạo, Long Hoa Hải Hội Đàn, được thiên ý chuyển đại duyên lo công quả rước Cha ẩn cư. Thế rồi, thời gian ngắn sau đó, Cha có nhận từ Thiền Đường Hồ Văn Em xin Cha duyệt 1 tập tư liệu chép lại từ băng ghi âm những câu vấn đạo và những lời giải đáp chơn lý của Cha. Quả thật, khi xem qua, Cha thấy quá nhiều thiếu sót so với những gì Cha giảng dạy trước đó, có thể vì tình hình cấp bách không tiện tổ chức chu đáo việc thu băng, hoặc băng từ bị phân tán thất lạc nhiều nơi không rõ. Tình thế nầy, thôi thì, để có kinh văn giảng giải chơn lý, Cha đã duyệt lại toàn bộ tư liệu, bổ túc thêm, sắp xếp những lời rao giảng cho mạch lạc, sáng sủa, cấu thành 63 câu vấn đáp để các con dễ tham khảo tu học. Sau đó, Hoàng Bình thuộc nhóm Thiên Khai Huỳnh Đạo xin được công quả đánh máy, và rồi, khoảng trung tuần tháng 4 âm lịch tức tháng 5 dương lịch năm 1979, quyển kinh văn “Thượng Đế Giảng Chơn Lý” với 63 câu vấn đáp, phục vụ con người tu học tiến hóa đã ra đời.
    Tiếp đến, thiền đường Hồ Văn Em được nhận quyển kinh để in ra phổ biến. Mới vừa qua, Cha có nhận quyển kinh ấn hành ở hải ngoại. Ấn bản nầy có thêm phần phụ lục đăng bổ sung những bài giảng từ năm 1977 đến 1984, trong đó có bài giảng cho tín đồ Cao Đài, tín đồ Thiên Chúa Giáo, những bài nói chuyện với một nhóm nhỏ đạo hữu thuộc phái Thiên Khai Huỳnh Đạo nơi Cha ẩn ngự.
    Nhóm nầy thuộc Long Hoa Hải Hội Đàn nhưng vì không tiện duyên nên Cha không trực tiếp làm việc với toàn nhóm, cũng không đến trụ sở hành lễ tham dự chứng đàn, vậy để giải thích thắc mắc tại sao không có băng từ hay tài liệu dự chứng đàn ở Long Hoa Hải Hội, không có băng từ hay tài liệu sinh hoạt với hội thánh tuyển do Đàn Long Hoa Hải Hội sắc phong, và hội thánh tuyển nầy cùng với đàn cơ Long Hoa Hải Hội đã được cha khuyên cũng như chuyển ý lực cho giải tán vào năm 1983 khi nội tình cơ bút có những dấu hiệu tiêu cực, huyễn hoặc xuất hiện, và có phảng phất ý đồ phàm tâm đồng tử kéo về chuyện động loạn thời cuộc hơn phần minh triết tu học.
    Giờ đây, nhìn lại chặng đường đã qua, từ 1976 đến năm nay tức 1985, thật biết bao chông gai, biết bao gian khổ mà Cha và chúng con cùng lướt dặm! Phải thấy rằng, giữa bao nguy nan chết chóc, bao khốn khó dập dồn, tình yêu thương linh diệu bao la của Cha Trời vẫn cố xuyên qua tầng khí địa ngục trần gian âm u, dày đặc nghiệp quả dục vọng sát phạt, để can thiệp cứu khổ con người.
    Dẫu biết rằng con cái nhớ mong khao khát, chỉ hiếm hoi được hội ngộ phần hữu thể của Cha vào những dịp lễ Tết mấy năm qua, và rồi, dù trong cơ quy ẩn với vô vàn thử thách khổ hành, chịu đựng gánh vác những đòn khốc liệt của kỳ ba nơi Phật địa, thật lành thay, nguồn tuệ giác của càn khôn vũ trụ cùng với Kim Thân Cha vẫn cố gắng rải pháp khai minh chơn lý siêu diệu mà quyển kinh nầy đã quá đủ cho phần lương thực thiêng liêng, cho hành trang tu tập của bao kiếp làm người!... Lành thay! Không được diện kiến Kim Thân Cha mà các con vẫn hưởng được nguồn minh triết của đất trời âm thầm nhắc nhở, dìu dắt, dẫn tiến tâm linh trong cơ loạn thế!
    Âu đấy cũng là một phong cách làm việc đầy hảo ý của Kim Thân Cha, phong cách nầy tích cực, vừa hiệu quả minh triết, vừa tránh cảnh con người chạy theo hình tướng, chạy theo thanh quang điển lành với tinh thần cuồng tôn mê tín, vọng cầu ỷ lại để rồi đi lạc nẻo.
    Sắp tới đây sẽ biến động dập dồn, khổ nạn vì thiên tai địa ách do môi sinh bị hủy phá, khổ nạn vì đạo đức suy đồi, vì con người dùng đủ thứ chiêu bài để sát phạt và tàn hại lẫn nhau trên toàn thế giới, nhất là nơi Phật địa. Đạo đời đều phải trải qua những đòn khảo thí buổi hạ ngươn mạt kiếp theo nghiệp lực nhân quả, để con người được học hỏi và sàng lọc trình độ tiến hóa. Sẽ có nhiều chuyển biến đặc biệt dị thường: Thiên cơ vào giờ chót đột biến cải sửa thay đổi rất nhiều theo sự chuyển biến của dịch lý, sẽ có ngày giờ triển hạn cho các con dọn mình như Cha đã dự báo trong bài nói chuyện với một nhóm Thiên Khai Huỳnh Đạo dịp đầu xuân Nhâm Tuất 1982).
    Dù bao biến động loạn thế, nhưng trời đất vẫn âm thầm tạo điều kiện cho chúng con tu học, triển hạn ngày giờ để các con dọn mình tu học cho kịp sang thánh đức. Vậy chúng con hãy tận dụng cơ hội, tích cực tu sửa thân tâm, nhất là những con tu thiền, càng phải nhớ luôn quay vào trong kiểm soát mình, dụng pháp trụ điển để tránh đảo điên thế sự, tránh loạn tâm vì những trò tung tin xuyên tạc, vì những nọc độc gieo rắc hoang mang, gây phân biệt, chia rẽ, ghen tỵ, đố kỵ, tỵ hiềm, chấp ta ngã mạn, chia phe lập nhóm, đấu đá lẫn nhau, khiến các con vấp ngã trở ngại con đường về và gây trở ngại cơ “Hòa Quy” của thiên địa! Bủa vây bởi bao biến động, kẻ hiểu biết lo trụ tâm định tánh, quán chiếu mọi điều…thì ra, chỉ là cái bóng ảo ảnh, là những màn gây rối huyễn hoặc, là đòn phép hiểm hóc, là bẫy rập của con Ma khảo thí gieo rắc loạn tâm, gây bao biến thế theo đề thi “Hòa Quy” của ngươn cơ lần nầy, mà Cha đã cảnh báo, nhắc nhở ở câu vấn đáp 63, hay rải rác trong một số bài huấn từ trước khi Cha ra đi quy ẩn. Thôi thì hôm nay, nhân nói qua về sự hình thành quyển kinh, Cha cũng có đôi lời nhắn nhủ: Phúc đức thay cho con nào xem kinh, nếu cảm nhận là sáng suốt minh triết, thì hãy thật sống với minh triết đó, tích cực thật tâm tu thân, sửa mình, để vượt qua cơn khảo thí và được tuyển chọn vào chu kỳ Thánh Đức sắp đến!

    Cha ban ơn cho tất cả các con!

  5. #5

    Mặc định

    2) – Chơn kinh gồm hai phần:
    Phần 1: 63 câu vấn đáp giải thích chơn lý.
    Phần 2: Những bài thuyết giảng được sắp theo thứ tự thời
    gian từ năm 1977 đến 1984. Ấn bản nầy có bổ sung thêm bài giảng năm 1991 và lời nhắn nhủ năm 2005.

    Lưu ý:
    Ấn bản chơn kinh nầy (2006) đã được chính Kim Thân Cha duyệt lại và chứng nhận như bản gốc. Đạo tâm các nơi, nếu có nhã ý ấn tống phổ biến, yêu cầu phải tôn trọng nguyên bản. Mọi cải sửa sai lạc bản gốc đều bị xem là “Thất Bản”, không đúng chơn kinh “THƯỢNG ĐẾ GIẢNG CHƠN LÝ” rao giảng bởi Kim Thân Cha (ví dụ: như bản in sai TĐGCL năm 2002 chẳng hạn, bị chen lộn những tài liệu không đúng của Kim Thân Cha giảng, v.v…)

    Phần 1
    Thượng Đế Giảng Chơn Lý

    63 CÂU VẤN ĐÁP GIẢI THÍCH CHƠN LÝ

    1. VẤN: Bạch Cha, phái Vô Vi chúng con được Ông Tám cho biết có điển Thượng Đế giáng thế. Tại sao Thượng Đế giáng thế?

    ĐÁP: Vì trần gian sắp trải qua một cuộc biến thiên rất lớn để đưa nhơn loại bước vào một chu kỳ tiến hóa mới theo tiến trình vận chuyển của càn khôn. Do đó, Cha thấy cần thiết phải có sự hiện diện tượng trưng của Cha ở trần gian để hỗ trợ cho nhơn loại tiến sang một chu kỳ mới theo sự ấn định của thiên cơ.

    2. VẤN: Thưa Cha, tại sao Thượng Đế phải cần xuống thế, khi Ngài là Đấng Toàn Năng Toàn Giác? Ngài chỉ cần sử dụng đến quyền năng của Ngài để biến đổi mọi việc theo ý Ngài muốn, thì tại sao Ngài phải cần xuống đây?

    ĐÁP: Vì Ngài xét rằng, sự hiện diện tượng trưng của Ngài ở trần gian sẽ hỗ trợ tích cực và hữu hiệu hơn cho Cơ Tiến Hóa của nhơn loại. Các con nói đúng. Ngài là Đấng Toàn Năng Toàn Giác, và Ngài vận chuyển mọi việc bằng ý chí của Ngài. Nhưng rồi ý chí của Ngài thể hiện không những về mặt vô vi mà cả mặt hữu vi nữa. Và nay, Ngài xét thấy sự hiện diện của Ngài, mặt hữu vi tại trần gian khiến cho công việc vận chuyển của Ngài dễ dàng hơn, trôi chảy hơn, hỗ trợ cho sự thể hiện ý chí của Ngài tốt đẹp hơn. Hiện diện bằng vô vi, thì ở đâu và lúc nào lại chẳng có Ngài? Bằng vô vi thì Ngài vẫn hằng có và hiện hữu khắp nơi. Song nay đã đến ngươn cuối của nhơn loại trên quả đất này, đã đến lúc Ngài xét thấy cần thể hiện Ngài mặt hữu vi, hầu gia tốc sự tiến hóa của nhơn loại cho kịp ngày giờ trước khi diễn ra Cơ Tận Diệt của thế giới. Cơ Tận Diệt này sẽ là một cuộc thanh lọc vĩ đại để tuyển chọn số nhơn loại đủ trình độ tiến hóa hầu bước sang một chu kỳ mới, tức là chu kỳ Thánh Đức của quả địa cầu này.

    3. VẤN: Thưa Cha, như vậy cái toàn năng của Thượng Đế không đủ quyền lực để vận chuyển dễ dàng cho nhơn loại tiến hóa nhanh theo ý muốn của Ngài, đến đỗi Ngài phải thấy cần hiện diện mặt hữu vi tại trần gian mới giúp cho sự tiến hóa được hữu hiệu sao?

    ĐÁP: Này con ơi! Việc con hỏi Ngài không đủ quyền lực để vận chuyển hay sao? Có chứ con! Đủ quyền lực chứ con; nhưng con nên hiểu quyền năng của Ngài phải vận dụng theo định luật tiến hóa của càn khôn, có nghĩa là quyền năng ấy phải vận chuyển cách nào cho vạn vật, cho chúng sinh có cơ hội học hỏi để tiến hóa. Nếu con quan niệm rằng để giúp cho nhơn loại tiến hóa, Thượng Đế chỉ cần sử dụng quyền năng bằng cách làm phép lạ trong phút giây để biến cải con người từ ngu muội ra sáng suốt tức khắc. Được chứ con! Việc này chẳng có gì khó khăn với Thượng Đế! Nhưng Ngài không làm điều này con! Ngài không học dùm con. Ngài không đi dùm con. Con phải học con mới biết! Con phải đi con mới tới. Ngài chỉ hỗ trợ và hướng dẫn con đi, con học hỏi để con tiến hóa. Con phải tự dấn thân xông lướt, để nếm, để chứng nghiệm, để học hỏi mới hiểu biết. Cái sáng suốt mà chúng con có được phải trải qua một tiến trình chứng nghiệm học hỏi cam go. Đấy là định luật tiến hóa. Cũng vì thế mà Thượng Đế vận chuyển ý chí, thể hiện quyền năng của Thượng Đế theo định luật, sử dụng quyền lực của Ngài theo tiến trình mà Cha vừa đề cập, có nghĩa là vận chuyển cách thức nào để chúng con có cơ hội học, nếm, chứng nghiệm để hiểu biết và tiến hóa. Thế nên, trong tình huống đó, Thượng Đế phải cực nhọc vất vả hơn nhiều để dìu dắt chúng sinh. Vì nhu cầu học hỏi và tiến hóa của chúng con, nên ý chí và quyền lực của Thượng Đế phải thể hiện theo một cách thức vất vả khó khăn hơn nhiều! Ngài phải sử dụng đủ phương tiện, đủ mọi cách, từ trược tới thanh để giáo hóa con người. Và nay, đã đến ngươn điêu tàn của nhơn loại theo định luật của càn khôn, Cơ Tận Diệt cận kề; đến lúc mà Cha thấy cần hiện diện bằng hữu vi dưới trần gian để hỗ trợ đắc lực hơn cho sự vươn lên của các con, để các con hiểu biết hơn chơn lý, hiểu Thượng Đế hơn, gần Ngài hơn trong ý niệm. Dù sao, sự hiện diện tượng trưng của Thượng Đế dưới trần phải gia tốc chắc chắn sự mở trí cho nhơn loại, giúp con người có cơ hội tốt để tiến hóa kịp thời hầu được tuyển chọn vào Cơ Thánh Đức sắp mở màn. Cha hy vọng số nhơn loại được tuyển chọn sẽ đông hơn, nhờ sự hiện diện hy hữu và dị thường này.

    4. VẤN: Thưa Cha, lúc nãy Cha có dùng chữ “sự hiện diện tượng trưng”. Xin Cha cho rõ tại sao chỉ hiện diện tượng trưng?

    ĐÁP: Vì Thượng Đế là một khối Đại Linh Quang vô cùng tận, chan hòa khắp cùng càn khôn vũ trụ. Ngài không hình, không tướng. Các con không thể dùng trí phàm để hình dung ra Ngài. Thế nên, chúng con phải thấy quá xa xôi với Ngài trong ý niệm, trong tình yêu và trong sự liên lạc giữa chúng con với Thượng Đế. Do đó, Ngài phân thân điển quang, đến với chúng con qua một bản thể tứ đại, để cùng sống với chúng con, lăn lóc gần gũi chúng con dưới cõi hồng trần, để chúng con có thể hình dung ra Thượng Đế, để thấy Ngài gần chúng con hơn, để chúng con hiểu Thượng Đế hơn. Nhưng chúng con phải biết rằng: Thượng Đế xuống thế đây là xuống tượng trưng thôi. Vậy nghĩa là Ngài không chỉ có ở đây, trong Đức Kim Thân, thật sự Thượng Đế vô cùng tận. Ngài ở đây, nhưng vẫn ở trên kia, nơi trung tâm sinh lực của càn khôn vũ trụ, và bằng thần lực vô vi, Ngài vẫn đang hiện diện khắp nơi, ở đâu cũng có Ngài. Ở xác thân tứ đại của Đức Kim Thân đây, chỉ tập trung một số điển quang trong khối điển quang vô cùng tận của Thượng Đế, để Ngài tiếp xúc với các con ở cõi hồng trần đó thôi. Nếu bảo toàn bộ Thượng Đế trong Đức Kim Thân là con đã giới hạn Thượng Đế mất rồi! Rồi đây, các con sẽ thấy, vì nhu cầu công việc của Cha, sẽ còn nhiều vị được Cha mượn xác tiếp điển để lo việc. Vì cơ của Cha quá vĩ đại, công việc thật mênh mông, nên Cha phải xuống điển cho nhiều xác trần để tiếp với Đức Kim Thân lo Cơ Thánh Đức sắp tới. Rồi đây, sẽ có vị thánh chúa tái lâm, có Đức Bạch Ngọc giáng trần, và một số vị khác được tiếp nguồn ân điển của Cha, để lo cơ chuyển tiếp dọn đường cho kỷ nguyên Thánh Đức.

    5. VẤN: Bạch Cha, khi Cha quyết định chọn một xác nữ đóng vai Cha làm hình ảnh tượng trưng của Thượng Đế dưới cõi trần, Cha có nghĩ đến sự kiện này khiến cho chúng con khó hình dung Cha hơn là nếu Cha chọn một xác nam không?

    ĐÁP: Có chứ con! Cha phải hiểu rõ tâm trần, phải hiểu chúng con phần đông còn đọa lạc trong vòng mê chấp của phàm tâm, các con sẽ chấp vào xác nữ, vì các con cho rằng phải hình ảnh Thượng Đế là nam thì đúng hơn. Nhưng cũng chính vì vậy mà Cha càng thấy nhân cơ hội này phá mê phá chấp, mở trí thêm cho chúng con, để chúng con có một quan niệm sáng suốt rộng rãi hơn về Thượng Đế. Vì con phải hiểu Thượng Đế vô cùng tận. Ngài là nam, Ngài là nữ, mà cũng không nam, không nữ. Ngài là một khối hào quang vô cực vô biên, không hình tướng. Con cho Ngài có hình tướng nào cũng được! Hình dung Ngài phải là nam thì Ngài là nam, nghĩ Ngài là nữ thì Ngài là nữ. Con phải thấy Ngài ở mọi trạng thái và ở mọi hình ảnh, như vậy con mới hiểu Thượng Đế hơn. Tại sao Thượng Đế không là nữ được con? Con phải
    hiểu từ nguyên lý Thái Cực phân định ra Lưỡng Nghi, có âm có dương, rồi phân tán ra vạn triệu, rồi vạn triệu quay về có một, một này lại sẽ hườn hư thôi con! Nhứt bản tán vạn thù, vạn thù quy nhứt bản. Con phải hiểu Cha nắm cả guồng máy âm dương. Cha là âm, là dương, và không âm, không dương cùng một lúc. Thế nên, ở màn cuối này Cha sẽ dạy chúng con phá mê phá chấp, với nhiều hiện tượng kỳ lạ, mà dần dần trần gian sẽ rõ. Cha sẽ chọn nhiều xác, có nam, có nữ, có cả xác nam lại tiếp điển Mẹ không chừng. Cha sẽ chọn nhiều nguyên căn, không phân biệt nam nữ, tùy theo duyên phước, căn cơ của đứa đó và tùy theo nhu cầu công việc của Cha. Riêng vị này ở đây Cha cho đóng vai Cha, đặc biệc cho xác vị này được Kim Thân, vì trường hợp chứng quả dị thường hy hữu và sự xứng đáng của vị này. Thôi thì, các con cứ tạm hiểu như vậy.

    6. VẤN: Bạch Cha, lúc nãy, Cha có nói rằng: “Cha dùng mọi phương tiện từ trược tới thanh để giáo hóa con người, xin Cha giảng cho chúng con rõ thêm về việc này?”

    ĐÁP: Này con ơi! Như Cha đã nói, Cha đã sử dụng tất cả phương tiện, từ trược tới thanh để giúp chúng con học hỏi tiến hóa. Bây giờ thử đặt vấn đề: cái gì giúp phần hồn chúng con thăng hoa đi lên? Có phải chăng là cái đẹp, sự thiện lành, sự sáng suốt? Cái gì trì kéo chúng con xuống? Có phải chăng sự xấu xa ác trược, sự ngu muội? Thì cái lực tốt lành sáng suốt tác động kéo chúng con đi lên cũng là Cha và cái lực ác trược ngu muội trì chúng con xuống cũng do Cha đó thôi! Đây là những phương tiện hỗ trợ một cách hữu hiệu cho linh hồn chúng con học hỏi. Phải chăng nhờ hai cái lực kích động, phản động này nó đối kháng, chống báng lẫn nhau luôn mà linh hồn chúng con mới có điều kiện để học hỏi và tiến hóa? Vì, linh hồn con, khi tách rời Đại Hồn Cha xuống thế, chỉ là thực hiện sứ mạng: “Đi học để tiến hóa”. Thế nên, trong chu trình tiến hóa của nó, nó phải học hết đủ bài, học cả ác lẫn thiện, học cả trược lẫn thanh, học cả cái xấu lẫn cái đẹp. Nhờ đó, mà nếm đủ kinh nghiệm để sau cùng trở về hợp nhứt với Thượng Đế, làm một Đấng Toàn Giác Toàn Năng, biết cả ác lẫn thiện, biết cả trược lẫn thanh, và rồi biết sử dụng cái ác, cái thiện, cái trược, cái thanh cho mục tiêu tiến hóa không ngừng của càn khôn vũ trụ, trong sự minh triết vô cùng của Đấng Toàn Năng Toàn Giác.
    Trải qua bao kiếp luân hồi trong chu trình học hỏi tiến hóa của linh hồn, hai lực trược và thanh này, sẽ đối kháng lẫn nhau luôn luôn để hiến những cơ hội cho con người học hỏi. Sự đối kháng đó sẽ tạo điều kiện để trui rèn, nhồi nắn linh hồn, giúp phần hồn nếm, chứng nghiệm, để càng lúc càng phong phú, càng hiểu biết hơn. Cho nên, khi một linh hồn còn khờ, còn yếu đuối, còn ngu muội, nó dễ bị hấp dẫn, ngã vào sự ngu muội ác trược để tưởng nghĩ và hành động điều ác trược. Đã hướng về sự ác trược, muốn sự ác trược, tưởng và làm điều sái quấy ác trược, thì sự ác trược sẽ kéo đến chiếu cố nó, tác động dội ngược lại nó, và khảo đảo nó theo định luật vật lý. Đó là điều mà các tôn giáo gọi là “Nghiệp Quả”, gieo nhơn đắng gặp quả đắng là vậy. Và linh hồn làm những điều sái quấy phải chịu tác động của luật nhân quả để trả quả, bị nhồi quả, do vậy, phải gặp nhiều đắng cay, đau khổ, nghịch cảnh, khảo đảo, trầm luân...Trong khi linh hồn phải trả nghiệp vì những sái quấy của nó chính là lúc mà nó được học hỏi. Vì những cay đắng đau khổ đều là những bài học quý báu để huấn luyện linh hồn. Có khi, trong lúc chịu quả báo, linh hồn đau khổ oằn oại, và rồi lại phạm thêm nhiều sái quấy tội lỗi khác. Thế là linh hồn vì sự ngu muội, đã kéo thêm những đau khổ mới đến khảo đảo nó, bắt nó tiếp tục trầm luân trên con đường ác đạo tối tăm, có khi cả bao nhiêu kiếp như vậy...
    Nhưng rồi cái lực tốt lành trong thiên nhiên sẽ can thiệp để cứu giúp nó và kéo nó đi lên. Lực này sẽ tác động một cách âm thầm trải qua nhiều kiếp sống ngụp lặn trong ác trược đau khổ tối tăm của linh hồn, để cuối cùng ảnh hưởng được nó. Rồi một lúc nào, linh hồn bắt đầu nhận ra dần dần những sai lầm sái quấy của nó, để biết sợ làm dữ gặp dữ, sợ luật báo ứng nhân quả để rán tránh điều sái quấy và từ từ vươn lên hướng đến sự tốt lành. Cha tạm giảng câu hỏi trên một cách tổng quát như vậy.

    7. VẤN: Thưa Cha, trong càn khôn vũ trụ này cái thanh cũng Cha, cái trược cũng Cha, cái lành hay cái dữ cũng nằm trong bàn tay Cha. Thưa Cha, nếu nói như vậy rồi Tạo Hóa sanh ra muôn loài vạn vật, rồi Trời cho thiên tai địa ách, giết chết bao nhiêu nhơn loại. Mọi việc cũng do ông Trời, vậy ông Trời có tội hay không?

    ĐÁP: Này con! Cha cho con rõ, ác cũng là Cha, mà thiện cũng Cha. Con nên nhớ, ông Trời là Đấng Toàn Giác Toàn Năng. Đã là toàn giác, toàn năng thì phải có cả ác lẫn thiện. Ông biết thiện mà không biết ác, tức là có chỗ chưa biết. Có chỗ chưa biết sao gọi là toàn giác? Ông chỉ làm điều thiện mà chẳng biết điều ác là có chỗ chưa làm. Có chỗ chưa làm sao gọi là toàn năng? Cho nên Thượng Đế phải thiện mà ác luôn! Và ông Trời thiện nhất càn khôn, mà cũng ác nhất càn khôn! Trong càn khôn này không ai ác bằng Thượng Đế! Nhưng rồi Thượng Đế vừa đại ác, vừa là Đấng Toàn Giác nên Ngài biết sử dụng cái ác cho mục tiêu đại từ bi. Tại sao đại từ bi con? Vì con phải hiểu, tất cả những cảnh khổ, những thảm kịch diễn bày dưới trần gian đều nằm trong định luật tiến hóa của vũ trụ. Phải cần thiết có những cảnh đó. Những cảnh đau thương, giết chóc, máu lệ dưới hồng trần đều cần thiết cho bánh xe tiến hóa vận chuyển. Thử hỏi không có những cơ khổ này làm sao các con có bài để học hỏi?
    Cha đã nói với các con, Cha chiết Đại Hồn của Cha thành những Tiểu Hồn, cho chúng con xuống thế để học hỏi. Tuân theo định luật tiến hóa, Tiểu Hồn con từ trên thanh nhẹ xuống cõi nặng nề để đi học. Đã đi học thì phải nếm, phải chứng nghiệm, chứng nghiệm đủ thứ, nếm đủ mùi, nếm vui rồi phải nếm khổ, nếm ngọt rồi phải nếm đắng luôn. Phải nếm hết, chứng nghiệm hết để biết chứ con! Tiểu Hồn Cha xuống tới cõi trần trọng trược để học hỏi, đầu tiên học trược học làm điều ác trược sái quấy, rồi bị khảo đảo bởi sự sái quấy của nó theo luật nhân quả. Nhờ trong khi chịu khảo đảo, bị đau khổ để trả nợ những gì nó vay, chịu trách nhiệm những gì nó làm, bị đọa đày đắng cay trong thử thách gian truân khổ nhục.
    Tiểu Hồn Cha sẽ có cơ hội học hỏi, nếm đủ mùi, đủ vị, học đủ bài, được luật nhân quả giũa mài, trui rèn dần dần để hiểu biết dần dần, phong phú dần dần cho tới khi đủ già dặn để chán cảnh hồng trần giả tạm, chán cảnh nặng nề để tìm về cảnh nhẹ nhàng sáng suốt. Vì Tiểu Hồn Cha qua bao thử thách đắng cay, tới một lúc nào trong chu kỳ tiến hóa của nó, nó sẽ từ từ cảm nhận được định luật thiên nhiên, luật nhơn quả, luật tiến hóa không ngừng của vũ trụ để phăng lần, dò mối, cho tới khi thật sự bừng tỉnh cơn mê trầm ở cõi trần gian, giác ngộ được mục tiêu tối hậu của nó, để quyết định tìm về chốn cũ nơi nó đã ra đi.
    Cho nên, xuống đây, Tiểu Hồn Cha phải trầm luân ngụp lặn trong bể trần ai để học hỏi. Linh hồn phải đối diện với bao đau khổ, phải chứng nghiệm những cảnh máu lệ, đói rách, giết chóc, khổ nạn, thiên tai địa ách để hiểu biết mà tiến hóa. Vì vậy, tất cả những cảnh khảo đảo dưới trần gian, có khi có Cơ Sát Phạt, cơ chết chóc hàng vạn triệu con người. Cái này ác, đúng vậy. Các con trách Trời sao sanh con người ra rồi sắp bày chi những bi kịch đó, những thảm trạng đó, thật tàn ác và phi lý! Nhưng con ơi, những thứ đó cần thiết con, cần thiết cho Cơ Tiến Hóa, cho định luật vận chuyển của càn khôn. Nếu không có những sự kiện này, Tiểu Hồn Cha lấy gì học, có gì để chứng nghiệm, để hiểu biết mọi chua, cay, mặn, đắng, ngọt, bùi, để nhìn mọi cảnh sắc xấu đẹp trong mọi khía cạnh dị biệt của trần gian?
    Các con hãy hình dung, nếu Tiểu Hồn con không học, không nếm, để hiểu biết thì không thể tiến hóa được. Khi các con không thể tiến hóa được thì định luật tiến hóa không vận hành được. Định luật tiến hóa không vận hành, có nghĩa là càn khôn không được tiến hóa. Khi có việc đó thì sự kiện gì sẽ xảy ra? Đấy là cơ hủy diệt của càn khôn đó vậy. Thế nên, muốn càn khôn này khỏi thảm họa hủy diệt, Cha phải đại ác. Cái đại ác của Cha cần thiết cho sự tiến hóa, cho sự sống còn của càn khôn! Vậy phải chăng cái đại ác này là đại từ bi? Và phải chăng vì Cha đại từ bi nên Cha phải đại ác không con? Điều đại ác sử dụng trong cái minh triết vô cùng của Đấng Toàn Giác sẽ thành điều đại từ bi đó con! Con phải biết, ác đúng lúc là thiện, thiện không đúng lúc là ác đó thôi. Và rồi, chỉ có Đấng Toàn Giác mới biết sử dụng cái ác trong minh triết vô lượng để nó trở nên thiện lành vậy.

    8. VẤN: Thưa Cha, như vậy có nghĩa là tất cả những nhơ nhớp xấu xa tội lỗi của nhơn loại, của cõi trần gian đều nằm trong thánh ý Cha?
    ĐÁP: Đúng vậy con. Cha diễn tả rõ hơn cho các con hiểu rằng, để định luật tiến hóa luôn được thể hiện, Cha chiết Đại Hồn Cha ra thành những Tiểu Hồn, những Tiểu Linh Quang này gọi là các con đó, nói đúng hơn các con chính thực là chiết hồn của Cha, phân ra để xuống thế học hỏi. Ý Cha muốn cho Cha xuống thế để Cha học qua trung gian của các Tiểu Hồn. Cha muốn Cha học ác trược, làm điều ác trược, rồi Cha sẽ bị định luật nhân quả tác động để gánh chịu khảo đảo bởi những điều sái quấy ác trược mà Cha đã làm. Cha sẽ trầm luân trong xấu xa tội lỗi để học hỏi qua những kiếp luân hồi. Để rồi, trải qua bao kiếp sống khác nhau, trong khi Cha phải trầm luân trong cái trọng trược thì sự minh triết, sự tốt lành, những gì Chân, Thiện, Mỹ, sẵn có trong thiên nhiên được thể hiện bằng nhiều màu sắc khác nhau ở trần gian sẽ dần dần giáo hóa Cha bằng những ảnh hưởng âm thầm lặng lẽ. Cái lực tốt lành này sẽ giúp Cha từ từ hiểu hơn để rồi thức giác phấn đấu vươn lên dần dần khỏi sự thấp hèn tội lỗi cho đến khi Cha thật sự giác ngộ con đường trở về để quy nguyên hườn bổn. Cha phải học đủ bài, nếm hết, để hiểu hết, hầu trở về ngôi cũ tức là ngôi Toàn Giác. Ngày nào Tiểu Hồn của Cha có đủ minh triết để hợp nhất với Đại Hồn, Tiểu Linh Quang đủ sáng để hòa với khối Đại Linh Quang của vũ trụ, ngày ấy Tiểu Hồn đã hoàn tất chu kỳ tiến hóa của nó. Như vậy có nghĩa là, qua trung gian của chúng con hay các Tiểu Hồn của Cha, Cha đi học, Cha nếm, Cha chứng nghiệm, từ trược đến thanh, từ ác đến thiện, từ xấu đến tốt, để hiểu biết mọi trạng thái, để thông suốt hết mọi điều, để Cha được toàn năng, toàn giác, toàn tri.

    9. VẤN: Bạch Cha, nhưng Cha đã cho chúng con biết rằng Cha đã có từ thuở đời đời. Như vậy là sự minh triết của Cha, cái toàn năng toàn giác
    của Cha nó phải có từ thuở đời đời, thế thì cần gì Cha phải đi học, để cuối cùng Cha đạt được những cái đó?
    ĐÁP: Con thắc mắc điều này cũng phải! Nhưng Cha sẽ nhắc cho con nhớ chơn lý này:
    “Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài. Cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi!” Cha muốn Cha phải sáng đời đời, toàn năng toàn giác đời đời, thì Cha phải đi học đời đời. Và con nên nhớ Cha là càn khôn vũ trụ, Cha là định luật tiến hóa, vì vậy Cha phải tiến hóa luôn luôn, muốn tiến hóa luôn luôn, Cha phải học hỏi luôn luôn. Nếu Cha không học, Cha không tiến hóa được. Khi định luật tiến hóa không thể hiện được, thì đấy là sự
    hủy diệt của định luật, đấy cũng là sự hủy diệt của Cha, tức là sự hủy diệt của càn khôn vũ trụ vậy! Cho nên Cha muốn có đời đời, Cha phải
    tiến hóa đời đời. Chơn lý động mà bất động là vậy con! Trong cái động nó có cái bất động. “Có đời đời” là trạng thái “bất động”. Phải lo học hỏi
    để tiến hóa luôn luôn, là trạng thái “động”. Cha muốn hằng hữu, bất biến, Cha phải động, phải biến luôn luôn. Chơn lý muốn bất biến, nó phải biến. Nói ngược lại, nhờ nó biến nó mới được bất biến đó con! Cho nên, trong cái bất biến nó có cái biến là vậy. Đó là chơn lý đời đời.

    10. VẤN: Thưa Cha, Cha vừa nói Thượng Đế là Đấng Sống Đời Đời và trong hình dung của con người cũng như các tôn giáo đều cho rằng Thượng Đế là Đấng Bất Diệt. Nhưng Đức Phật có nói: “Mọi sự trong càn khôn đều nằm trong định luật Sinh, Trụ, Hoại, Diệt” Cha cũng xác nhận chơn lý đó. Thế thì Thượng Đế là càn khôn vũ trụ, vậy tại sao Thượng Đế lại ở ngoài định luật đó? Tại sao Thượng Đế bất diệt?
    ĐÁP: Này con, Thượng Đế bất diệt nhưng có diệt luôn! Vì định luật Sinh, Trụ, Hoại, Diệt nằm trong chơn lý. Cha là chơn lý thì định luật đó phải ở trong Cha. Cha là nó luôn con! Cho nên, Cha phải có trạng thái sinh, trụ, hoại, diệt chứ con!
    Cha cũng có sinh và có diệt, có điều Cha lại sinh ngay chỗ Cha diệt, ngay lúc Cha diệt, Cha lại sinh ra. Hai trạng thái sinh và diệt diễn ra cùng một lúc cho nên thành không sinh không diệt, thành bất diệt là vậy con! Vì ngay lúc Cha chịu diệt, Cha đã sinh khi đó. Thế nên, Cha thành bất diệt. Tóm lại, trong Thượng Đế hai trạng thái sinh và diệt được thể hiện luôn luôn, và chúng con thấy trong càn khôn vũ trụ, đang khi có cái này diệt thì lại có cái khác hình thành lúc đó. Vì vậy, Thượng Đế có sinh có diệt mà không sinh không diệt. Ngài hiện hữu đời đời, diệt mà bất diệt. Ngài chính là chơn lý hằng hữu vậy.

  6. #6

    Mặc định

    11. VẤN: Bạch Cha, chúng con thấy trong một số bài giảng, Cha thường tỏ ra buồn khổ, lo lắng, khóc than việc chúng con mê trần, không lo tu tiến, không lo trở về với Đại Hồn Cha, Cha đau khổ, lo chúng con chậm trễ, rớt rơi không về được! Thưa Cha, trước đây Cha có nói về định luật tiến hóa, về những lực kích động và phản động, những lực này sẽ tác động tự nhiên lên linh hồn để chúng con tiến. Như vậy, thì nếu chúng con có mê trần hoặc trầm luân rớt rơi thì đấy cũng nằm trong định luật, và rồi đến một lúc nào, chúng con cũng được dẫn tiến, kéo đi lên để hoàn tất chu kỳ tiến hóa theo định luật thiên nhiên. Đã vậy, thì tại sao Cha phải đau khổ lo lắng vì việc trầm luân của chúng con?
    ĐÁP: Con nói vậy có phần đúng, nhưng con chưa hiểu rõ, đây để Cha tạm diễn tả thêm cho các con hiểu Thượng Đế hơn. Điều con vừa đề cập về sự tiến hóa của linh hồn theo định luật thiên nhiên, Cha phải hiểu chứ con, thế tại sao Cha lại đau khổ lo lắng, khi chúng con bị chậm trễ rớt rơi? Thật sự, trong Thượng Đế có những trạng thái vô cùng phức tạp, khó có thể dung ngôn ngữ giới hạn của trần gian để diễn đạt cho chính xác. Thôi thì Cha tạm giải thích rằng, vì trong Cha luôn luôn có những trạng thái dị biệt diễn ra cùng một lúc, đại khái như sau:
    �� Cha thấy cái thấy của Tiểu Ngã hay Tiểu Hồn, tức là Cha có cảm giác bị vùi dập, khổ nhục, đọa đày, khảo đảo bởi nghiệp lực, trầm luân trong tối tăm đau khổ của trần gian.
    �� Cha cũng thấy cái thấy của Đại Ngã tức Đại Hồn Cha, nhìn xuống Tiểu Hồn con, theo dõi những bước tiến của nó. Lo lắng, chăm sóc nó, hiểu cái ngu muội của nó. Lo âu khi nó ù lì bê trễ. Nóng ruột, xót xa, sợ nó không theo kịp bánh xe tiến hóa của càn khôn. Đau khổ khi nhìn nó bị bê trễ, bị kẹt lại, bị rớt rơi không hoàn tất chu kỳ tiến hóa của nó theo đúng hạn kỳ. Sự kiện này, tạm ví như những sĩ tử bê trễ không chịu học bài kịp cho khóa thi, phải bị rớt lại, bị chậm trễ. Nhứt là trong giai đoạn này, tức là giai đoạn vô cùng quan trọng, là ngươn cuối cùng của Thiên Địa, là khóa thi chót của những khóa thi. Nếu các thí sinh lần này không được đề tên bảng hổ, có nghĩa là các Tiểu Hồn không đủ trình độ hiểu biết, để được tuyển vào kỷ nguyên Thánh Đức, phải bị kẹt rớt lại, bị cô đọng chậm trễ, và phải chờ trong bảy ức niên nữa mới có cơ hội tiến hóa. Thế nên với cái thấy này, Cha phải lo âu và nỗ lực tối đa để đốc thúc chúng con tiến lên, chuyển mọi phương tiện đến với các con để các con nương đó mà tiến, kêu gọi bằng mọi cách, để các con đi kịp ngày giờ. Giai đoạn tới đây, khi Cha thật sự ra mặt dưới cõi trần: đây sẽ là giai đoạn chuyển tiếp để báo tin, dọn đường và chuẩn bị kỷ nguyên Thánh Đức.
    Đấy là lúc mà các con phải lo chạy nước rút, để kịp thời ứng thi và được tuyển chọn vào Cơ Thánh Đức. Nhưng nếu Cha có cái thấy của Tiểu Ngã, rồi có cái thấy của Đại Ngã, đồng thời lúc đó, Cha cũng có cái thấy của Vô Ngã, hay chơn lý Vô Cùng. Thấy cái thấy của Vô Ngã hay chơn lý Vô Cùng tức là Cha có trạng thái không không như như. Thượng Đế bằng cái thấy này thì Tiểu Hồn có tiến hóa tốt, nhanh hoặc tiến kịp kỳ, cũng nằm trong chơn lý. Mà nó có rớt rơi, bị kẹt lại trong ngu muội, tối tăm thì cũng trong chơn lý mà thôi! Vì trong chơn lý có cả trược lẫn thanh, ngu muội lẫn sáng suốt. Tiểu Hồn con rơi vào chỗ nào, lọt vào khía cạnh nào, tiến tới giai đoạn nào, cũng nằm trong chơn lý. Tiểu Hồn con có ở chỗ trược hay thanh, ở chỗ ngu muội hay sáng suốt, cũng nằm trong một thành phần của Thượng Đế mà thôi. Nếu có bị kẹt rớt lại cái khối ngu muội tối tăm trọng trược của càn khôn thì sự đó cũng tốt, cũng cần thiết cho định luật tiến hóa. Vì định luật tiến hóa cũng cần khối trược chớ con! Sự hiện hữu của khối trược đóng góp và hỗ trợ cho sự tiến hóa của càn khôn luôn luôn. Thiếu nó, bánh xe tiến hóa không chuyển được, guồng máy Âm Dương Trời Đất không vận hành được, và đấy là sự hủy diệt của Trời Đất vậy.
    Cha vừa tạm diễn tả phần nào, vài cái thấy trong vô lượng cái thấy của Thượng Đế. Trong Thượng Đế, vô lượng cái thấy đó vừa tương quan, vừa dị biệt. Và những cái thấy đó đều cùng một lúc. Những trạng thái này đã thể hiện cùng một lượt, vừa có cả sự đối kháng, sự tương phản, lẫn sự hòa điệu với nhau, để hình thành cái minh triết vô cùng tận của Đấng Tối Cao, mà không một ngôn ngữ nào có thể diễn đạt được.
    Cho nên, Thượng Đế động mà tịnh cùng một lúc, Ngài lo mà không lo, khổ mà không khổ, ngu muội mà sáng suốt là vậy đó con! Đó là chơn lý hằng hữu. Trong động có tịnh, trong tịnh có động là vậy! Chỗ này cao siêu phức tạp, các con chỉ nghe mà chưa chứng nghiệm thì khó hiểu thật sự. Thôi thì con chỉ ghi nhận vài ý niệm sơ lược vậy.

    12. VẤN: Thưa Cha, Cha vừa giảng cho chúng con những điều mà chúng con chưa hề thấy các kinh sách hay các nguồn triết lý đề cập đến. Chúng con vẫn thường nghe các tôn giáo rao giảng Thượng Đế là tượng trưng cho toàn thiện, toàn mỹ và ma quỷ ác trược tượng trưng cho sự xấu xa ác trược chính là kẻ thù của Thượng Đế. Vậy xin Cha giảng cho chúng con rõ điều này.

    ĐÁP: Này con, con nên hiểu, các tôn giáo đều không là chơn lý, chỉ là những phương tiện của chơn lý mà thôi. Phật, Chúa, Lão Tử, Khổng Tử hay tất cả những giáo chủ của các tôn giáo khác, đều được lịnh Thượng Đế cho sứ mạng xuống thế, để rao giảng điều tốt lành, thể hiện những màu sắc khác nhau của chơn lý, hầu tùy duyên trợ hành, tùy phương tiện mà hướng dẫn nhơn loại phấn đấu vươn lên.
    Mỗi một tôn giáo là một khía cạnh, là một màu sắc của chơn lý, nó chỉ nói lên phần nào của chơn lý mà thôi. Không tôn giáo nào diễn đạt hết chơn lý con. Vì chơn lý tức Thượng Đế là nguyên lý vô cùng không thể diễn đạt, không thể nghĩ bàn. Các tôn giáo chỉ nói về chơn lý hay Thượng Đế một cách phiến diện, chỉ tả Thượng Đế ở khía cạnh thiện, ở khía cạnh sáng, ở khía cạnh thanh thôi.
    Vì tôn giáo xuất hiện có nhiệm vụ đóng góp sức mạnh vào cái lực lượng sáng suốt tốt lành trong thiên nhiên để hỗ trợ và kích động nhân loại đi lên sự sáng, sự tốt lành. Cho nên, tôn giáo chỉ đề cập về chơn lý ở khía cạnh sáng đẹp. Nhưng đến nay, ngươn cuối đã lụn tàn, Cơ Tận Diệt sắp đến, Cha quyết định xuất hiện đến với trần gian, để nói lên chơn lý siêu thượng thừa, mở thêm trí cho trần gian biết về Thượng Đế, về chơn lý, hầu các con tiến hóa nhanh hơn. Dĩ nhiên, Cha cũng không thể nói hết về Cha, vì ngôn ngữ thì giới hạn, mà Cha thì vô cùng. Vả chăng muốn hiểu Cha, các con phải là Cha, phải trở về tới ngôi Cha, hòa điểm linh quang của con với Đại Khối Linh Quang, hòa Tiểu Hồn vào Đại Hồn của vũ trụ, đấy là lúc Tiểu Hồn con đủ sáng để hợp nhất với Thượng Đế, con là Thượng Đế, ở ngôi vị của Thượng Đế, chừng con chứng nghiệm được trạng thái đó, con mới hiểu thế nào là Thượng Đế mà thôi!
    Cho nên, Cha cho rõ, ma quỷ là kẻ thù của Thượng Đế nhưng ma quỷ cũng là Thượng Đế luôn con! Hai trạng thái này phải thể hiện cùng một lúc trong Cha. Thật vậy, Cha ở khía cạnh thanh thì ma quỷ là kẻ thù. Cha ở khía cạnh trược thì Cha chính là ma quỷ! Chứ con tưởng ma quỷ, khối ác trược từ đâu? Từ Thượng Đế mà ra! Nó là con đẻ của Cha, hay nó chính thật là Cha chứ ai? Thằng ma quỷ này phải ở trong chơn lý chớ con! Nó cần thiết cho sự tồn tại đời đời của chơn lý bất biến, phải có nó định luật tiến hóa mới vận chuyển. Vậy phải chăng ma quỷ cũng là cái đẹp, là sự thiện lành, vì nó hỗ trợ cho định luật tiến hóa, nó đóng góp cho sự sống đời đời của càn khôn? Như vậy, để các con hiểu rằng, không phải vì Thượng Đế là kẻ thù của ma quỷ nên Thượng Đế được toàn thiện, toàn mỹ, nhưng chính thực Thượng Đế làm cả con ma con quỷ, Ngài mới thực toàn thiện, toàn mỹ đó con! Nếu Ngài không làm ma quỷ, nếu Ngài không ác trược thì đấy là sự hủy diệt của chơn lý bất biến. Do vậy, phải chăng nhờ Ngài ác trược Ngài mới được thật toàn thiện và nhờ Ngài xấu xa Ngài mới được thật toàn mỹ?
    Cho nên, muốn là đấng toàn thiện, toàn mỹ, thì Ngài phải vừa chống ma quỷ vừa làm cả ma quỷ luôn con!

    13. VẤN: Bạch Cha, chúng con là Tiểu Hồn do Cha chiết hồn Cha ra, giống y như Cha, Cha bảo chúng con chính thật là Cha, là Tiểu Thượng Đế không khác gì Thượng Đế. Cha vừa nói Cha phải làm cả ma quỷ, Cha mới được toàn thiện, toàn mỹ, toàn giác, toàn năng. Thế sao, chúng con một Tiểu Thượng Đế giống Cha, chúng con lại không thể làm ma quỷ, vì như vậy chúng con sẽ chìm đắm trong ngu muội ác trược, xấu xa, để rơi vào cõi Địa Ngục luôn chớ không thể giác, thiện, mỹ như Cha?

    ĐÁP: Này con ơi, con chưa nhận định đúng sự việc rồi. Đây Cha giảng rõ, chúng con chính là những Tiểu Thượng Đế, những Tiểu Vũ Trụ. Trong chúng con có bản chất ma quỷ cũng như bản chất tốt lành không khác gì Cha. Nhưng tại sao con không thể làm ma quỷ để được tận thiện, tận mỹ như Cha? Tại sao? Sự thật không phải không làm được, nhưng con chưa biết làm y như Cha, thì đúng hơn! Vì con chưa đủ minh triết đó con!
    Con nên nhớ, trong Thượng Đế có trược nhưng có thanh, có ác nhưng có thiện, có ngu muội nhưng có sáng suốt. Ngài vừa là ma quỷ khảo đảo, vừa không là ma quỷ để chống lại với ma quỷ, và đồng thời, Ngài cũng thấy biết cả hai trạng thái đó, dụng cả hai trạng thái đó cho mục tiêu tiến hóa của Ngài, tức là của càn khôn, vì vậy, Ngài tiến hóa luôn luôn, và Ngài hằng hữu đời đời.
    Còn con, nếu con muốn bắt chước Ngài, được chứ con, vì bản chất cấu tạo của con không khác gì Ngài. Trong con có bản chất ác trược ngu muội của ma quỷ, đấy là phần phàm ngã của con đó, và bản chất tốt lành sáng đẹp tức là phần chơn ngã của con đó. Thế thì, con hãy làm như Thượng Đế, tức là biết chi phối phần sáng suốt của con vào phàm ngã, và sử dụng sự khảo đảo của con ma phàm ngã vào mục tiêu tiến hóa của con đi!
    Vì lực ác trược ma quỷ khảo đảo trong càn khôn là để giúp càn khôn tiến hóa. Vậy con ma phàm ngã trong Tiểu Vũ Trụ của con, nó là một thành phần của con, nó dấy loạn lên khảo đảo con, là cơ hội để con học hỏi tiến hóa, con hãy sử dụng nó, để rèn luyện con, giúp con học Bi, Trí, Dũng, học trau dồi ý chí của con thành vô cùng tận, hợp nhất với ý chí của Thượng Đế. Cái con ma phàm ngã có trong bản chất của con là một công cụ rất tốt giúp chơn ngã phát triển, để giúp Tiểu Hồn con tiến hóa trở về ngôi Thượng Đế. Nhưng chính vì con chưa đủ ý chí, chưa đủ minh triết để nhận định, con còn yếu đuối ngu muội, con không biết nhận diện chân thực cái phàm ngã của con, con không nhìn chính xác vai trò của phàm ngã trong con.
    Thế nên, khi phần ác trược trong con dấy loạn, con không đủ sáng suốt để biết sử dụng con ma phàm ngã và tiến hóa, con lại để nó sử dụng con, nó lấn áp con và chiếm con hoàn toàn. Vậy là trong con, lúc đó, chỉ có phần ngu muội ác trược mà không có phần sáng suốt, chỉ có trạng thái ma quỷ, chớ không có trạng thái “không là ma quỷ”, do đó mà Tiểu Hồn con rơi vào ác trược, ngu muội, xấu xa, vì con bị phần ngu muội xấu xa chiếm con. Khi trong con chỉ có trược, không có thanh, chỉ có tối, không có sáng, tức là con không đủ bản chất của Thượng Đế nữa, con không còn giống y như Thượng Đế với đầy đủ tính của Ngài nữa. Lúc ấy, con chỉ giống một khía cạnh của Thượng Đế mà thôi. Đó là khía cạnh trược của Ngài. Thế nên, con phải rơi vào khía cạnh đó, tức là rơi vào khối ác trược của càn khôn hay cõi Địa Ngục vậy.

    14. VẤN: Thưa Cha, Cha bảo Tiểu Hồn con giống y như Cha, thế tại sao Cha có minh triết, có sáng suốt, vừa làm ma quỷ để khảo đảo, vừa sáng suốt chống lại ma quỷ, và biết sử dụng ma quỷ cho sự tiến hóa, còn bản chất chúng con giống y như Cha, tại sao chúng con lại không có chỗ minh triết của Cha để biết sử dụng phần ác trược như Cha để phải bị nó khống chế?

    ĐÁP: À, điều này con hỏi cũng đúng! Đây, Cha tạm giải thích. Con nói đúng. Trong Tiểu Hồn phần trược, phần thanh, phần sáng suốt, phần ngu muội giống y như Cha. Thế vì sao Tiểu Hồn lại không biết chế ngự phần trược, không biết sử dụng nó để tiến, mà để cho nó chế ngự?
    Là vì Tiểu Hồn con, khi phân ly với Đại Hồn, từ trên thanh nhẹ xuống cõi trần trược, nó liền bị chất khí nặng nề ô trược của cõi hồng trần trược hóa nó đi, và Tiểu Hồn bị ô nhiễm phải đánh mất phần sáng suốt nguyên thủy của nó. Ý chí sáng suốt của nó ở giai đoạn này bị lu mờ và do đó phần phàm ngã của nó dễ dàng lấn át nó, khống chế nó. Giai đoạn này là giai đoạn nó phải học trược, học làm điều ác trược sái quấy, tạo nghiệp lực để bị trả quả, để học hỏi tiến hóa như Cha đã giảng trước đây. Rồi dần dần, qua bao kiếp trầm luân, nó từ từ vươn lên, nhờ cái lực tốt lành có trong thiên nhiên, và nhờ những phương tiện tốt lành mà Cha chuyển đến với nó, để kéo nó tiến lên, nó sẽ phải học phấn đấu vươn lên, để từ từ gầy lại cái sáng suốt nó đã mất, và đạt dần dần cái ý chí đã bị lu mờ trong nó. Cái sáng suốt đó sẽ phải phát triển dần dần trên đường đi, cho tới khi đủ sáng để hòa vào làm một với cái khối sáng vô cùng của vũ trụ.
    Đấy là lúc mà Tiểu Hồn con đã trở về hợp nhất với Đại Hồn Cha.

    15. VẤN: Thưa Cha, nếu như vậy thì những sái quấy tội lỗi của con người có đáng được trách móc kết án trước sự phán xét của công lý loài người cũng như trước công lý của Thượng Đế chăng, khi mà những sai lầm của nó đều nằm trong định luật tự nhiên và trong sự xếp đặt của ý chí Thượng Đế?

    ĐÁP: Này con ơi, phải nói rằng trước công lý của Thượng Đế thì những tội lỗi sái quấy của con người đáng trách mà không đáng trách. Tại sao không đáng trách? Vì Ngài hiểu tội lỗi ác trược, vốn dĩ nằm trong bản chất của Tiểu Hồn là một chiết thân của Ngài, nó bừng dậy khảo đảo và khống chế Tiểu Hồn khi Tiểu Hồn bị lu mờ ý chí sáng suốt.
    Sự lu mờ này do ý chí sắp đặt của Ngài và do sự vận chuyển của định luật tự nhiên. Do định luật tự nhiên vận chuyển nghĩa là sao? Là khi Tiểu Hồn của Thượng Đế xuống tới cõi nặng trược, ý chí sáng suốt của nó phải bị lu mờ vì chất khí nặng nề của cõi hồng trần. Do ý chí xếp đặt của Thượng Đế là sao? Là vì Thượng Đế muốn Tiểu Hồn Ngài bị ô nhiễm, đi vào nặng trược phải chịu mất cái sáng suốt của nó để học trược nếm trược, rồi bị ác trược khảo đảo nó, khiến nó đau khổ trầm luân, cho tới khi nó thấm nhuần cái trược, nó sẽ lần bước sang học cái thanh. Giai đoạn học thanh này là giai đoạn mà Tiểu Hồn sẽ vun bồi lại sự sáng suốt mà nó đã mất, cho đến khi nó đạt lại được hoàn toàn.
    Thế nên, Thượng Đế phải hiểu tội lỗi từ trong bản chất của tội lỗi, để không kết án nó! Nhưng rồi ở khía cạnh khác, tại sao Thượng Đế lại trách cứ lại kết án những điều tội lỗi ác trược của con cái Ngài? Vì sao? Vì con ơi, Thượng Đế phải trách cứ nó, phải kết án nó, để đốc thúc sự tiến hóa của nó chứ con! Không những trách mà còn phải răn phạt nó nữa! Răn phạt Tiểu Hồn của Ngài, tức Ngài răn phạt chính Ngài đó thôi! Ngài trừng phạt Tiểu Hồn Ngài qua luật Nhơn Quả, và nhờ luật Nhơn Quả giáo dục, để giúp Tiểu Hồn tiến hóa.
    Cho nên, Thượng Đế trừng phạt, trách cứ, kết án tội lỗi để kích thích Tiểu Hồn tiến hóa đi lên. Ngài muốn Tiểu Hồn học trược, biết trược, rồi lại phải học thanh, học ác rồi học thiện, học tối rồi học sáng, để sau cùng, hiểu biết những thứ đó, Tiểu Hồn sẽ đạt lại đầy đủ bản chất Thượng Đế của nó. Cho nên, Ngài cho Tiểu Hồn đi vào trược, học ác trược, rồi lại phải chỉ trích, lên án tội lỗi ác trược. Cho nó thấy rằng ác trược là điều xấu xa, sai lầm, phải chuốc lấy đau khổ, thảm họa, khi trầm luân trong đó, kêu gọi nó từ bỏ cái đó, lên án cái đó, để Tiểu Hồn từ từ sợ điều ác trược, chán ghét nó để từ bỏ nó, hầu tiến sang bài học tốt hơn, cao hơn, để thuận theo dòng tiến hóa. Nếu cho Tiểu Hồn xuống học trược rồi không dắt dẫn nó, không có lực đối kháng lại cái trược để kéo nó lên bằng sự ca ngợi điều thiện lành, điều cao cả, bằng chỉ trích lên án điều ác trược, xấu xa, tội lỗi, thì Tiểu Hồn sẽ chìm đắm mãi trong cõi ác trược, sẽ giậm chân tại chỗ trược mà không tiến sang để học cái khác hơn. Sự kiện này không khác chi học trò đi học, cứ học mãi bài đó mà không chịu học bài khác cao hơn, vì không ai nhắc nhở đốc thúc nó. Thế thì trình độ nó phải bị kẹt tại đó, phải ở lại mãi lớp đó và bị đẩy lùi bởi dòng tiến hóa mà thôi.
    Cho nên, Thượng Đế không lên án tội lỗi vì minh triết và Ngài lên án tội lỗi cũng vì minh triết nữa! Vì vậy, Ngài lên án điều ác trược mà vẫn hiểu, và Ngài hiểu nhưng Ngài vẫn lên án. Lên án vì cần thiết, vì phải chăn dắt, phải đốc thúc các Tiểu Hồn của Ngài tiến hóa thôi, Ngài lên án nó vì minh triết, nhưng cũng vì tình yêu của Ngài: vì yêu mà trừng phạt, vì yêu mà lên án. Thế nên, khi các con đã hiểu chỗ này rồi, Trí các con ngộ được chơn lý này rồi, thì tính Bi trong con sẽ phát triển rộng hơn, con sẽ nhìn sự việc đúng hơn. Với chính con, con sẽ lên án gắt gao khi con sái quấy, để con khỏi bị chậm trễ, khỏi bị kẹt mãi trong sự ngu muội và bị đào thải bởi dòng tiến hóa, con sẽ rán tránh điều sai lầm sái quấy, ác trược để gia tốc sự tiến hóa của con, con sẽ rán làm toàn điều tốt lành cao cả, để học thanh học sáng, để đạt lại dần dần cái phần sáng suốt trong con, mà con đã đánh mất.
    Và rồi, với đồng loại, con sẽ nhìn đồng loại bằng cái nhìn phóng khoáng và rộng rãi hơn. Con sẽ không nhìn kẻ tội lỗi sái quấy bằng đôi mắt khắt khe, bằng một trái tim hận thù khinh ghét. Vì nếu con tránh được điều sái quấy mà nó đang phạm, ấy là con đã học qua bài đó rồi, con đã từng phạm và từng xấu xa y như nó. Nếu con hiểu được điều tốt lành mà nó vẫn chưa hiểu, tâm hồn nó còn kẹt trong xấu xa đê tiện, con đừng vội tự mãn, hài lòng với con người mình và khinh ghét kẻ sái quấy tội lỗi. Vì con ơi, khi con thấy mình tốt hơn nó, con nên nhớ rằng, con đã từng không khác gì nó, con đã phải trải qua chỗ nó đang đi, con đã phải học điều nó đang học, và nếu con đã vượt qua chặng đó rồi, thì đấy không phải là một lý để con tự mãn và khinh ghét nó.
    Kẻ sái quấy ấy, tự bản chất nó chẳng khác gì con, giống y như con, chỉ có điều nó xuống sau, nên nó đi sau con đó thôi! Khi đứa em con ra đời sau con, thì việc nó nhỏ tuổi hơn, khờ dại hơn, học lớp thấp hơn, có phải lý do để con khinh nó không? Nếu một kẻ đồng loại của con còn chưa chịu hiểu hay chưa hiểu được những điều tốt lành cao cả mà con hiểu được ấy là vì nó còn kẹt trong bài học trược của nó, nó chưa đủ thấm bài đó, và chưa đủ ý lực để vượt khỏi bài đó. Và nếu nó có bị chậm trễ, ngụp lặn, trì trệ mãi chỗ nó đang học mà chưa thoát ra được, thì đấy là điều bất hạnh xót xa cho nó, con nên yêu thương và tận tâm giúp nó trong khả năng hiểu biết của con hơn là khinh ghét nó! Và nếu cần trách cứ lên án để giúp kẻ đó hiểu sự sái quấy của nó thì cũng phải làm thôi!
    Nhưng con nên nhớ rằng, sự lên án của con không được phát xuất từ lòng khinh ghét thù hận mà phải từ những rung động thuần khiết của trái tim thương yêu và của trí tuệ sang suốt thật tâm giúp nó tiến hóa. Cha cho con rõ, nếu con lên án nó mà long con khinh ghét thù hận nó, thì có nghĩa là sự lên án này phát xuất từ ngu muội, từ những chất liệu xấu xa của con ma phàm ngã đó thôi. Tư tưởng con lúc đó rung động nặng nề trọng trược, ấy là cái nhân độc sẽ nảy sinh và hình thành cái quả độc xấu mà con phải hoàn toàn gặt lấy. Vì tư tưởng con nặng trược, thì chắc chắn, sẽ hút điều nặng trược đến với con. Hay nói ngược lại, khi con phóng ra một tư tưởng nặng trược, xấu xa thì điều xấu xa sẽ dội ngược trở lại khảo đảo con, theo sự tác động của luật nhân quả. Con có thể sẽ gặp lại những gì mà kẻ con khinh ghét đang gặp, đang chịu để con biết cảm thông kẻ sái quấy đó. Điều này sẽ dạy cho con biết giữ tư tưởng con tốt lành, dạy con bớt khắt khe kiêu ngạo, biết yêu thương hơn, biết mở rộng tâm hồn đối với đồng loại. Nhờ mở rộng tâm hồn hơn, trí con mới hiểu biết hơn, mới sáng hơn con. Và ngược lại, khi trí con hiểu hơn, thì tự nhiên, con biết mở rộng tâm hồn con ra thêm vậy!

    16. VẤN: Thưa Cha, Cha nói rằng khi cần trách cứ, lên án thì phải làm. Nhưng có điều khi lên án kẻ sái quấy, thì lòng mình phải yêu thương sáng suốt muốn giúp kẻ đó tiến. Thưa Cha, vấn đề ở đây là những trường hợp kẻ lên án nghĩ mình thương, nghĩ mình lên án cá nhân sái quấy kia, để giúp cá nhân tiến, trong tâm có ý tốt như vậy, nhưng thật ra, sự lên án lại sai lầm. Kẻ bị lên án chịu sự phê phán bất công. Như vậy, thì luật nhân quả có tác động lại điều xấu cho một kẻ đã hành động có ý tốt hay không?

    ĐÁP: À, con hỏi trường hợp này Cha sẽ giảng rõ hơn. Cha đã nói, sự lên án phải phát xuất từ tình yêu thương và sự sáng suốt. Nhưng ở trường hợp này, kẻ lên án có thể vì thương nhưng lại thiếu sáng suốt. Thiếu sáng suốt mà tin rằng mình sáng suốt và đã lên án sai. Trường hợp này luật nhân quả có tác động xấu với kẻ lên án sai chăng? Có chứ con! Hành động sai với ý tốt nhưng thiếu sáng suốt thì luật nhân quả vẫn tác động để dạy kẻ sai lầm hiểu biết hơn.
    Vì luật nhân quả chính là luật tiến hóa của vũ trụ, nó giúp con người học hỏi luôn luôn, để hiểu biết tiến hóa, một hành động sai vì thiếu hiểu biết sẽ nhận lại quả báo ứng, để dạy Tiểu Hồn hiểu sự sai lầm của mình, để mở trí thêm, sáng suốt thêm. Quả báo ứng sẽ dội lại nặng hay nhẹ tùy theo tình ý của trường hợp sai lầm đó, để dạy Tiểu Hồn. Con hành động sai với ý tốt, quả báo sẽ dội nhẹ hơn khi con hành động sai với ý xấu. Vì kẻ làm sai với ý xấu đã ngu muội hơn, trược hơn kẻ hành động sai với ý tốt, nên phải chịu quả báo nặng hơn. À, ở đây, Cha thấy chúng con băn khoăn ở chỗ có thể các con có ý tốt muốn giúp kẻ khác tiến, nhưng làm sao để biết sự lên án của mình có đủ sáng suốt đúng đắn không? Vì phần đông ai cũng cho mình là đúng trong chủ quan của mình. Nghĩ rằng đúng mình mới làm, nhưng lỡ nó không đúng mình phải chịu quả báo.
    Cha thấy, ở đây, các con đều là những đứa đang tu học, muốn tránh quả báo, sợ tạo nghiệp rồi phải trả. Các con ngại điều này cũng phải. Vì người tu, khi đã thức giác muốn tìm đường đi lên, tiến tới chỗ sáng suốt, phải cố tránh vay thêm nghiệp, tạo những nhân xấu rồi phải chịu trả quả. Điều này sẽ làm trì trệ, gây khó khăn rất nhiều cho con đường đi lên của người tu học.
    Thế nên, trước một sự việc mình muốn phê phán, lên án, làm sao để chắc mình sáng suốt, mình không phê phán sai? Này các con, Cha cho con rõ, nếu biết sợ vay nghiệp dữ, tạo quả báo, thì hãy nghe Cha nói, chỉ khi nào con có trình độ sáng suốt khá cao, mắt thứ ba của con tức huệ nhãn đã mở tới trình độ con có thể thấy được những rung động của những luồng song tư tưởng phát ra. Con thấy được hình dạng màu sắc của nó và định được những tư tưởng tốt xấu trược thanh, thì khi ấy con mới chắc chắn hơn ở nhận định của con và chỉ khi ấy con mới lên án và phê phán. Vì giai đoạn này, Bi và Trí trong con đã ở trình độ khả dĩ có thể phê phán, để lên án một sự việc, một cá nhân mà chắc rằng sự lên án, sự phê phán đó, phát xuất từ bác ái và trí tuệ.
    Khi con chưa mở được huệ nhãn, chưa thấy được điển, chưa thấy được hình dạng màu sắc của tư tưởng thì thôi, tốt hơn, không nên phê phán ai, lên án ai. Những nhận định, những phán đoán của con lúc đó, khó thể sáng suốt đúng đắn được. Cha đã từng nói với các con, phán xét sai một người là tạo nghiệp khảo mình. Khi trình độ chưa minh, chưa đủ để phán đoán có khi sái quấy, mà lỡ nghĩ điều sái quấy cho người, phải mang ý nghiệp. Ý nghiệp thể hiện qua lời nói trở thành khẩu nghiệp. Ý nghiệp thể hiện qua hành động trở thành thân nghiệp. Nếu cái nghiệp này tràn lan gây một tầm ảnh hưởng lớn rộng, kéo theo nhiều sai lầm khác, thì nghiệp càng dày càng sâu, quả báo càng lớn, rồi phải chịu tác động bởi luật Trời, bởi luật nhân quả để dạy phần hồn học hỏi tiến hóa mà thôi!
    Vì vậy, khi con chưa mở huệ nhãn, con chỉ nên giúp kẻ sái quấy tiến hóa bằng cách cầu nguyện, chúc phúc nó mau sáng, để nó hiểu sự sái quấy của nó. Thay vì, lên án phê phán nó, con hãy gửi đến nó những tư tưởng tốt lành, chúc phúc cho chân ngã, cho bản chất sáng suốt của Thượng Đế trong nó vượt lên làm chủ, chỉ huy điều khiển phần lục căn lục trần, để nó chóng hiểu những sai lầm của nó, hầu sớm thoát qua chỗ tối tăm mà nó đang chìm đắm. Nếu con thật tâm muốn giúp kẻ sái quấy, con hãy gởi thường xuyên những tư tưởng thiện lành nói trên đến với nó. Sự rung động, những luồng tư tưởng tốt đẹp phóng đến với nó thường xuyên, bằng ý chí sáng suốt của con, đến một lúc nào, sẽ tạo thành một sức mạnh tốt giúp nó, ảnh hưởng nó ít hay nhiều tùy theo sức mạnh tâm linh của kẻ phóng đi.
    Tóm lại, trước một kẻ sái quấy, thay vì lên án nó, con sẽ chúc phúc cho nó. Điều này là một lối xử sự khôn ngoan sáng suốt, vừa giúp con tránh tạo nghiệp quả, vừa giúp con gầy thêm công quả. Vì Cha cho rõ, làm công quả này, cũng là lập hạnh bố thí Ba La Mật. Và bố thí không phải chỉ bằng vật chất mà bằng tinh thần nữa. Lối ban rải tư tưởng tốt lành này còn có giá trị cao hơn những bố thí vật chất cho kẻ thiếu. Vì kẻ sái quấy cũng đang đói thiếu sức mạnh tinh thần, đói thiếu sự sáng suốt. Con hãy ban rải những tư tưởng sáng suốt tốt lành với tấm lòng yêu thương mong cho nó hiểu biết. Khi nó sáng suốt nó sẽ bớt sái quấy. Bớt sái quấy, dĩ nhiên nó đỡ tạo nghiệp đến khảo nó khổ hơn. Đấy mới là biết cứu khổ thật sự một con người. Cho nên, không một công quả nào có giá trị bằng công quả bố thí sự sáng suốt để giúp kẻ khác tiến hóa. Lối bố thí này thực đáng kể trước Thượng Đế và trước linh hồn con. Hành nó, con vừa giúp kẻ khác tiến hóa, con vừa giúp con tiến hóa. Vì con càng bố thí sự sáng suốt con càng nhận được sáng suốt, càng ban rải nhiều điều tốt lành thì càng nhận điều tốt lành đến với con thôi!

    17. VẤN: Thưa Cha, Cha đã giảng bản chất của Thượng Đế có cả trược, thanh và ở mọi trạng thái. Như vậy trong Thượng Đế có cả tánh tham, sân, si. Thế tại sao các tôn giáo lại khuyên răn chúng con phải diệt tham, sân, si. Vậy chẳng hóa ra là khuyên chúng con làm mất đi bản chất Thượng Đế của chúng con sao?

    ĐÁP: À, thực ra điều này ở đây hầu như triết lý các tôn giáo chưa giải rõ chỗ này cho các con hiểu, vì các tôn giáo chỉ đứng ở một khía cạnh để nhìn về khía cạnh khác của chơn lý. Ở đây, Cha sẽ giảng để con rõ hơn.
    Các con nói đúng, trong Thượng Đế phải có tất cả tính tham, sân, si chớ con. Ngài không thiếu một tính gì. Nếu Ngài còn thiếu một tính gì thì làm sao Ngài có thể phong phú vô cùng tận? Thế thì tại sao, các tôn giáo lại lãnh sứ mạng của Ngài để kêu gọi con người từ bỏ những tính tham, sân, si hầu được về cõi sáng?
    Tham là gì? Là ham muốn. Sân là gì? Là nóng giận. Si là gì? Là mê muội. Khi khuyên các con diệt tham, sân, si, các tôn giáo đã đứng chỗ thiện mà nhìn chỗ ác, đứng chỗ sáng để nhìn chỗ tối, đứng chỗ thanh để nhìn vào chỗ trược. Thế nên, muốn con được sáng thì phải khuyên con bỏ tối, nếu muốn con thanh thì phải khuyên con bỏ trược. Việc này cũng đúng thôi! Nhưng Cha sẽ giải thích cho con rõ hơn. Cha sẽ cho các con hiểu rằng, vấn đề ở đây không phải là diệt mất tính tham, sân, si
    của con mà là con sẽ học tham, sân, si theo một hình thức khác.
    Thật vậy, Tiểu Hồn con xuống đây đi học, học trược rồi học thanh. Thế nên, khi con ngụp lặn trong cái trược là lúc con được học tham, sân, si theo kiểu trược. Tham kiểu trược là con ham muốn điều nặng trược. Sân kiểu trược là con phản ứng chống đối điều gì không vừa ý theo cách nặng trược.
    Si kiểu trược là con si mê điều nặng trược, và như vậy, con sẽ đắm đuối trầm luân trong ác trược. Nhưng học trược rồi phải học thanh chớ con!
    Con đã học bài đó, biết bài đó, thì bây giờ, phải học bài khác hơn để mở trí biết hơn! Và bây giờ để học thanh, con sẽ từ từ đi vào cái thanh.
    Như vậy, không phải con sẽ từ bỏ tham, sân, si nhưng là học tham, sân, si theo kiểu thanh. Học Tham kiểu thanh tức là ham muốn điều thanh nhẹ. Học Sân kiểu thanh là phản ứng chống đối điều gì không vừa ý, theo cách thanh nhẹ. Và học Si kiểu thanh là con sẽ tập mê si điều thanh nhẹ tốt lành vậy. Khi một vị Phật phế bỏ mọi sự trần gian, đạt đến Niết Bàn, đấy không có nghĩa là Phật diệt mất bản chất tham, sân, si! Thật sự, Phật đang thể hiện bản chất tham, sân, si ở khía cạnh thanh nhẹ. Vì phải chăng Phật cũng đang tham sự sáng suốt? Đang mê sự thanh tịnh, như như, an lạc? Và phải chăng, nếu ai có ý hay hành động chọc giận Phật, Phật sẽ phản ứng chống đối lại bằng cách ban rải cho kẻ đó chút ân điển sáng suốt, để giúp kẻ ấy mau hiểu biết tiến hóa đi lên?
    Tóm lại, để tiến hóa, để được sáng không có nghĩa là con diệt mất bản chất tham, sân, si của con, mà con phải thăng hoa nó lên, phát triển nó ra, tìm biết nó thêm ở những khía cạnh khác, cho đến khi con thật sự biết nó. Con đã học lớp một, muốn lên lớp hai thì con phải bỏ lớp một thôi. Con đã nếm nó, biết nó ở khía cạnh trược thì giờ đây, con hãy bỏ khía cạnh đó, và bắt đầu học nếm nó, tìm hiểu nó, thấy nó ở khía cạnh khác để phát triển trí tuệ dần dần, cho đến khi trí con được phát triển toàn diện đến vô cùng tận. Rốt rồi, khi về tới Ngôi Thượng Đế, hợp nhất cái biết của con với cái minh triết vô cùng của Đấng Tối Cao, con sẽ thấy cuộc hành hương đăng đẳng của con, từ khi xuống thế cho đến ngày về, là một cuộc hành trình để học tham, sân, si, để biết tham, sân, si thật sự và phát triển tham, sân, si cho đến vô cùng tận.
    Vì Cha cho rõ, Thượng Đế tham, sân, si vô cùng tận. Ngài tham, sân, si nhất càn khôn và bất cứ một thể tính nào, một bản chất nào, một trạng thái nào, Ngài cũng đều phải nhất. Vì ở một địa hạt nào Ngài nhường bước, thì Ngài không là chơn lý tối thượng nữa! Thật vậy, trong càn khôn này, không ai tham bằng Thượng Đế, vì Ngài chiếm hữu hết vũ trụ, không có cái gì Ngài không chiếm hữu.
    Và có ai si mê như Ngài, vì Ngài vừa mê trược, vừa mê thanh, si mê đủ mọi trạng thái cho đến vô cùng. Nếu Ngài chỉ mê cái trược, không mê cái thanh, hay ngược lại, chỉ mê cái thanh mà không mê cái trược, thì cái nguyên lý vô cùng phải mất quân bình và sụp đổ tức khắc.
    Rồi thử hỏi, có ai sân bằng Thượng Đế? Ngài nóng giận nhất càn khôn thôi! Ngài chính là dương, là lửa, là nguồn nóng của càn khôn vũ trụ. Ngài chính là kẻ giận dữ, ưa chống đối, thịnh nộ nhất càn khôn. Ở khía cạnh trược, Ngài chống đối cái thanh. Ở khía cạnh thanh, Ngài chống đối cái trược.
    Lực trược trì thanh xuống. Lực thanh kéo trược lên. Thanh và trược chống đối nhau, xô đẩy nhau, hấp dẫn nhau, những trạng thái này diễn ra một lượt, vừa đối kháng, vừa dung hợp, vừa hài hòa để hình thành cái khối minh triết vô cùng, cái khối sinh động vô cùng, cái sức mạnh mãnh liệt vô biên vận chuyển càn khôn tiến hóa đời đời và bất biến... Chỗ này cao siêu và phức tạp, các con phải chứng nghiệm trạng thái đó, các con mới hiểu, Cha giảng bằng ngôn từ cho chúng con tạm biết ý niệm vậy thôi.
    1 Hài hòa: Thỏa thuận, hòa hợp.
    Cho nên, chúng con thấy rõ trong Thượng Đế cái gì cũng phải có, có cùng một lúc, thể hiện lên một lượt, và cái gì cũng là chơn lý. Tính Tham của Ngài là chơn lý, vì nếu có một thứ gì Ngài không chiếm hữu, có một thứ gì ở ngoài quyền lực của Ngài, thì Thượng Đế không còn là chơn lý tối thượng nữa. Tính Sân của Ngài là chơn lý. Nếu thiếu nó càn khôn sẽ không còn sự sống, không còn vận chuyển và không còn tiến nữa. Tính Si của Thượng Đế là chơn lý. Nếu Thượng Đế không có nó tức càn khôn không có trạng thái mê muội. Khi càn khôn thiếu trạng thái mê muội nó sẽ không vận hành không tiến hóa được, thì đấy là sự tan rã của guồng máy âm dương Trời Đất vậy!

    18. VẤN: Bạch Cha, tính nào Cha cũng có, trạng thái nào Cha cũng có, Cha luôn luôn sinh động, như vậy, Cha làm sao được thanh tịnh!

    ĐÁP: Này con, Cha là một khối sinh động vô cùng tận. Vì Cha là Đấng Toàn Giác nên trạng thái nào Cha cũng có, nếu Cha không biết đến trạng thái nào sao gọi Cha toàn giác? Vì Cha là Đấng Toàn Năng, nên Cha phải làm hết mọi thứ, chuyện gì Cha cũng làm. Nếu Cha không làm một chuyện gì sao gọi Cha toàn năng? Trạng thái nào cũng có, chuyện gì Cha cũng làm, do đó Cha phải là thằng cực động. Song chính vì Cha cực động nên Cha thành cực tịnh luôn con!
    Con hãy hình dung, nếu một vật đứng im trước mắt con, con sẽ thấy nó rõ rệt. Khi nó bắt đầu di động, con sẽ khó thấy nó hơn một chút. Khi nó chuyển động ở một tốc lực nhanh, con sẽ thấy nó ẩn ẩn, hiện hiện, không còn rõ nữa. Và khi nó chuyển động với một tốc lực nhanh hơn tốc lực mà đôi mắt con có thể kiểm soát được, thì vật ấy bỗng trở nên như biến mất, như vô hình, con không còn thấy được nó nữa. Vậy, phải chăng vật có rồi thành không? Nói hiện tượng này để con tạm phần nào hình dung Thượng Đế. Vì Thượng Đế ở trạng thái cực động và động đến một vận tốc kinh hồn, nên Ngài trở thành hư không vắng lặng, cực thanh cực tịnh đó con.
    Cho nên, “sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc là vậy.” Có mà không, không mà có, trong cái không nó có cái có, trong cái có nó có cái không. Vì vậy, con đừng ngộ nhận rằng hư không là một khối trống rỗng chẳng có thứ gì, chẳng có cảm giác gì, chẳng có trạng thái gì, thế thì cái hư không đó, có gì hay, đẹp, có gì quyến rũ để đạt tới đó đâu?
    Các con lầm to rồi! Thực sự, hư không là một khối sinh động, mãnh liệt vô biên, đến mức độ nó trở nên cực thanh tịnh, không không, như như vô cùng tận. Do vậy, nó không rỗng tuếch mà bao gồm mọi thứ, mọi tính, mọi trạng thái từ trược tới thanh, gồm cả Địa Ngục, trần gian, Niết Bàn v.v... Nó gồm mọi cảnh sắc sinh động, không thiếu một thứ gì. Có như vậy hư không mới là một nguyên lý vô cùng, là chơn lý tối thượng, là Thượng Đế đó con! Vì chơn lý tối thượng gồm mọi trạng thái trược, thanh, ác, thiện, tối, sáng v.v...
    Nếu hư không là chơn lý tối thượng thì hư không phải gồm hết những thứ đó chớ con! Cho nên nguyên lý vô cùng tức chơn lý tối thượng, cũng gọi là Thượng Đế và cũng là hư không đó! Thượng Đế cũng có tên là Đấng Hư Không! Thế nên, ở ngôi của Đấng Hư Không, Cha hưởng vô cùng tận, Cha nếm hết, hưởng hết, biết hết mọi cảm giác, mọi trạng thái, mọi cảnh sắc cùng một lúc, và trạng thái “Động cực Động” mà “Tịnh cực Tịnh” này thật đẹp đẽ, thật tráng lệ, thật tuyệt diệu, thật kỳ ảo, vô lượng vô biên, mà không một ngôn ngữ, không một bút mực nào nói lên hết được. Mọi diễn tả đều phải bất lực trước hư không!
    Và nếu hư không diễn tả ra được, thì đó chẳng còn là chơn lý bất khả2 tư nghị3 rồi! Những cái này thật cao siêu, các con rán có một chút ý (2 Bất khả: Không thể. 3 Tư nghị: Bàn thảo công việc.) niệm về nó, vì chỉ khi con về ngôi Cha chứng nghiệm nó, con mới thật hiểu nó mà thôi!

    19. VẤN: Thưa Cha, Cha hưởng vô cùng tận, vậy Cha có cảm giác đau khổ không?

    ĐÁP: Phải có chớ con, Cha không thiếu một cảm giác gì! Cha vui vô cùng tận và cũng khổ vô cùng tận. Nhưng có điều Cha hưởng cái vui và cái cảm giác khổ đó, Cha cũng hưởng luôn. Các con để ý Cha dùng chữ “hưởng khổ.” Cho nên, khổ trở thành là một cảm giác, một trạng thái cần thiết để đóng góp vào cái lạc thú vô cùng tận của Cha, và nó cũng không thể thiếu cho sự sống còn của chơn lý tối thượng vậy.

    20. VẤN: Thưa Cha, trong một quyển sách do ông Tư (Đỗ Thuần Hậu), ông Tổ môn phái Vô Vi, đã có viết rằng Ngọc Hoàng Thượng Đế ở ngôi thứ hai, còn Đức Hắc Bì Phật Tổ nắm quyền chủ tể âm dương ở ngôi thứ nhứt. Vậy xin Cha cho chúng con hiểu rõ điều này.

    ĐÁP: Hắc Bì Phật Tổ nắm quyền chủ tể âm dương chính là Cha ở Ngôi Thái Cực đó thôi con. Danh Hắc Bì Phật Tổ cũng là danh của Cha nữa.
    Hắc Bì Phật Tổ hay Huyền Khung Cao Thượng Đế Đại Thiên Tôn, hay Ngọc Hoàng Thượng Đế Vô Cực Đại Thiên Tôn v.v... cũng là Cha! Cha có vô số danh. Bên Cao Đài Giáo, Cha còn tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát hay Phước Đức Tiên Ông Kim Viết Cao Đài v.v... nữa đó con! Cho nên, nếu chúng con muốn tưởng Cha, muốn niệm danh Cha, chúng con có thể niệm: “Nam Mô Huyền Khung Cao Thượng Đế Đại Thiên Tôn” hay “Nam Mô Hắc Bì Phật Tổ” v.v... đều được cả, miễn rằng khi con niệm danh đó, ý con tưởng nhớ đến đấng tạo hóa muôn loài là được rồi.
    Last edited by dienthoai; 08-05-2011 at 11:41 AM.

  7. #7

    Mặc định

    21. VẤN: Thưa Cha, trước đây ông Tám thầy chúng con có dạy niệm Lục Tự Di Đà để mở sáu luân xa trong bản thể, hầu chúng con đạt được lục thông. Ông Tám có dặn rõ phải niệm sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật, dù là người ngoại quốc học thiền theo phái Vô Vi, khi hành pháp, cũng phải học niệm theo tiếng Việt Nam. Vì ông Tám cho biết khi niệm đúng âm thanh sáu chữ đó theo tiếng Việt Nam thì hiệu quả mới tốt. Vậy xin Cha giải thêm cho chúng con hiểu điều này.

    ĐÁP: A Di Đà Phật hay Vô Lượng Quang Phật là tên của một vị Phật sáng suốt vô lượng tượng trưng cho sự sáng suốt của càn khôn hay phần trí tuệ của Thượng Đế. Trong chúng con cũng có A Di Đà Phật vậy. Vì chúng con là những Tiểu Thượng Đế mà! A Di Đà Phật là thể tính sang suốt trong chúng con mà chúng con đã để nó bị mốc meo, bị rêu phong phủ bám khi chúng con học trược đấy!
    Cho nên, khi chúng con chợt tỉnh giấc mê trầm đã vùi lấp bao lâu phần trí tuệ của mình, và muốn đi lên chỗ sáng suốt, các con hãy mật niệm danh hiệu này, quán tưởng nó luôn luôn, để đánh thức và phát triển dần dần sự sáng suốt trong chúng con. Vì quán tưởng luôn luôn đến A Di Đà Phật tức là tưởng nhớ luôn luôn đến thể tính sáng suốt của con. Tưởng nhớ đến thể tính đó mãi thì tự nhiên nó sinh động lên, sẽ phát triển cho đến khi nó ngự trị trong con. Đó là một cách rất hay để con mau được sáng suốt.
    Cho nên, lúc con mật niệm trong tâm danh hiệu này một cách sốt sắng, không bị chi phối lo ra và nếu tâm con được vắng lặng thì khi ấy, sáu chữ này sẽ rung động trong con, phát ra luồng sóng điện chạy quanh sáu luân xa và phát quang tại mỗi luân xa đó. Con nào đã mở chút huệ nhãn, khi niệm Lục Tự Di Đà sẽ chứng nghiệm được hiện tượng này. Nhờ đó, sáu luân xa trong bản thể sẽ được khai mở từ từ, phát triển dần dần, để giúp con đạt được lục thông. Tuy nhiên Cha thấy việc niệm Lục Tự Di Đà theo âm điệu Việt Nam có đôi khi trở ngại cho nhiều con người Âu Mỹ. Nếu những con này thấy có sự khó khăn trong cách niệm theo tiếng Việt Nam, nó có thể niệm theo Phạn Ngữ “NAM MÔ A MI TA BA” (Amitaba: Amitabha: A Di Đà Phật) sáu chữ này là Phạn Ngữ có nghĩa là “Đầu cúi lạy Đức Vô Lượng Quang Phật” được phiên âm ra tiếng Việt Nam thành Nam Mô A Di Đà Phật. Nếu các con niệm theo Phạn Ngữ, sáu âm thinh này còn tốt hơn sáu âm thinh Việt Nam nữa. Vì âm thinh của Phạn Ngữ phát ra gần giống với âm thinh chuyển động của càn khôn vũ trụ và âm ba của nó rung lên, gần ăn nhịp với âm ba chuyển động của càn khôn, giúp them sức mạnh cho luồng điển chuyển động tốt.
    Ở đây, Cha dùng chữ âm thinh có nghĩa là âm thinh điển, không thể nghe được bằng tai trần, chỉ nghe nó khi con mở được huệ nhĩ mà thôi.
    Các con nên nhớ, khi niệm bất cứ điều gì, phải niệm trong tâm, niệm bằng tư tưởng, đừng niệm trong miệng khiến hao khí điển. Con nên ngậm miệng lại, co lưỡi răng kề răng bế kín khẩu. Động tác này sẽ giúp cho mạch Nhâm, mạch Đốc nơi đó được giao nhau và điển trong người con, lúc ấy sẽ được chuyển động liên tục, mà không bị thất thoát ra ngoài theo cửa khẩu do sự nối liền của hai mạch này. Nhờ vậy, mà điển lực trong con được sung mãn hơn. Cho nên trong ngày, nếu không có điều hữu ích hay cần thiết phải nói nên tịnh bớt khẩu, dành tâm trí niệm Phật, hoặc niệm Cha để tâm đỡ tán loạn, bế miệng lại càng nhiều càng tốt để đỡ mất điển.
    Con nên nhớ, lo nghĩ nhiều thì thần tán, nói nhiều thì khí hao, dục nhiều thì tinh mất. Muốn đi vào thiên đạo, lên đến chỗ sáng suốt an lạc, các con phải rán giữ tam bửu: Tinh, Khí, Thần, lo vun bồi nó luôn luôn, để khỏi bị suy điển lực, khiến tiêu mòn dần sự sáng suốt trong con.

    22. VẤN: Thưa Cha chúng con niệm Lục Tư Di Đà để mở lục thông và được sáng suốt. Vậy xin Cha cho biết, việc niệm danh Cha hiệu quả thế nào, so với danh hiệu Đức A Di Đà. Chúng con thấy những danh khác nhau của Cha không có số chữ nhứt định như Lục Tự Di Đà, xin Cha cho biết số chữ trong danh Cha có ảnh hưởng gì trong việc niệm không?

    ĐÁP: À những danh khác nhau của Cha không có số chữ nhất định. Số chữ có khi dài khi ngắn, điều đó cho thấy rằng Cha vô giới hạn, không trụ lại ở một giới hạn nào. Thế nên, con niệm danh nào cũng được, vì số chữ không ảnh hưởng gì đến việc niệm Cha, con số nào cũng là Cha hết. Miễn rằng tư tưởng con lúc đó biết nghĩ hợp nhất với đấng tạo hóa muôn loài. Cha thấy những con ở nước ngoài là người Âu Mỹ chẳng hạn, có khi băn khoăn thấy hồng danh Cha theo Việt Ngữ khó niệm và khó nhớ. Trường hợp này, các con cứ việc niệm “Thượng Đế Đấng Tạo Hóa” dịch theo ngôn ngữ các con đều được cả.
    Vì khi các con trụ tâm tưởng nhớ đến ĐấngTạo Hóa muôn loài, Tiểu Hồn con sẽ rung động, linh quang con sáng lên, gửi tín hiệu liên lạc với Đại Hồn Cha. Và nếu khi ấy con biết quán tưởng sự hợp nhất của con với Đại Hồn Cha, thì điển quang của con sẽ hòa vào với khối Đại Linh Quang của càn khôn. Nếu con biết hành điều này luôn luôn, và tâm tư con lúc nào cũng tưởng nhớ hợp nhất với Thượng Đế, tất nhiên Tiểu Hồn con sẽ mau được sáng suốt, sẽ tiến hóa nhanh đến chỗ hợp nhất với Thượng Đế, trở về với cội nguồn của mọi sự sống. Còn việc con hỏi niệm danh Cha hiệu quả thế nào so với danh A Di Đà Phật?
    Cha sẽ cho các con rõ: khi con niệm LỤC TỰ DI ĐÀ là lúc con đánh thức cái thể tính sang suốt trong con bằng cách tưởng nhớ đến nó. Cái thể tính sáng suốt ấy nhờ đó mà phát triển cho đến lúc đạt được, khiến con nhìn thấy cội nguồn, nhận diện nguyên lai bổn tánh và nhìn được bản chất Thượng Đế của con. Con niệm danh Cha có ý nghĩa gì? Con niệm danh Cha tức là niệm chính danh của linh hồn con đó. Vì con chính thật là gì? Là một chiết hồn, một Tiểu Linh Quang của Thượng Đế xuống thế để đi học, để hiểu biết mọi bản chất của mình, rồi trở về ngôi vị cũ, khi linh quang con đã thật sự đủ sáng để hòa vào Đại Khối Linh Quang.
    Cho nên, khi con niệm danh Cha, tức danh thật của con thì chơn thần con hay linh hồn con cũng vậy, lúc ấy sẽ thức tỉnh. Con niệm danh Cha, tức là con niệm danh con, con đảnh lễ con, con kích động, nhắc nhở con bừng dậy, sinh động, nắm lại quyền Chủ Nhơn Ông điều khiển cái Tiểu Càn Khôn của con. Bấy lâu nay, con để con hôn trầm trong mê muội, ngụp lặn trong tăm tối, con chẳng biết làm chủ, chẳng biết điều hành chỉ huy cái Tiểu Vũ Trụ của con, khiến cho mọi trật tự bị đảo lộn, mọi tổ chức bị rối loạn, vì con quá yếu ớt, vì con mãi mơ màng trong giấc cô miên, như đã quên đi chính mình. Thế nên, khi niệm danh Cha là lúc con tưởng nhớ đến con, lay gọi con thức dậy, sự kiện này sẽ kích thích Tiểu Linh Quang sinh động lại, dần dần bừng tỉnh khỏi cơn mê trầm, để nắm lại quyền Chủ Nhơn Ông của nó. Nhờ đó, Tiểu Hồn sẽ từ từ thức giác, biết nó là ai, từ đâu đến và phải về đâu? Nó sẽ biết nó hơn dần dần, để càng lúc càng thức giác vai trò lãnh đạo của nó trong cái Tiểu Càn Khôn mà nó phải cai quản, để nó lo điều động tổ chức lại những trật tự đã bị hư hỏng vì sự mê ngủ của nó.
    Cho nên, niệm A Di Đà là đánh thức phần sáng suốt trong con. Niệm danh Thượng Đế là đánh thức trực tiếp chính con vậy. Và khi con đã thức dậy, sinh động lại, có nghĩa là thể tính sáng suốt trong con tự nhiên nó phải sinh động lại rồi, vì nó là một thành phần của con, con ngủ thì nó ngủ, con thức thì tự nhiên nó thức. Do vậy, để con thấy rằng niệm danh Thượng Đế tức là đã niệm A Di Đà trong đó rồi, khỏi có gì thắc mắc, sợ niệm danh Cha, bỏ niệm A Di Đà không mở được lục thông. Mở luôn chớ con! Vì khi chính con tỉnh dậy, phần sáng suốt trong con, dĩ nhiên sẽ sinh động lại, phát triển dần, các luân xa trong con nhờ đó mà mở và phát triển.
    Con ơi, Thượng Đế là càn khôn vũ trụ, niệm Thượng Đế là gồm cả càn khôn trong đó rồi. Mọi Phật, Tiên, Thần, Thánh đều có trong đó, con chẳng sợ thiếu thứ gì, các con khỏi phải lo vừa niệm Thượng Đế, vừa niệm cả Di Đà, Quán Âm v.v... Nhiều đứa, Cha thấy vừa niệm danh Cha, vừa niệm Di Đà, vừa niệm danh nhiều vị Phật khác. Nghĩ rằng nhiều vị như vậy “chắc ăn” hơn, nhiều vị sẽ phò hộ cho mình tốt hơn! Nghĩ vậy, vì các con này chưa hiểu nguyên lý của Trời Đất, chưa hiểu nó là ai, chưa biết bản chất Thượng Đế của nó. Nó chưa thấy được sự vĩ đại của nó đến ngần nào. Nó không biết nó vốn dĩ là vị chúa tể cai quản cả càn khôn vũ trụ, Di Đà, Quán Âm, Đại Thế Chí v.v... thật sự, đều có trong bản thể nó, là những thành phần của nó, đều dưới quyền coi sóc quản trị của nó đó thôi!
    A Di Đà là phần sáng suốt tức thể Trí của nó, Quán Âm là tính yêu thương tức thể Bi của nó, Đại Thế Chí là ý lực tức thể Dũng của nó đó thôi. Cho nên, dưới trần gian, các con thờ “Tam Thể Phật” mà không hiểu ba vị Phật này tượng trưng cho ba thể tính Bi Trí Dũng của Thượng Đế. Bên Thiên Chúa Giáo cũng vậy, thờ Chúa Ba Ngôi, Đức Chúa Cha chính là thể Trí, Đức Chúa Con ngôi tình yêu tức thể Bi, Đức Chúa Thánh Thần là ý lực của Thượng Đế tức thể Dũng vậy.
    Các con, phần đông không hiểu chơn lý nên chỉ cầu Chúa, niệm Phật, niệm Thượng Đế, trong tinh thần ỷ lại vào sự cứu giúp, sự phò hộ, vì nghĩ rằng, các vị Phật, Chúa ấy ở đâu đâu ngoài con, chớ không hiểu rằng các vị này đều vừa có ở ngoài Đại Vũ Trụ, vừa có cả trong bản thể con nữa. Đấy là những thể tính của Thượng Đế mà cũng là của con, và Thượng Đế chính thật là con đó! Chưa hiểu được điều này, mà chỉ cầu hoặc niệm để được sự phò hộ, sự cứu rỗi, đấy là còn mê tín, là vọng cầu, vọng niệm mà thôi! Đa số các con niệm Di Đà để xin Di Đà che chở, niệm Quán Âm để xin Quán Âm cứu nạn, giờ đây biết niệm danh Thượng Đế thường là cũng xin Thượng Đế cứu độ con thoát qua tai ách v.v... ấy là những vọng cầu, vọng niệm, vọng tưởng, vì con chưa hiểu con đó thôi! Vậy thế nào là chánh niệm?
    Khi con niệm Lục Tự Di Đà con phải hiểu rằng con đang lay động, nhắc nhở, đánh thức tính sáng suốt, khơi dậy ánh sáng trong con, để con vượt lên sự tăm tối ngu muội. Đấy mới tưởng Di Đà ở đúng vị trí của Di Đà. Khi con niệm Nam Mô Đại Bi Cứu Khổ Quán Thế Âm Bồ Tát, con hiểu rằng, con đang đánh thức tính yêu thương tức thể Bi trong con.
    Đánh thức nó tỉnh dậy, phát triển nó để tâm con mở rộng luôn luôn hành thiện cứu khổ, ban vui. Đấy là con biết tưởng Quán Âm đúng vị trí của Quán Âm. Khi con niệm danh Thượng Đế, con phải hiểu con cũng đang niệm chính danh của con đó. Con vốn dĩ là Thượng Đế phân hồn ra thành Tiểu Linh Quang xuống đây đi học, con là Chủ Nhân Ông đang điều khiển cái Tiểu Thiên Địa của con, bản chất của con y như bản chất của Đấng Tạo Hóa muôn loài và khi đọc danh hiệu này, tâm thức con hãy hòa vào tâm thức của càn khôn, rung động cùng một nhịp với Đại Hồn Vũ Trụ.
    Đấy là con biết tưởng Thượng Đế như ý Thượng Đế muốn, và con cũng đã đặt con ở đúng vị trí của con. Niệm như vậy mới là biết niệm. Đấy là chánh niệm mà cũng là chánh kiến, chánh tín, chánh định, chánh tư duy của Phật Giáo đó con. Và Cha cho chúng con rõ, khi con biết chánh niệm, thì dù không cầu, không vọng, sự phò hộ chở che cứu giúp, con lại được hộ giúp, che chở hữu hiệu hơn, đắc lực hơn nữa. Tại sao? Lẽ dễ hiểu là vì kẻ vọng niệm phần trí tuệ chưa sáng bằng kẻ chánh niệm. Linh hồn nó yếu đuối và kém tiến hóa hơn vì chỉ biết hướng tới tha lực mà không biết tự lực, chỉ thấy sức mạnh bên ngoài mà không thấy sức mạnh có sẵn trong chính nó để biết tận dụng sức mạnh đó. Cho nên, khi con niệm để cầu được cứu giúp, điển của con không sang bằng khi con biết chánh niệm. Vì nếu con biết chánh niệm, khi ấy điển trong bản thể con sẽ hòa cảm với khối điển sáng suốt của càn khôn.
    Niệm Di Đà thì phần điển Di Đà trong con bật sáng chuyển động hòa với khối điển Di Đà, tức phần điển Trí của càn khôn. Niệm Quán Âm là phần điển Quán Âm của con sáng lên rung động, hòa cảm với khối điển Quán Âm tức phần điển Bi của càn khôn.
    Niệm danh Thượng Đế thì chơn thần con rung động, Tiểu Linh Quang lóe sáng hòa với khối Đại Linh Quang. Nhờ đó, đứa biết chánh niệm, sẽ tự bao quanh nó một khối lượng điển lành nhiều hơn đứa vọng niệm. Khối điển tốt lành đó sẽ che chở, hóa giải bớt cho nó điều khổ nạn do nghiệp lực khảo đảo nó, và nếu khối điển lành bao quanh, càng lớn chừng nào thì nó được hưởng sự che chở, sự hóa giải điều khổ nạn nhiều hơn chừng ấy, dù nó không cầu, không vọng sự cứu giúp phò hộ như kẻ vọng niệm. Ấy chính vì nó đã biết tự cứu, tự phò hộ, tự che chở nhờ hiểu được và biết tận dụng sức mạnh của chính nó có sẵn. Nhờ cái biết đó, mà nó đã tự bảo vệ nó hữu hiệu, trong khi kẻ vọng niệm, do ít sáng hơn nên không được hưởng bằng.
    Dĩ nhiên, trong khi con vọng cầu sự phò hộ thì các phần điển những vị trong khối sáng suốt của càn khôn cũng sẽ ban rải chút điển sang suốt xuống linh hồn con để phò hộ, cứu giúp, giải bớt khổ cho con nhờ con tưởng đến. Song sự vọng niệm sẽ khiến con bị chậm trễ đà tiến bộ, vì Tiểu Hồn cứ có thói quen nương tựa, ỷ lại vào tha lực, chờ đợi sự giúp sức nên mãi còn yếu đuối, trí tuệ còn lâu mở, và do đó, con phải tiến hóa trì trệ mà thôi!
    Tóm lại, khi con niệm Di Đà, phải thấy mình là Di Đà, khi con niệm Quán Âm phải thấy mình là Quán Âm, khi con niệm danh Thượng Đế, phải thấy mình là Thượng Đế và hợp nhứt với Đại Hồn Vũ Trụ. Biết niệm như vậy, con vừa giúp con được tiến hóa nhanh, mau sáng suốt, vừa lại biết tự phò hộ con, bảo vệ con hữu hiệu hơn, vì nếu sáng hơn, thanh hơn chừng nào, con sẽ hóa giải hữu hiệu hơn chừng ấy điều khổ nạn từ nghiệp lực do quả trược mà con đã gieo. Cha vừa giảng cho chúng con hiểu thêm cách thức niệm. Còn việc niệm Thượng Đế, con khỏi phải thắc mắc. Con nào biết niệm thì càng hay. Nếu còn băn khoăn, hay chưa quen, chưa hiểu, thì cứ tiếp tục niệm A Di Đà cũng được. Vì niệm
    Di Đà để mở sự sáng suốt, lúc nào, con đạt sang suốt rồi, tự nhiên, con sẽ thấy được Chủ Nhơn Ông là Thượng Đế đó thôi.

    (44 Ông Tám giảng về niệm danh Cha:
    “Nói về niệm danh Cha như đã nói ở bên trên, thì hiện nay lời minh triết phân giải bên trên nghe xuống cũng hiểu được niệm danh Cha là tại sao ? Niệm danh Cha là nhắc nhở mình: Mình từ trong Đại Hồn ra, bây giờ mình nhắc nhở Đại Hồn là mình về với TĐ.)

    23. VẤN: Bạch Cha, xin Cha cho chúng con biết pháp môn Vô Vi Huyền Bí Học mà chúng con đang hành có phải là Tâm Pháp không? Và xin Cha giảng rõ thế nào là Tâm Pháp? Thế nào là Bí Pháp?

    ĐÁP: Tâm pháp là pháp môn đi vào cái tâm, bỏ hữu vi hình tướng bên ngoài, trực tiến vào bên trong, hồi quang phản chiếu, soi lại mình, để thấy được cái nguyên lai bổn tánh của chính cái gì ? Về với Đại Hồn mình là linh căn của Đấng Tạo Hóa... thể hiện cái linh căn, căn bản của Đại Hồn tiến hóa để xuống thế gian.
    Nên ta niệm danh Cha là niệm danh mình, và con người ở thế gian bị vọng động cả ngày không biết nhắc nhở mình, không biết lo cho mình, cho nên, chúng ta niệm danh Cha cũng như ta nhắc cái phần hồn của chúng ta đừng cho sai chạy và lo sửa chữa tu hành cho tiến hóa về phần thanh điển mà chúng ta tưởng Đại Hồn, phải rõ Đại Hồn là ai ? Là danh hiệu Đấng hóa sinh vạn vật muôn loài.
    Khi ta tưởng tới đó tức là thanh nhẹ, cởi mở và sáng suốt bên trong, thì chúng ta mới được muôn đời sáng suốt. Sau cái sáng suốt đó mới phối hợp với Đại Hồn tiến hóa đi lên được. Nếu chúng ta không chịu nhắc nhở đến chúng ta, vậy chúng ta tu cái gì đây ? Tu để sửa chữa Chủ Nhơn Ông, nhưng mà quên Chủ Nhơn Ông thì làm cái gì đây ? Chỉ ta bà vọng động mà thôi.
    Vì đó, cho nên niệm danh Cha, còn không thì niệm Nam Mô A Di Đà Phật mở trí, rồi nó cũng thấy cái phận sự phải lo nó nhiều hơn, để rồi lo trở về với nó, là trở về nguồn cội. Cho nên, việc niệm danh Cha thì các bạn nghe qua cuốn băng từ đầu chí cuối cùng khuyến khích rõ ràng để dễ niệm hơn, không có gì thắc mắc.”mình. Tóm lại, Tâm pháp hay pháp thiền là pháp môn giúp con tìm hiểu con bằng cuộc nghiên cứu đi vào khoa học Vô Vi đó thôi!
    À, còn thế nào là Bí pháp? Bí pháp là pháp môn bí nhiệm, không được phổ truyền ra quảng đại quần chúng, và khi truyền pháp các hành giả chỉ dùng lối khẩu khẩu tương truyền.
    Xưa nay, Tâm pháp thường thường là Bí pháp và ít khi được phổ truyền, nên các con vẫn hay nghe nói đến những từ ngữ “Tâm pháp bí truyền” hay “Mật pháp tâm truyền” v.v... Vì sao giữ bí truyền?
    Ngày xưa, vào học đạo, khi một vị thầy hay Tổ muốn truyền Tâm pháp cho đệ tử, thường thì vị ấy phải theo dõi học trò, xem trong số các đệ tử có đứa nào hạnh tốt, nghiệp trần nhẹ rồi, và có tâm chí quyết cầu giải thoát, dứt bỏ trần ai, thì sẽ gọi đứa đó lại dùng lối khẩu khẩu tương truyền để dạy riêng nó, trao cho nó cái bí pháp quý giá, để nó tu luyện cầu giải thoát.
    Trước nay, thường là vậy. Còn cái pháp môn của phái Vô Vi Huyền Bí Học của chúng con đây cũng là Tâm pháp đó, nhưng có điều nó không giữ bí truyền mà lại phổ truyền ra quần chúng, ai muốn hành cũng được. Đấy, thuộc về “Tâm pháp phổ truyền.“ Các con muốn mau sáng, muốn huệ chóng mở để tiến hóa nhanh hầu thoát vòng tứ khổ, thoát đường ác đạo, thoát kiếp luân hồi, thì phải học thiền, phải hành Tâm pháp, siêng năng tinh tấn công phu mới được.

    24. VẤN: Bạch Cha, theo chúng con nghĩ, nếu Tâm pháp có thể giúp con người mau sáng, tiến hóa nhanh để tới nơi giải thoát, tại sao không phổ truyền để giúp quần chúng tu luyện mà giữ bí truyền? Đây có phải chăng vì các vị thầy Tổ còn hẹp hòi ích kỷ chẳng khác gì mấy Ông thầy thuốc giỏi, có thuốc hay mà lại chẳng muốn phổ biến, chỉ giữ lại mật truyền cho con cháu hay cho những người mình ưa thích?

    ĐÁP: À, đây Cha giải cho các con hiểu. Tại sao Tâm pháp thường thường lại không phổ biến cho quần chúng? Cũng có lý do con!
    Vì Tâm pháp là báu vật, nếu trao nhằm kẻ không xứng đáng hoặc không biết giữ gìn chẳng khác nào vứt báu vật xuống sông biển mà thôi!
    Nếu hành giả thọ tâm pháp mà nghiệp còn nặng, trần còn mê, tánh còn nặng trược, tâm chưa muốn dứt bỏ, ý chưa quyết cầu giải thoát thì nhận được pháp báu phỏng có ích gì? Chỉ khiến phá pháp hư hoại đi thôi!
    Vả chăng, luyện Thiền mà nghiệp lực còn nặng thì phải chịu khảo đảo khó ngồi cho yên, tâm còn luyến trần, tánh còn nặng trược, thì cứ bị thất tình lục dục phá phách luôn, khó mà định được tâm ý, dẫu có thọ pháp rồi cũng bê trễ, giải đãi công phu, có lúc sẽ vứt pháp nửa chừng thôi!
    Lại còn việc này nữa, các con nên biết, có nhiều pháp môn luyện đạo đòi hỏi hành giả phải có căn bản đức hạnh, có trình độ thanh nhẹ, khả dĩ làm nền tảng tu luyện, và việc luyện đạo còn phải được sự theo dõi kiểm soát thường xuyên của các vị thầy Tổ, các chơn sư đã truyền pháp cho hành giả nữa. Cẩn thận vậy, là để đề phòng mọi nguy hiểm có thể xảy ra cho người luyện đạo.
    Vì có nhiều pháp môn đòi hỏi phải theo dõi kiểm soát chặt chẽ sự vận chuyển luồng hỏa hầu trong bản thể để khai những bí huyệt, mở quyền năng cho hành giả. Do đó, nếu người luyện đạo, thọ những pháp này mà chưa được thanh nhẹ, tâm tánh còn trược nhiều, hoặc có khi hành sai pháp, vận chuyển sai luồng hỏa hầu, sự kiện này có thể khiến nguy hiểm đến tánh mạng hoặc điên loạn hay hư hoại cả bản thể người luyện đạo.
    Đấy là vài lý do trong những lý do khiến Tâm pháp thường khi là bí truyền. À, còn vì sao pháp môn Vô Vi Huyền Bí Học lại được phổ truyền? Thứ nhất, vì cách hành không quá khó học, việc vận chuyển tương đối ít nguy hiểm cho hành giả, nên có thể phổ biến trong quần chúng được. Kế đó, việc cho phổ truyền cũng do Thiên Ý mà thôi! Thượng Đế cho Đỗ Thuần Hậu tìm ra pháp này để phổ truyền đó!
    Vì sao? Vì ngươn này là ngươn chót. Kiếp này là mạt kiếp. Đây là kỷ nguyên điêu tàn, cùng khổ, để thanh lọc và tuyển chọn những phần hồn có trình độ vào Thượng Ngươn tái tạo tức Ngươn Thánh Đức.
    Vì là giai đoạn nhân loại phải chịu nhồi quả khảo thí, chịu đủ mọi cảnh khổ dưới cõi trần, nên hồng ân Thượng Đế cũng ban rải xuống để cứu vớt thêm số con cái của Ngài.
    Cho nên, đây cũng được xem là kỳ đại xá của Thiên Địa. Con nào rán tu, phát hùng tâm gắng sức phấn đấu để quyết chí trở về với Ngài, thì dù nghiệp nặng, căn thấp, Thượng Đế cũng sẽ rán tận độ và cứu rỗi. Vì vậy, Ngài cho đủ mọi phương tiện, mọi điều kiện, mọi cơ hội mà không còn giới hạn như trước nữa! Đem Tâm pháp dạy cả hạng thấp căn thiểu trí, còn vướng nặng nghiệp quả. Như vậy, để các con Ngài, dầu ở trình độ nào, căn sáng hay tối, nghiệp nặng hay nhẹ, đều có duyên may được trở về, nếu quyết lòng chịu tu tiến, chịu lo đi trong giai đoạn chót này. Rồi đây, nhiều pháp môn tinh luyện mà cách hành không quá phức tạp để có thể phổ biến trong quần chúng sẽ được Thượng Đế chuyển cho đem ra quảng bá, hầu giúp dân ở giai đoạn cuối này có đủ mọi hiệu xe, đủ mọi kiểu bè, ai thích thứ nào thì nương thứ đó mà về với Thượng Đế. Pháp môn Vô Vi Huyền Bí Học mà chúng con đang hành đây là một loại xe rất tốt để đưa chúng con về tới nơi giải thoát.
    Bên Cao Đài Giáo, về mặt Vô Vi, cũng có pháp môn tinh luyện, song từ trước tới nay, pháp tu Vô Vi của Cao Đài phổ biến rất giới hạn theo lối khẩu khẩu tương truyền. Nhưng rồi có lúc sẽ phải phổ truyền sâu rộng trong quần chúng thôi! Gần đây Cha có giáng cơ bút vài nơi và bắt đầu cho lịnh truyền ra dần dần pháp môn tinh luyện này rồi.

    25. VẤN: Bạch Cha, Cha có dạy muốn đi nhanh tới chỗ giải thoát phải hành Tâm pháp. Vậy những người không biết thiền, không hành Tâm pháp nhưng lại ăn ngay ở lành làm việc phước thiện, những người ấy có được giải thoát chăng?

    ĐÁP: Ở đây, phải đặt vấn đề, ăn ngay, ở lành, hành thiện tích phước với mục tiêu nào? Hành thiện để cầu phước hay để cầu giải thoát, hay làm lành chỉ vì muốn cứu khổ ban vui? Phải xem mục tiêu mới nói được. Con nào suốt đời làm lành, để cầu phước, tức là nó đã tự tạo nghiệp lành kéo nó luân hồi trở lại để hưởng những phước mà nó đã gieo. Hành thiện với tinh thần này cũng chỉ là trói buộc con trong vòng luân hồi chuyển kiếp, mãi mãi trầm luân trong tứ khổ mà thôi: vì khi luân hồi trở lại để hưởng phước báu, chắc gì con lại không gieo duyên nghiệp mới để chuyển kiếp lai sinh?
    Con nào suốt đời hành thiện để cầu giải thoát, tinh thần này tốt hơn, phần hồn này có tiến bộ hơn. Nhưng nếu nó tích phước nhiều quá mà phần trí tuệ chưa đủ sáng thì nó cũng phải chuyển kiếp trở lại để tu hành tiến hóa mở trí cho đến khi đủ minh để giải thoát. Tuy nhiên nhờ đã gieo nhiều phước đức kiếp trước, kiếp này nghiệp dữ sẽ đỡ khảo đảo nó, nó sẽ gặp nhiều duyên phước trên đường tu hành để hỗ trợ nó mau tiến hóa.
    Còn trường hợp con nào làm lành với tinh thần phục vụ muốn cứu khổ ban vui. Ấy là linh hồn này đã có trình độ tiến hóa cao. Hành thiện với tinh thần này sẽ giúp con mau mở trí, vì khi con hành động mà không cầu, không vọng, chỉ thuần khiết vì từ bi, thì những luồng sóng tư tưởng trong con lúc ấy rung động thật sáng đẹp, nhờ đó mà con phát triển Bồ Đề Tâm, mở trí Bát Nhã, hành thiện mà tâm thanh tịnh, không cầu, không vọng, chỉ muốn cứu khổ ban vui ấy là hạnh Bồ Tát, cũng giúp trí con mau tiến hóa tới chỗ sáng suốt thanh tịnh giải thoát.
    Nhưng Cha cho con rõ, muốn đi thật nhanh, muốn được đắc quả ngay trong một kiếp, con không thể chỉ hành thiện hoặc chỉ hành Tâm pháp riêng rẽ, mà con phải phước huệ song tu mới được. Nhứt là giai đoạn cuối Hạ Ngươn này, các con phải lo chạy nước rút, để kịp kỳ Đại Hội Long Hoa lần ba.
    Cho nên phải rán được phước huệ song tu thì mới mong kịp ngày giờ. Vả chăng, người thật tâm muốn cầu đạo vô thượng, muốn thoát vòng luân hồi tứ khổ, phải phước huệ song tu mà thôi. Và nếu chỉ được một trong hai thì linh hồn khi bỏ xác phải chuyển kiếp lại thế gian để vun bồi phần thiếu sót kia. Thật vậy, nếu con được phước mà thiếu huệ, thì linh hồn phải trở lại thế gian để trau dồi phần sáng suốt mà con chưa đạt được. Còn nếu con được huệ mà thiếu phước thì linh hồn con chưa được trở về cõi siêu thoát vì thiếu phần công quả, do đó phải đáo lại thế gian, lãnh sứ mạng, đem cái sáng suốt của mình độ dân tiến hóa cho đến khi công quả viên mãn mới được trở về hưởng cảnh thanh tịnh Niết Bàn.
    Điều này có thể chứng minh thực tế qua trường hợp Lương Sĩ Hằng đó con. Điển quang của nó đã xuất lên đến được cảnh giới Niết Bàn, nó mãn nguyện vì đã đến nơi sáng suốt giải thoát, thế là nó định dùng ý chí bỏ xác tịch diệt. Nhưng làm sao nó bỏ được cõi trần khi nhiệm vụ chưa tròn, công quả chưa viên mãn? Linh tử nó xuống thế với sứ mạng độ dân vào Đại Hội Long Hoa kỳ ba, bằng cách dạy tu Thiền theo Pháp Lý Vô Vi Huyền Bí Học. Nhưng nay, Đại Hội Long Hoa chưa trương bảng xướng danh, sứ mạng chưa tròn làm sao trở về? Dân còn đắm chìm trong đau khổ tối tăm và đang cơn khảo thí, dẫu nó có đắc quả siêu thoát cũng chưa thể trở về hưởng cảnh Niết Bàn.
    Thế nên, có lần nó muốn bỏ xác tịch diệt, Linh Quang về tới Niết Bàn bị điển quang Cha “đẩy” trở xuống nên không bỏ xác được. Việc này khiến có lần đa số chúng con đã chứng kiến hiện tượng nó sắp bỏ xác, rồi sau đó phải trở lại trần gian với chúng con đấy!
    Sau này ngộ được Cha dưới trần qua Đức Kim Thân, nó cũng xin được bỏ xác trở về, nhưng Cha đã cho nó rõ, sứ mạng nó chưa tròn; vả chăng Linh Tử nó dù đã về tới Phật Giới, sáng suốt thanh tịnh, nhưng Cơ Thánh Đức chưa tới, dân còn ngu muội đau khổ, còn cần tới sự dìu dắt tâm linh của nó, thì nó chưa thể nhận ngôi Phật an hưởng Niết Bàn, mà phải lãnh ngôi Bồ Tát, chịu cực khổ đi ta bà rong ruổi dưới cõi khổ để độ dân mà thôi!
    Việc Cha nói đây, các con có thể hỏi lại nó để rõ hơn. Nói điều này với các con, để các con hiểu thêm sự quan trọng của phần công quả cũng như công phu vậy.
    Cho nên, tóm lại các con phải săn sóc cả hai phần Phước và Huệ. Tu Huệ là siêng năng tinh tấn công phu, hành pháp tinh luyện để khai Thiên Môn mở lối cho Tiểu Hồn phăng đường về quê xưa cảnh cũ. Tu Phước là vun bồi công quả mà phải nhớ, hành công quả với tâm muốn cứu khổ ban vui, con sẽ mau sáng hơn và tiến hóa nhanh.

    26. VẤN: Bạch Cha, trước đây Ông Tám có dạy rằng, chúng con muốn siêu thoát thì chỉ nên chú trọng phần công phu, không nên lo việc công quả làm việc xã hội giúp đời. Vì đây là phần việc của khối Địa Tiên, không phải việc của người tu giải thoát. Nếu mình lo công quả làm việc phước thiện xã hội, tâm sẽ vọng động và phần hồn phải kẹt lại ở cõi Địa Tiên mà không lên được cõi Phật, và những vị ở cõi Địa Tiên còn phải xuống thế luân hồi. Ông Tám còn bảo tất cả chức vị giáo chủ, giáo lãnh, những chức vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo đều là vai trò của Địa Tiên cả. Xin Cha giải rõ cho chúng con việc này.

    ĐÁP: Câu hỏi này đã có lần Cha trả lời với một số bạn đạo ngoài Bà Rịa, lần đó có cả sự hiện diện của Tám. Sự thật, Tám nói việc này có phần đúng, nhưng cũng có sai. Đúng ở chỗ tất cả những việc ở cõi trần, từ chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội, tôn giáo v.v... Nói chung những tiến triển văn minh về vật chất cũng như tinh thần của nhơn loại dưới cõi trần đều thuộc sự điều hành vận chuyển của khối Địa Tiên. Tám cũng nói đúng ở chỗ các vai trò giáo chủ, giáo lãnh hay lãnh đạo tinh thần các tôn giáo đều là vai trò thuộc giới Địa Tiên. Vì giúp trần, lo cho trần gian là công việc của Địa Tiên đó. Nếu con nào xuất hồn lên được đến giới này, có cơ hội tiếp xúc với các vị trong Quần Tiên Hội Địa Tiên, con sẽ thấy các vị ở đây rộn rịp làm việc ngày đêm, lo cho sự tiến hóa dưới cõi trần đến thế nào, để rồi con sẽ rõ hơn những gì Cha vừa nói.
    Duy có điều Tám đã sai, khi cho rằng những con nào muốn tu siêu thoát mà lo làm công quả, lo việc xã hội giúp đời thì phần hồn kẹt lại ở cõi Địa Tiên không lên được Phật Giới, điều này sai. Kẹt lại cõi này hay không là tùy các con, tùy ở tâm thức, ở trình độ trí tuệ của các con đó thôi. Nếu các con làm việc giúp đời, đóng vai trò của Địa Tiên mà tâm con bị trói buộc vào vai trò đó, ham thích vai trò đó, chẳng hạn, làm giáo chủ mà ham thích vai trò giáo chủ, thì tâm thức con phải kẹt lại cõi Địa Tiên, phần trí tuệ chỉ tiến hóa đến đó và hồn con không thể đến cõi siêu thoát được! Nhưng nếu con làm việc giúp đời, đóng vai trò của Địa Tiên mà chỉ vì lòng từ bi muốn cứu khổ ban vui, muốn cứu độ chúng sanh thoát vòng trầm luân mê muội, muốn hỗ trợ chúng sanh tiến hóa, mà tâm con chẳng hề vọng động, chẳng bị trói buộc vào vai trò đó, ấy là tâm của Phật, hạnh của Phật, ấy là phần trí tuệ đã tiến hóa khỏi giới Địa Tiên, và do đó linh hồn con vẫn đến được cõi giải thoát như thường chứ con!
    Này con, hãy nhìn gương Thích Ca chẳng hạn! Nó là Phật mà đóng vai Địa Tiên đó! Là giáo chủ một tôn giáo lo việc cứu dân độ thế đó con! Nhưng Linh Quang của nó có vì thế mà bị kẹt lại cõi Địa Tiên đâu? Vai trò giáo chủ với nó chỉ là một thứ áo mão cần thiết phải khoác lên để cứu độ chúng sanh, chớ không vì thích áo giáo chủ. Đấy là làm Địa Tiên mà hạnh của Phật, thế nên, khoác vai Địa Tiên mà vẫn là Phật như thường.
    Vả chăng, nếu trước một việc cần thiết phải cứu khổ chúng sinh, phải lo hỗ trợ Cơ Tiến Hóa, mà còn câu nệ vai trò, sợ làm việc đó, đóng vai đó không có lợi cho mình, để việc đó người khác làm, đấy cũng là còn mê chấp, chưa đúng mức Bi Dũng. Do vậy, Bi Dũng cũng kẹt lại đó không phát triển hơn được! Bi Dũng không phát triển được thì Trí con cũng không mở hơn được! Và rồi thử hỏi, công việc giúp trần gian tiến hóa thực mênh mông không kể xiết, Cơ Tiến Hóa của Cha thực bao la vạn đại. Còn biết bao nhiêu việc phải làm để cứu độ các linh hồn còn đắm chìm trong mê muội, trì trệ trên con đường tiến hóa của nó! Vậy phải có chiến sĩ để làm việc chớ con!
    Nhưng rồi, Cha biết phải nhờ ai đây, nếu những đứa có trình độ sáng, hoặc có điều kiện, có phương tiện tốt lại từ chối vai trò giúp đời, đóng góp vào việc hỗ trợ tiến hóa quần sinh? Những đứa không tu, Cha đã không cậy nhờ gì được ở phần cứu khổ, chỉ trông cậy vào những con biết tu, biết hướng thượng và có chút tâm hồn để tiếp tay cứu khổ trần gian.
    Nhưng rồi, nếu những con này chỉ biết lo tu, hầu được về chỗ sáng hưởng an lạc một mình, để lại gánh trần gian với triệu ức sinh linh mê muội này cho những ai muốn gánh nó thì gánh! Ai gánh bây giờ con? Nếu không phải là những con biết tu biết thức giác quay về nẻo thiện, lo tìm chỗ sáng?
    Nhưng rồi, nó phải hiểu được chơn lý chỗ này: lo cho người tức lo cho ta, giúp người tiến hóa tức giúp ta tiến hóa. Tu là làm hành trình học Bi, Trí, Dũng phát triển Bi, Trí, Dũng cho đến vô cùng tận. Làm công quả giúp đời, cứu khổ trần gian với tất cả khả năng của con, ấy là một trong những cách phát triển Bi, Trí, Dũng đó thôi.
    Song, Cha thấy rằng, Tám nói là nói vậy, có thể vì sợ tâm thức các con yếu đuối, có thể bị mê muội rồi vọng động vào các vai trò hành thiện giúp đời, khiến phần trí tuệ không tiến hóa lên đến chỗ cao siêu, nhưng rồi con hãy xem gương của Tám, phần trí tuệ đã tới Phật Giới, nhưng nó cũng đang đóng vai Địa Tiên đó con! Nó cũng đang thực thi công quả, tận dụng trí tuệ để tế độ quần sinh. Nó luôn luôn ban rải sự hiểu biết, ban rải khối thanh điển của nó để cứu khổ muôn người.
    Và rồi, cũng xông pha làm việc xã hội bằng cách trị bệnh giúp đời đó con! Và rồi con hãy nhìn lại quãng đời tu hành của nó, từ khi Tám bắt đầu phát huệ, là đã tận dụng sự hiểu biết của mình để hỗ trợ cho kẻ khác tiến hóa. Mặt hữu hình thì lo giảng pháp khuyến người tu, mặt vô hình, thì xuất điển đi giúp bạn đạo hành pháp hay đi tế độ vong nhân, lo hỗ trợ tiến hóa cho các linh hồn ở những cảnh thấp của cõi trung giới. Đấy là Tám lo lập công bồi đức, vun bồi âm chất để hỗ trợ con đường tu tiến của nó. Nhờ vậy nó mới được mau sáng, tiến hóa thật nhanh, và đến nay, điển quang của nó mới tới được Phật Giới nhanh như vậy chớ con! Đấy con xem, ngoài phần công phu, Tám đâu có thờ ơ phần công quả chút nào? Đã chẳng những Tám chăm lo Công Phu, vun bồi Công Quả rồi còn chăm sóc Công Trình luôn luôn nữa à con!
    “Tam công nghe con!“ Công trình là gì con? Là trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, tức là việc lập hạnh đó con! Con thấy rõ, khi Tám bắt đầu tu đã chuyên chú việc lập hạnh, trì trai giới nghiêm ngặt, dứt bỏ tâm trần, khiêm tốn, nhẫn nhục, ngày đêm tinh tấn công phu không dám bê trễ chút nào. Cho nên, vậy để con thấy rằng: muốn đi nhanh, muốn mau sáng, phải gắng hành Tam Công cho rốt ráo, không giải đãi phần nào. Hành Tam Công cũng để phát triển Bi, Trí, Dũng đó thôi.
    Công quả là thể hiện chữ Bi
    Công phu là thể hiện chữ Trí
    Công trình là thể hiện chữ Dũng.
    Vì việc lập hạnh mà thiếu Dũng ắt không làm được, nên việc lập hạnh cũng là cách trau dồi chữ Dũng đó thôi.
    Tuy nhiên, Cha thấy đa số các con tu phái Vô Vi, vì chưa hiểu nên đặt nặng phần công phu, coi khinh công quả. Nghĩ rằng muốn mau sáng chỉ cần lo công phu để mở huệ mở trí. Nhưng con ơi, con phải biết rằng: Muốn mở Trí phải học Bi, Bi nhiều hơn, Dũng nhiều hơn, Trí mới được sáng hơn con! Bi càng lớn, Dũng càng nhiều thì Trí càng mở. Bi con nhỏ hẹp, Dũng con yếu hèn thì Trí con không thể mở lên cao được.
    Nên nhớ rằng, khi con biết thương nhiều hơn, con mới được sáng hơn. Nếu tâm con nhỏ hẹp, thiếu từ ái, điển của con chỉ la đà dưới các cõi thấp mà không lên cao được. Do đó, muốn về tới Phật thì con phải học mở tâm ra yêu thương chúng sinh, lo cứu khổ chúng sinh, vì tâm Phật là tâm yêu chúng sinh vạn vật, nhờ tâm đó Phật mới chói sáng trí tuệ và về được cõi giải thoát. Nhưng rồi, Cha nói ngược lại, mục đích việc công phu của con là để mở Trí, nhưng có Trí cũng chỉ để thức giác biết thương hơn tức Bi, biết thương hơn để xông lướt dùng ý chí phấn đấu với phàm ngã để chịu khó chịu cực, lo cứu khổ chúng sinh tức là Dũng.
    Nói tóm lại, con thấy phải chăng rằng:
    Nếu con có Trí tức sẽ có Bi Dũng
    Nếu con có Dũng tức sẽ có Bi Trí
    Nếu con có Bi tức sẽ có Trí Dũng
    Vậy có nghĩa là:
    Muốn đạt được Trí con phải có Bi Dũng
    Muốn đạt được Dũng con phải có Bi Trí
    Muốn đạt được Bi con phải có Trí Dũng
    Những đức tính này tương quan chặt chẽ với nhau và con sẽ phải lo phát triển nó luôn luôn trên con đường phản bổn quy nguyên bằng cách hành Tam Công cho rốt ráo đó con!

    27. VẤN: Thưa Cha, nhờ Cha dạy để con tiếp thu, Cha bảo con phải thương, nhưng con muốn thương mà tâm nó không thương, nó không tự động thương, con phải làm sao?

    ĐÁP: Con bảo rằng “Con muốn thương mà nó không chịu thương” con biết vì sao không? Vì phần hồn Chủ Nhơn Ông muốn thương nhưng lục căn nó lại chưa biết thương mà phần hồn vì yếu đuối để lục căn lấn lướt rồi nghe theo lục căn luôn! Cho nên, khi con tức Chủ Nhơn Ông muốn thương mà lục căn không chịu thương là bởi nó chưa biết thương.
    Nó chưa biết thì con phải dạy nó học thương, tập cho nó thương. Con dạy bằng cách nào? Con dạy không những chỉ bằng cách công phu tịnh luyện để giúp lục căn sáng hơn, biết hơn mà phải bằng cách làm Công Quả nữa! Vì Công Quả là cơ hội để phần hồn bắt lục căn học thực hành tình thương. Nếu nó không chịu hành động theo ý muốn của phần hồn vì chưa biết thương thì phần hồn phải dùng ý chí cương quyết để bắt nó nghe lời trước một công tác tình thương và phụng sự đòi hỏi sự cố gắng của nó. Nhờ những bài học thực hành đó, dần dần, lục căn tiêm nhiễm những thói quen tốt lành và rồi tự động sẽ biết thương hơn. Nhờ biết thương hơn nên lục căn được sáng hơn đó con. Đấy phải chăng cũng là một cách hóa độ lục căn trong bản thể, giúp nó sáng hơn bằng cách thực thi công quả? Và phải chăng công quả cũng là dịp con yêu thương chúng sanh trong bản thể của con? Nhiều con trong phái Vô Vi cho rằng Tám dạy thực thi lòng từ ái là lo yêu thương chúng sanh trong bản thể, tức là chỉ lo công phu để hóa độ chúng nó.
    Nhưng rồi con vừa thấy, giúp chúng nó sáng, không phải chỉ bằng phép Công Phu mà bằng cả Công Quả nữa! Con nên nhớ làm Công Quả là học Bi bằng cách thực hành, học Bi mà không thực hành thì không thể thuộc chữ Bi, chữ Bi không thuộc thì Trí không mở, do vậy, làm sao con tiến lên cao được? Không tiến lên cao được làm sao con cứu độ chúng sanh trong bản thể của con?

    28. VẤN: Thưa Cha, nhưng con không có cơ duyên làm công quả, thiếu phương tiện để làm phước. Nhờ Cha dạy con phải làm sao?

    ĐÁP: Việc con nói không có cơ duyên. Khi thương, tự động con sẽ thấy có cơ hội để con làm, để phục vụ. Con nên tìm cơ hội để làm, chứ đừng để cơ hội tìm đến con. Con muốn đi mau, muốn sáng nhanh, mà con không chịu dọn gai góc, thì con đi tự nhiên con bị trì kéo thôi, vì nghiệp trần còn nặng, thì làm sao con đi dễ dàng khỏi bị khảo đảo, khỏi bị trì trệ chậm trễ? Do vậy, con phải lo hóa giải nghiệp lực bớt đi, bằng cách trả nợ trần, phục vụ quần sinh, lập công bồi đức, để vun bồi âm chất, dụng phước trừ nghiệp.
    Có vậy, nợ trần mới nhẹ dần, nghiệp chướng tiêu bớt, con đi mới dễ. Nghiệp nặng, thiếu phước đức, con muốn tu tiến đi lên cũng phải chịu nhiều khảo đảo đắng cay, khó đi nhanh được! Còn con nói thiếu phương tiện để làm phước, Cha cho rõ, phải quan niệm công quả một cách rộng rãi phóng khoáng, không phải chỉ bố thí vật chất tiền bạc cho người nghèo khổ mới là công quả. Phải hiểu công quả bao la hơn, là bố thí cả vật chất lẫn tinh thần, là cứu khổ ban vui, là phụng sự giúp chúng sanh tiến hóa.
    Nếu con biết hơn, con sẽ thấy, hay nhứt là bố thí thanh điển, vì thanh điển sẽ giúp chúng sanh bớt nặng nề ngu muội đau khổ. Hằng ngày các con có thể ban rải những tư tưởng tốt lành thánh thiện ra trong không gian để giúp những kẻ yếu đuối tối tăm ác trược được vươn lên. Đấy cũng là cách bố thí rất hay và là công quả đó! Cách bố thí này nếu con hành luôn luôn trong ngày, con sẽ giữ được con thanh hơn, đấy là con đã đem điển của mình vượt qua lớp trược khí dày đặc để lên được tầng thanh điển của càn khôn, nhờ vậy, con được nhẹ nhàng sáng suốt phát triển nhanh phần trí tuệ.

    29. VẤN: Bạch Cha, chúng con thấy trong các bài đàn cơ hay nói tới Tam Công Tứ Lượng. Cha giảng cho chúng con hiểu Tam Công rồi, nhưng chúng con chưa hiểu Tứ Lượng là gì?

    ĐÁP: Tứ Lượng đây là “Tứ Vô Lượng Tâm”, là bốn hạnh cần thiết của người tu, tức là Từ, Bi, Hỉ, Xả. Bốn hạnh này gom lại một hạnh gọi là Thương đó con! Con hiểu chữ “Thương” cho đơn giản, vì có Thương con mới có Từ, Bi, Hỉ, Xả được con! Tóm lại, bốn đức này gom lại chữ Bi, và chữ Bi của con phát triển chừng nào thì Tứ Vô Lượng Tâm phát triển chừng ấy! Nói một cách khác, nếu con hành tròn Tam Công, tự nhiên, con sẽ có Tứ Lượng trong đó rồi.

    30. VẤN: Thưa Cha, dạo này vì thời cuộc, vì hoàn cảnh khó khăn, chúng con rất dễ động loạn, khó công phu, hành pháp thấy nặng nề, lười mỏi, có khuynh hướng bê trễ. Ngoài ra, con thấy dễ bực dọc sân si cáu kỉnh chúng con biết là lục căn trèo lên nhưng không biết làm sao trị nó, xin Cha dạy chúng con cách nào?

    ĐÁP: Con biết vì sao có hiện tượng gặp những khó khăn đó không? Vì hiện tại tầng trược khí rất dày đặc đang bao phủ trần gian, con nào mở được huệ nhãn sẽ thấy trược khí vươn lên ngất Trời! Trược khí khiến chúng con nặng nề, loạn động, tăm tối điên đảo, và tất cả chúng con đều phải bị ô nhiễm không nhiều thì ít, khó tránh khỏi!
    Do vậy, con nào chưa trụ được tâm, ý chí chưa vững, thì màn này phải đảo điên vì trược khí. Bị trược khí chung quanh tấn công xâm lấn mà Chủ Nhân Ông thiếu ý chí, không chủ động được thì tự nhiên lục căn trèo lên khảo đảo, khiến chúng con sanh ra dễ bực dọc, cáu kỉnh, sân si, buồn chán, đau khổ, rồi làm điều sái quấy thôi! Dạo này, các con ngồi công phu thường thấy nặng, nếu thiếu ý chí thì sẽ giải đãi, lười mỏi, hành lấy lệ. Hành pháp như vậy, khó nhận được thanh điển rút đi lên. Khi bản thể chúng con không được bao nhiêu phần thanh, thì chúng con phải thấy nặng nề, buồn chán, đau khổ, hoang mang, loạn động, bị lục căn làm chủ, và rồi có thể làm điều sái quấy để kéo phiền phức khổ nạn, đến khảo đảo.
    Thế nên, Cha khuyên các con rán siêng hành Pháp Luân cho nhiều trong ngày, càng nhiều càng tốt để giải bớt trược khí ô nhiễm. Vì khi con làm Pháp Luân, vận hơi thở là lúc con đem phần dương trong không khí vào dương hóa bản thể con để con được nhẹ, được sáng. Dạo này trược khí nặng nề, mỗi khi vận hơi thở, con không đem được bao nhiêu dương vô đâu.
    Cho nên, các con phải rán siêng hành Pháp Luân thật nhiều mới mong giải bớt phần âm khí trong các con để các con bớt khổ.
    Thêm vào đó, để các con làm chủ mình hơn và phấn đấu trị lục căn, các con hãy thử làm cách sau đây. Khi vừa thấy tâm ý mình xuyến xao, vọng động, buồn chán, âu lo, hay cáu kỉnh bực dọc, thắc mắc, tức giận người nọ kẻ kia, bất cứ lúc nào trong ngày, con hãy tức khắc cắt đứt ý tưởng đang gây loạn động, hít hơi vào chậm và sâu, thở ra cho thật hết, làm như vậy cho đến khi con chủ động lại hơn.
    Đang khi con hít hơi, con co lưỡi, răng kề răng, niệm Phật hay niệm danh Cha, tưởng nơi trung tim bộ đầu, vừa niệm Thượng Đế vừa tưởng mình hợp nhất với Thượng Đế, mình là Thượng Đế đang cai quản cái bản thể này, rồi ở ngôi vị Thượng Đế con bắt đầu nghĩ chúc phúc cho tất cả chúng sanh trong bản thể con, chúc phúc cho lục căn, vì chúng đang chịu nặng nề tối tăm đau khổ, nên mới nổi loạn dấy động, do thiếu phần thanh phần sáng.
    Con nghĩ con ban hồng ân cho nó, ban sự sáng suốt cho nó, rồi luôn luôn bằng tư tưởng, con khuyên dạy nó tu, khuyên nó phải tiến hóa, giáo dục nó phải theo ý chí sáng suốt của Chủ Nhân Ông, để được mau thoát vòng trầm luân đau khổ. Con nói chuyện với nó bằng tư tưởng như người cha nói chuyện với những đứa con nhỏ dại ngu muội của mình. Khi nó hoành hành dữ lên, thì con dùng tư tưởng rầy dạy nó. Nếu hằng ngày, con biết làm thường thường công việc giáo dục và chúc phúc như vậy, thì chắc chắn lục căn của con sẽ được huấn luyện thuần thục dần dần, cho đến khi nó chịu quy phục và nghe theo ý chí sáng suốt của Chủ Nhơn Ông.
    Cách dùng tư tưởng hợp nhất với Thượng Đế, rồi ban ơn giáo hóa dẫn tiến lục căn này rất hay và rất hiệu nghiệm, nếu con chịu chú tâm thực hành thường, không lười biếng, giải đãi, buông trôi. Con làm cách này để hóa độ lục căn rất tốt. Vì khi con dùng những tư tưởng tốt lành, rõ rệt, mạnh mẽ để răn dạy, giáo hóa, nói chuyện với lục căn một cách nghiêm túc, thì lúc ấy, tư tưởng tốt lành mạnh mẽ của con sẽ phát ra luồng thanh điển để kéo lục căn lên chỗ sang hơn.
    Con nào có trình độ huệ nhãn, nó sẽ chứng nghiệm hiện tượng lục căn lục trần nghe Chủ Nhơn Ông thuyết pháp. Đây không phải là điều tưởng tượng, vì sự hiện diện của lục căn, lục trần trong bản thể con người là một sự kiện hoàn toàn có thật, con nào cũng có thể chứng nghiệm thấy được cảnh này khi nó có trình độ huệ nhãn.
    Các con, ai cũng vậy, từ trong nặng đi ra nhẹ, từ trược đi lên thanh, thì chắc chắn phải có sự trì kéo, rồi phải phấn đấu với lục căn lục trần, nhờ chỗ phấn đấu với sự trì kéo này, con mới học trau luyện ý chí, mới có bài cho chúng con học để tiến hóa. Chúng nó cũng như con nít thôi! Thế nên, nếu con biết răn dạy giáo hóa, khuyến nhủ nó luôn luôn bằng những tư tưởng tốt lành, chắc chắn, dần dần, con sẽ ảnh hưởng nó chịu tu tiến theo con.
    Con hãy nhìn gương những con thú trong gánh xiếc, chúng hung dữ, ngu muội, nhưng rồi, con người vẫn thành công trong việc chế ngự chúng, và hướng dẫn chúng hành động theo ý muốn. Ấy là vì con người đã chuyên tâm chịu khó dùng ý lực của mình để dạy dỗ huấn luyện nó luôn luôn! Lục căn lục trần của con cũng vậy, nếu con không trông nom, săn sóc, giáo dục nó, dùng ý lực huấn luyện nó thường xuyên, để nó lấn áp, nghe theo nó luôn luôn, không dạy, không khuyên, không la rầy nó, hoặc dạy một ngày rồi bỏ quên nó mười ngày, thì tự nhiên, nó không nhớ những lời dạy của con và rồi lại hoang đàng hư đốn leo lên nắm quyền sát phạt lại con thôi!
    Vậy các con hãy áp dụng cách hóa độ lục căn như vừa nói trên xem thử.

  8. #8

    Mặc định

    31. VẤN: Thưa Cha, khi con thọ pháp Vô Vi Huyền Bí Học, con có nghe người truyền pháp bảo rằng con không cần phải cố gắng lập hạnh hay diệt tham, sân, si, hỉ, nộ, ái, ố, dục, chỉ cần công phu theo pháp lý này một thời gian thì tự nhiên tánh tình sẽ thay đổi. Nhưng cho đến nay sau một thời gian hành pháp, con vẫn chưa thấy khá hơn, vẫn nóng giận sân si, và nhiều tật xấu khác. Nhưng con thấy những bạn tu khác hành pháp này, thì có chứng nghiệm sự tiến bộ nhiều trong việc sửa tánh. Xin Cha dạy cho biết tại sao trường hợp con lại không được hiệu quả?

    ĐÁP: Cha thấy đa số các con trong phái Vô Vi hay lý luận rằng: “Không cần sửa, để pháp nó sửa!“ Đây, để Cha phân tích cho các con rõ, nếu con muốn tiến hóa nhanh, muốn mau sáng, thì việc trau tâm sửa tánh lập hạnh rất cần thiết chứ con! Việc lập hạnh hay công trình rất là quan trọng và hỗ trợ đắc lực cho sự tiến hóa của người tu. Vả chăng việc công phu và việc lập hạnh có tương quan rất mật thiết. Vì, phải chăng việc công phu buổi tối hỗ trợ cho việc lập hạnh ban ngày, và việc lập hạnh ban ngày hỗ trợ cho việc công phu buổi tối?
    Vì sao công phu buổi tối giúp việc lập hạnh ban ngày? Đây Cha cho rõ, buổi tối, nếu con ngồi công phu sốt sắng, không lười mỏi không giải đãi, lo ra, nhờ trụ tâm ý và nhờ cách vận hơi thở con mang được một số thanh khí điển của Trời Đất vào thanh lọc bản thể, quân bình lại ngũ hành, sau một ngày nó bị rối loạn, bị trược hóa vì những sinh hoạt hồng trần của con.
    Cho nên, khi con công phu tốt buổi tối, hôm sau, con người được ổn định hơn, vui tươi phấn khởi hơn, tánh tình con nhờ đó được thăng hoa giúp con dễ sống đạo Đức hơn. Đấy là công phu buổi tối giúp việc lập hạnh ban ngày.
    Rồi vì sao lập hạnh ban ngày, hỗ trợ việc công phu buổi tối? À, điều này con có thể chứng nghiệm được. Khi con sống một ngày đầy loạn động, đầy dẫy tham, sân, si, hỉ, nộ, ái, ố, dục... tức nhiên, con thấy nặng nề mệt mỏi, buổi tối ngồi công phu khó khăn, lười mỏi, giải đãi, lo ra, ngồi thiền cho lấy có, thế nên, bản thể chẳng hưởng được bao nhiêu thanh điển, ngũ hành không có cơ hội được thanh lọc và quân bình trở lại để giúp cho sự cải sửa tánh tình, lập hạnh ban ngày.
    Do đó, mà công phu hoài không thấy tiến bộ. Ấy là việc lập hạnh ban ngày hỗ trợ cho phần công phu buổi tối. Cho nên, muốn mau tiến bộ, con phải vừa công phu vừa lập hạnh. Đừng ỷ lại vào pháp môn, chờ nó cải sửa cho mình. Chờ biết chừng nào con? Cận ngày giờ rồi! Lo mà đi không kịp thôi con! Vả chăng, nếu con muốn ỷ lại vào pháp, để pháp nó sửa cho con, việc này cũng được chớ con!
    Có điều, ỷ lại vào pháp, cậy nhờ nó, thì phải siêng năng bám theo nó, tức là con phải ngày đêm tinh tấn công phu, chuyên chú siêng hành pháp luôn luôn không bê trễ, không giải đãi, mỗi lúc công phu phải sốt sắng, không bê bối, lo ra, hành được như vậy đương nhiên và chắc chắn con phải thấy tiến bộ! Đấy là ỷ lại mà biết ỷ lại vậy.

    32. VẤN: Thưa Cha, con có biết một bạn đạo, trước đây vào thời gian đầu, hành theo pháp lý này rất thấy tiến bộ, tánh tình thay đổi, có khi lúc công phu nhắm mắt lại thấy được ánh sang xẹt ra từ tam tinh bộ đầu, có khi thấy được cảnh này cảnh kia. Nhưng một thời gian sau, công phu lại bị sụt kém, không còn được thấy như trước, và tánh tình trở lại nóng nảy gắt gỏng như khi chưa tu. Người này cho biết mỗi tối đều có hành công phu. Vậy xin Cha cho rõ, tại sao lại có sự thoái bộ như vậy khi vẫn công phu đều?

    ĐÁP: Mỗi tối vẫn ngồi công phu nhưng sở dĩ thoái bộ, vì nhiều lý do, Cha tạm kể vài lý do sau đây:
    Vì dạo sau này, khi công phu, bạn con không đủ định trí để đem được số thanh điển cần thiết thanh lọc và ổn cố ngũ hành, hầu quân bình lại mọi tổ chức cơ năng trong bản thể, sau một ngày vọng động vì những sinh hoạt hồng trần.
    Rồi phải thấy chỗ, trong ngày con bị vọng động nhiều với đời sống trần gian, khiến thần tán, khí hao, điển mất. Do đó bản thể bị ô nhiễm nhiều trược, nên tối về ngồi công phu phải thấy nặng, khó khăn, điển không rút đi lên. Công phu nặng càng khiến con giải đãi, lo ra, lười mỏi, hành lấy lệ, rồi xả thiền.
    Đã bị ô nhiễm trong ngày, rồi lúc công phu lại giải đãi, không rán tinh tấn hành pháp để hội tụ được số thanh điển thanh lọc, hóa giải bớt trược khí trong bản thể, nên năm luồng điển của ngũ tạng: tâm, can, tì, phế, thận phải bất thông, không cải sửa lại trật tự. Ngũ hành rối loạn mà không quân bình lại được, thì tức nhiên, con phải thấy sút kém, thoái bộ cả mặt tinh thần lẫn sức khỏe cơ thể. Thấy nóng giận trở lại là vì hỏa can bị nghẹt không thông đó! Do vậy, dầu luân xa ở tam tinh bộ đầu có mở ra được chút ít nhờ thanh điển hội tụ được khi công phu tốt trước đó, phải bị che lại sau này vì ô nhiễm trược mà thôi.
    Lý do nữa, vì giai đoạn sau này, là màn của khối trược khảo đảo, nên tầng trược khí bao quanh cõi hồng trần càng ngày càng dày đặc. Các con tu thiền phải cố gắng hơn bội phần theo đà phát triển của trược khí thì mới mong hóa giải bớt ảnh hưởng của khối trược điển đang tác loạn ở đấy. Nếu các con cứ tiếp tục công phu theo đà từ trước đến nay thì chắc chắn phải thấy hiệu quả sút kém.
    Cho nên, Cha đã khuyên các con phải rán siêng hành Pháp Luân cho nhiều trong ngày, vào bất cứ lúc nào con có điều kiện. Ngoài ra, con rán hành những gì cần thiết cho “cơ cấp cứu” để hóa giải bớt trược khí mà con nào cũng phải bị ô nhiễm không ít thì nhiều. Đấy là trường chay, mật niệm danh Cha hay các vị Phật, và siêng năng tinh tấn công phu. Những điều trên, Cha đã phổ biến cho các con biết rồi. Trở lại vấn đề con hỏi. Cha tóm tắt rằng: sở dĩ, đứa kia vẫn công phu mỗi tối mà bị thoái bộ là vì:
    Không hành công phu tốt, nên không bồi bổ lại được phần điển đã mất.
    Vì ban ngày bị loạn động nhiều bởi cảnh sống nên ảnh hưởng việc hành pháp buổi tối khiến công phu không được kết quả tốt.
    Vì đà công phu không theo kịp với đà phát triển của trược khí. Những sự kiện này đã đưa tới chỗ thoái bộ của bạn con. Điều này Cha nói tổng quát cho mọi trường hợp chung mà các con đều có thể gặp. Có thể có trường hợp đặc biệt riêng rẽ, nhưng cái đó phải xét từng cá nhân mới được.

    33. VẤN: Thưa Cha, con có nghe nói đến hội Long Hoa, Long Vân. Xin Cha giải thích rõ hơn về sự khác nhau giữa hai hội này.

    ĐÁP: Long Hoa với Long Vân cũng chỉ là một mà thôi, nhưng được thể hiện bằng nhiều trạm, tạm gọi là trạm bán kết, trạm chung kết... Hiện tại, khối trược đang hoành hành ở đây, khiến con người phải chịu nhiều thử thách như nghèo đói, bệnh hoạn, tai nạn, chết chóc, thiên tai, địa ách v.v...
    Đấy là cơ khảo thí Long Hoa đang diễn bày. Đợt khảo thí này là đợt bán kết, là cơ sàng sảy để thanh lọc một số phần hồn nặng nghiệp sát và trược đúng mức của ma quỷ. Qua đợt này sẽ là Cơ Chuyển Tiếp, là giai đoạn giúp các con có điều kiện tu tiến hơn, để chạy nước rút cho kịp dự kỳ chung kết.
    Còn đợt chung kết nữa con! Nhưng nếu con không qua được đợt này làm sao con dự kỳ chung kết? Đợt khảo thí chung kết sẽ là Cơ Tận Diệt, là kỳ phán xét cuối cùng, đợt này sẽ vô cùng dữ dội, con nào không đủ trình độ tiến hóa đạo đức và trí tuệ thì phải tiêu trong màn này.

    Vì đây là đợt mà Cha tuyển chọn rặc ròng giống tốt, để vào Kỷ Nguyên Thánh Đức! Trình độ tối thiểu cũng phải là sạch hết những tánh ganh tỵ, nhỏ mọn, đố kỵ, tỵ hiềm, chấp ta, ngã mạn, phân biệt, chia rẽ.
    Tóm lại, phải có trình độ đại đồng, biết thực thi tình bác ái huynh đệ giữa đồng loại, không phân biệt tôn giáo, màu da, chủng tộc, giai cấp.

    34. VẤN: Có bạn đạo nói tu vào Long Hoa là còn thấp, họ tu không cần vô dự Long Hoa, họ tu để về thẳng cõi giải thoát. Thưa Cha, tu không vô Long Hoa có được không?

    ĐÁP: À Đại Hội Long Hoa lần này là kỳ Đại Hội Điểm đạo lần ba của quả cầu 68. Đây là một cuộc điểm đạo hết sức vĩ đại và quan trọng mà tất cả hàng Phật Tiên Thánh và những phần hồn tiến hóa đủ tiêu chuẩn được tuyển chọn đều phải tham dự. Đây là cuộc điểm đạo vô cùng lớn lao để định vị cho tất cả những ai được đắc quả, hoặc chịu gắng công tu hành ở kỳ ba này.
    Những con nào, nếu tới được trình độ Niết Bàn ở kỳ ba, đến giờ đó, dĩ nhiên, cũng đều phải có mặt để xướng danh định quả vị, như Đỗ Thuần Hậu, Lương Sĩ Hằng chẳng hạn, được đắc quả kỳ ba này, lúc đó phải trình diện trước cộng đồng Long Hội chớ con!
    Con hỏi tu không vô Long Hoa được không? Được chứ! Phải có trường hợp đó chứ! Đó là trường hợp của những đứa bị loại tên, vì không đủ tiêu chuẩn tiến hóa sang đời Thánh Đức...
    Duy có điều, các con phải hiểu, Long Hoa chưa phải là mục tiêu chơn chánh của người tu! Đây chỉ là một chặng đường tiến hóa mà trên chu trình đằng đẳng của con, con phải đi ngang qua đó! Mục tiêu của con là gì? Là phải về đến cội nguồn, về đến nơi mà con đã phân ly để tách bước ra đi! Con ơi! Con phải về để hợp nhất với Đại Hồn Cha! Tiểu Linh Quang phải hòa với khối Đại Linh Quang của càn khôn vũ trụ! Con phải về đến Ngôi Thượng Đế, để con biết Thượng Đế, để con thật biết con, để con hiểu rằng, trọn chu kỳ tiến hóa của con, đi xuống, để rồi trở về là để con đi học về con đó thôi.

    35. VẤN: Thưa Cha, người biết tu quá ít, kẻ không tu quá nhiều. Người đi lên chẳng thấy ai, kẻ đi xuống thôi đông nghẹt. Như vậy có phải là điều bi quan chăng khi khối trược thắng thế?

    ĐÁP: Sự kiện đó cũng không có gì phải bi quan con! Cũng là nằm trong lý vận hành của càn khôn! Guồng máy Âm Dương chuyển động luôn luôn theo định luật tiến hóa không ngừng của vũ trụ. Cho nên Trời Đất phải có lúc nóng lúc lạnh, lúc mưa lúc nắng, lúc tối lúc sáng, lúc thịnh lúc suy. Khi thì âm suy dương thịnh, khi thì âm thịnh dương suy, lúc thì ánh sáng tràn lan, lúc thì bóng tối chuyển động. Đây là lúc bóng đêm hoành hành, nên con người dễ có khuynh hướng ngã vào sự tối tăm ngu muội. Rồi lại có lúc vầng đông ló dạng, ánh sáng bừng lên, con người sẽ thức giấc sinh động lại, rồi vươn lên trong ánh nắng chói chan đó thôi!

    36. VẤN: Thưa Cha gần đây cảnh đời quá loạn động. Nhiều người tu thấy hạnh tu cũng khá, nhưng đùng một cái trở nên bê bối, làm nhiều điều sái quấy, hoặc ăn nói lăng nhăng như một người chưa hề biết tu. Chúng con thật không ngờ và hiểu nổi tại sao?

    ĐÁP: Này con ơi, đây là một tai nạn xót xa của người tu mà tất cả các con đều có thể vấp ngã trên cuộc hành trình đằng đẵng về quê xưa chốn cũ! Chuyện vấp ngã ấy cũng dễ hiểu thôi! Khi trược khí dày đặc ngập tràn khắp nẻo trần gian, tất cả các con đều phải ít nhiều bị ô nhiễm và phải chịu ảnh hưởng khảo đảo bởi việc trả quả cộng nghiệp. Người tu trong màn này phải biết đề cao cảnh giác, phòng bị nghiêm nhặt, kiểm soát mình luôn luôn chớ để lơi tâm. Vì con nào cũng phải chịu trược tấn công ít nhiều, tùy theo nghiệp lực cá nhân hay gia đình nó, và chắc chắn không con nào khỏi.
    Cho nên, tất cả các con đều phải ở trong tư thế sẵn sàng, chuẩn bị nghiêm túc, để đủ bình tĩnh sáng suốt đối phó với nghịch cảnh đưa đến. Cũng vì vậy, một khi giải đãi không phòng bị chu đáo, không bế chặt ngũ quan (nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân) để lo quay vào trong củng cố thực lực, chẳng khác nào cảnh địch quân đang vây quanh thành, nếu thành không bế chặt cửa, không lo củng cố lực lượng, bê trễ việc canh phòng kiểm soát, bày thế sơ hở cho kẻ địch, thì chắc chắn, giặc sẽ tràn vào tấn công, nếu không đủ thực lực cầm cự thì phải yếu thế thất thủ đó thôi!

    Cảnh thất thủ đó chính là sự vấp ngã của người tu trong cơn thử thách khảo đảo! Con ơi, đây là một thực trạng đau xót, nhưng rất bình thường mà mọi linh hồn đều phải có dịp chứng nghiệm qua, trên cuộc hành hương trở về của nó!
    Con đường đi lên thì phải vậy, phải phấn đấu luôn luôn trong thử thách đắng cay để học hỏi hiểu biết và rồi có khi vấp ngã đó thôi! Này con! Hãy nhìn hiện tượng đó với đôi mắt thật bình thường, đầy cảm thông và hiểu biết.
    Chưa hiểu biết thì ngạc nhiên tức giận, lên án, khinh ghét, lánh xa kẻ đang vấp ngã. Hiểu rồi thì cảm thông, yêu thương, tế nhị, hỗ trợ kẻ ấy vươn lên. Ấy là thực thi tình người giữa đồng loại, là thực thi Bi, Trí, Dũng của người tu...
    Bao giờ các con chưa thực hành được điều này, còn nghe lòng mình tỵ hiềm, khinh ghét, đố kỵ, là con chưa đủ tiêu chuẩn vào Thượng Ngươn Thánh Đức nghe con!
    Con nên hiểu rằng: tiến trình đi từ chỗ nội tâm dấy loạn đến hiện tượng bị vấp ngã của một cá nhân thực là phức tạp, nhiều u ẩn tế nhị mà chỉ có Thượng Đế mới có thể phân tích, đánh giá đúng mức để phê phán và kết án kẻ sái quấy đó thôi!
    Cho nên chỉ có Cha mới ở vào vị thế đứng đắn nhứt để lên án, cần thiết lên án và có quyền lên án một linh hồn. Vì khi Cha lên án nó, Cha sẽ cùng lãnh án với nó, khi Cha chỉ trích sự sái quấy của nó, Cha biết yêu thương và hiểu được bản chất sái quấy đó, khi Cha đay nghiến nó, Cha sẽ cùng đau đớn với nó, khi Cha dùng luật răn phạt nó, Cha sẽ cùng nó gánh chịu quả báo! Và Cha chỉ hành động vì mục tiêu tiến hóa của nó mà thôi! Chỉ khi nào con làm được như vậy, thì con tha hồ có quyền chỉ trích, tức giận, kết án, khinh ghét, tỵ hiềm, đố kỵ, oán giận, tàn nhẫn v.v... với một kẻ sái quấy vấp ngã. Nếu chưa làm được, thì đấy chỉ là những tư tưởng, những hành động phát xuất từ vô minh chỉ làm con kẹt trong hẹp hòi ngu muội, gieo nghiệp không lành để phải trả quả, làm trở ngại đà tiến hóa linh hồn con lên đến cõi sáng suốt.
    Tóm lại, màn này hỗn loạn đảo điên. Tất cả các con, một mặt phải rán giữ tâm ý không cho buông lung theo ngoại cảnh, phòng bị và kiểm soát mình luôn luôn, một mặt lo thanh lọc bản thể bằng công phu để ổn cố điển lực. Nên tịnh bớt khẩu, dành việc niệm Phật để giữ điển, chớ nói chuyện đời nhiều!
    Màn này, con nào nói nhiều sẽ có khuynh hướng phát ngôn bừa bãi, sanh chuyện rắc rối và đi tới chỗ loạn tâm. Nên nhớ nói nhiều hao khí điển, sẽ bị nhiễm nhiều trược, gây loạn động tâm thần, còn có thể vướng mang khẩu nghiệp nếu nói lời không lành và không hữu ích, rồi có thể gặp nhiều rắc rối bởi sự thiếu cẩn ngôn. Vậy các con rán giữ mình để vượt qua cơn khảo đảo.
    À, ở đây Cha cũng thấy việc này. Thường khi, các con cho rằng người tu, mà nhứt là đại nguyên căn hay gặp cảnh thử thách vấp ngã, rồi các con sợ phải làm đại nguyên căn! Sự thật không phải vậy con! Đâu phải đại căn mới gặp thử thách con! Thử thách là do quả nghiệp của con đó! Con tiểu căn mà nhiều nghiệp, con cũng gặp thử thách liên miên như thường!
    Nhưng đại căn còn linh tánh hơn, lỡ vấp ngã có cơ may vươn lên được, còn tiểu căn thì linh tánh lu mờ, khi ngã rồi khó mà vươn lên nổi!
    Cho nên, được đại căn là phước lớn chớ con! Có điều ở đây con nên biết, mọi nghịch cảnh thử thách khó khăn ghê gớm đến đâu cũng không nguy hiểm bằng nỗi yếu hèn, sự sợ hãi của linh hồn con. Chính nó là cái bóng ma lởn vởn, là thủ phạm đích thực gieo khiếp sợ, gây trở ngại cho con, trên cuộc trui rèn ý chí và học hỏi tiến hóa của con.
    Phút giây nào mà con xua đuổi được bóng ma đó, khắc phục được thủ phạm đó, thì tức khắc, mọi thử thách dầu gian truân đến đâu cũng phải tan biến như khói sương trước vừng đông ló dạng, vừng đông minh triết đó con!
    Vậy, vấn đề ở đây không phải là sợ hãi, trốn chạy thử thách, hay mong cầu đừng gặp thử thách. Không gặp thử thách là chuyện không hề xảy ra cho một linh hồn phải xuống thế học hỏi. Nhất là lúc mà nó còn vướng vòng nghiệp quả.
    Vậy chỉ còn cách là phải đối diện với thử thách và chế ngự nó để vươn lên. Đấy là bản năng tự vệ cần thiết của linh hồn trên đường tiến hóa của nó. Nên biết rằng, khi con gục ngã trước một thử thách ấy không phải bị gục ngã vì sự thử thách mà vì sự yếu đuối của linh hồn con đó!
    Là người tu, nếu con muốn tìm lên chỗ sáng suốt minh triết, muốn được tiến nhanh, mau sáng, mau mở huệ, con hãy cố vứt bỏ những tư tưởng sợ gặp thử thách, sợ khổ, sợ gian truân nguy hiểm v.v... Những sợ hãi này sẽ làm chơn thần lu mờ, trí tuệ không sao phát triển được và con không thể tiến hóa lên cao.
    Một linh hồn thiếu dũng mãnh sẽ bị là đà trong vòng luân hồi chuyển kiếp mãi cho đến khi đủ ý chí để vọt lên cõi sáng. Cho nên, con nào muốn giải thoát thì dứt khoát phải học Dũng mà thôi! Nên nhớ rằng: Một linh hồn yếu đuối, sợ hãi, chắc chắn không thể sáng được và rất dễ vấp ngã rớt rơi trong cơn khảo thí này!

    37. VẤN: Thưa Cha, con cố bỏ tánh Sân mà chưa được. Ai chọc giận là con nóng lên không nhịn được. Xin Cha dạy cách con sửa.

    ĐÁP: Con rán hành Pháp Luân nhiều hơn để đem thanh khí cải sửa bản thể, khai thông ngũ tạng. Khi ngũ hành phân tán, ngũ tạng phải bất thông! Hỏa can con bị nghẹt nên bị nóng nảy sân si đó! Ở đây, Cha nói thêm về tánh Sân để hướng dẫn con phần tư tưởng giúp con cải sửa. Sân là bản chất của Thượng Đế cũng như của con.
    Cha đã giảng điều này. Nếu con muốn lên chỗ sáng suốt con sẽ không diệt tánh sân, nhưng con bỏ sân trược để học sân thanh. Vậy là sao? Đây Cha giải thích. Sân ở con người là phản ứng đáp trả lại sự khích động của đối tượng khác bằng tư tưởng lời nói hoặc hành động. Khi con sân kiểu nặng trược, lúc đó con có phản ứng phóng ra những tư tưởng nặng nề, tức những luồng trược điển đến cá nhân chọc giận con, con phát ngôn nóng nảy, và có khi có những hành động sái quấy dẫn đến những hậu quả không hay. Kiểu Sân này chỉ phá hoại con, ảnh hưởng xấu cho bộ máy bản thể con, khiến nó mau hư hỏng, làm con trược và cá nhân kia trược hơn, chưa kể đến những hậu quả tai hại chưa lường trước bởi những hành động thiếu sáng suốt lúc giận dữ. Tất cả những cái này sẽ thành nghiệp lực tác động trở lại con để trì trệ sự tiến hóa của con.
    Vậy giờ đây con học thực hành Sân thanh.
    Khi bị một kẻ chọc giận, con ráng im lặng, tránh phản ứng ngay sự giận dữ lúc đó. Để trợ duyên cho việc giải bớt sự bực tức, con co lưỡi, răng kề răng, hít vô chậm chậm, thở ra cho hết hơi, vừa mật niệm danh Cha hay niệm Phật, tưởng ngay trung tim bộ đầu. Hít thở nhiều lần như vậy đến khi nghe tâm dịu lại, lúc ấy con nghĩ con hợp nhất với Thượng Đế, rồi bắt đầu hành “Sân thanh”.
    Khi ấy con nghĩ mình là Thượng Đế và phản ứng đáp lại kẻ chọc giận con bằng những tư tưởng tốt lành, bằng cách ban hồng ân cho nó, chúc phúc cho nó được sáng lên hơn, để hiểu hơn!
    Con phóng đi những tư tưởng này, cho đến khi con nghe nội tâm thanh bình trở lại. Đây là cách phản ứng thích đáng và sáng suốt nhứt, vừa bảo vệ con, dinh dưỡng con, vừa vun bồi cho con sáng hơn, mà lại có thể từ từ ảnh hưởng đến cá nhân kia theo chiều hướng thuận lợi cho con nếu họ xử quấy với con.
    Cho nên, cách sân thanh vừa dinh dưỡng con, vừa tránh nghiệp quả, vừa có công quả bố thí sự sáng suốt cho tha nhân. Nếu con thực hành cách sân này luôn luôn, con sẽ dần dần tiến đến sáng suốt cho đến khi biết sân thanh thật sự. Lúc ấy, con có hạnh sân của Phật. Vì ai chọc Phật giận, Phật sẽ phản ứng tức khắc bằng cách phóng lại kẻ đó chút thanh điển sáng suốt để kéo nó đi lên.
    Cho nên, khi con thật biết sân trược, linh hồn con nổi loạn tối tăm và ở trạng thái Địa Ngục, khi con thật biết sân thanh, hồn con thanh tịnh sáng suốt và ở trạng thái Niết Bàn. Về tới Ngôi Thượng Đế con sẽ sân trược và thanh cùng một lúc. Ở Ngôi Cha, bất cứ thể tính, bản chất nào cũng thể hiện ở hai trạng thái thanh và trược một lượt.
    Như Lương Sĩ Hằng chẳng hạn, nó có cơ duyên, nhiều lần được chứng nghiệm một góc cạnh trong vô lượng góc cạnh của cái sân thanh và trược của Cha, qua Đức Kim Thân. Khi nó sai, Cha muốn nói cái sai của cấp Phật, mà các con phải ở trình độ học cái sai đó ngày đêm để tới Niết Bàn. Cha giận nó sai, Cha rầy dạy nó, có khi Cha giận dữ rầy la nó ghê gớm, nhưng Cha càng Sân, càng rầy dữ chừng nào nó càng sáng, càng được hưởng chừng nấy, hào quang nó sáng chói lên và điển quang nó được Cha rút lên khỏi tần số điển của nó, kéo nó hướng về chỗ cực thanh tịnh khiến nó sáng thêm và hạnh phúc thêm!
    Cho nên, nhìn cung cách Cha lúc đó, thì có cái Sân giống kẻ phàm trần, nhưng Sân mà lại vẫn đủ sức siêu để rút điển quang một đứa có trình độ tiến hóa như Lương Sĩ Hằng lên tần số điển cao hơn tần số của nó!
    Cha cho Lương Sĩ Hằng nhiều lần chứng nghiệm hiện tượng này và nó hưởng trọn vẹn nhờ có trình độ tiến hóa cao, sạch hết phàm tâm, thấy được điển và biết giá trị quý báu của luồng điển Cha ban cho nó để mở rộng linh hồn đón nhận!
    Các con có thể hỏi lại Tám cho hiểu hơn hiện tượng này! Riêng với những đứa còn phàm tâm tự ái, hoặc chưa biết điển, trường hợp bị rầy như vậy, nó thấy phiền bực, thế là nó tự đóng linh hồn nó lại bởi trược điển từ sự phiền bực đó, vậy nên nó không biết giá trị và không hưởng được bao nhiêu. Cho nên, khi Cha xuống cõi trần qua Đức Kim Thân, các con rồi sẽ thấy Cha thể hiện mọi bản tính của Thượng Đế ở trạng thái thanh trược một lúc! Và Đức Kim Thân sẽ trần mà siêu cùng một lượt đó con!

    38. VẤN: Thưa Cha, gần đây có việc trấn và thủ tục uống bùa trên thiền đường H. V. E. cũng như hiện tượng Bồ Tát dùng bùa trị bịnh cho nhiều bạn tu trong phái Vô Vi với sự thuận ý của Cha. Điều này khiến một số bạn đạo thắc mắc, nghĩ rằng tinh thần Vô Vi là tự tu tự tiến, vậy tại sao cần dùng bùa v.v... Một vài bạn vì chưa hiểu đã nông nỗi cho rằng Cha và Tân Dân Đàn là còn hữu vi sắc tướng, là gieo rắc mê tín dị đoan trong phái Vô Vi. Xin Cha giải thích việc này để bạn đạo khỏi hoang mang.

    ĐÁP: À, tại sao có việc trấn và thủ tục uống bùa trên thiền đường H. V. E. cũng như có việc Bồ Tát tiếp điển qua xác trần dùng bùa trị bịnh, được sự thuận ý của Cha? Cha sẽ giải rõ cho các con hiểu. Này các con, nếu các con biết tự tu tự tiến như các con nói, nếu các con biết thức giác, tự lo đi và chịu lo đi giùm Cha, mà không rên siết, khóc than, kêu réo Cha cứu độ, thì Cha đâu đến nỗi cực nhọc, khổ tâm, chuyển đủ thứ phương tiện xuống cứu khổ các con?
    Khối trược đang khảo đảo trần gian theo đúng nghiệp lực của nhân loại. Cho các con trả quả những gì con đã vay, rồi mượn những cái khổ đó dạy các con học, và cũng mượn những cái đó để đo lường trình độ tiến hóa của các con luôn! Thế nên, đây còn gọi là cuộc khảo thí nhân loại. Nhưng rồi, nhìn lại trong cuộc khảo thí nhồi quả này, trình độ tiến hóa cao đâu được mấy ai? Riêng môn phái Vô Vi, thử hỏi được mấy đứa có trình độ thanh tịnh vững chãi trong cơn khảo đảo? Nếu các con tu Vô Vi mà biết thật sự đi vào Vô Vi, không phóng tâm ra ngoại cảnh đảo điên, để vững vàng tiến bước trong nghịch cảnh, biết nhờ nghiệp lực để tiến, biết nhận diện những bài học quý báu giúp linh hồn học hỏi tiến hóa trong khi chịu thử thách đắng cay vì nghiệp lực khảo đảo, thì con ơi! Cha đâu phải khổ nhọc chuyển những phương tiện “Hữu Vi Sắc Tướng” đến trợ lực thêm cho các con.
    Việc trấn thiền đường H. V. E. là vì trược khí dẫy đầy ở đó, không có người tu đủ thanh điển bảo trợ, Tám thì không còn lên giảng thuyết như trước kia, nguồn ân điển tiếp trợ khi thiền đường hoạt động không còn nữa. Ngày một ngày hai, các phần tử của khối trược vô hình tá vào những xác trần, xưng là bạn tu lui tới quấy nhiễu phá phách thiền đường, gây phiền phức cho H. V. E. và những con tới đó thiền mà điển chưa vững có thể gặp ảnh hưởng xấu. Vì vậy, Cha chuyển người của Tân Dân Đàn lên trấn để giúp hóa giải bớt trược khí cho thiền đường. Rồi thì, để ngăn ngừa các phần tử xấu sau đó có thể tiếp tục tìm cách phá phách nơi đây, nên có việc cho những ai muốn vô sử dụng thiền đường phải qua thủ tục uống bùa.
    Bùa này do Tân Dân Đàn tiếp thanh điển của các vị Bên Trên để in ra, nó có tác dụng hóa giải bớt trược nhờ phần thanh điển trong đó. Thế nên những đứa nào bị xâm nhập hoặc có tà ý vào đây phá hoại sẽ bị lực thanh của bùa hóa giải bớt trược cho nó, để nó bỏ đi những toan tính sái quấy mà khỏi phá phách nhiễu loạn. Thủ tục uống bùa khi vào thiền đường chỉ là một cách để kiểm soát, hầu ngăn chặn bớt những thành phần bất hảo đã bị khối trược sử dụng. Vì con phải biết, H. V. E. không thể nhìn mặt bạn đạo để kiểm soát nổi!
    Màn này là màn khối trược tác oai, tác phúc, không thể tin được những đứa xưng là bạn tu, vả chăng chính đứa làm bậy cũng chỉ là một con múa rối, một công cụ, bị mượn xác tá vào, mà phần hồn nó vì quá yếu ớt không thể chống lại được cái ý chí hành động của phần điển trược xâm chiếm Thế nên, đã diễn ra cái thủ tục cho uống bùa cho các con hoang mang. Nếu các con nghi ngại việc đó, thì khỏi phải lên thiền đường làm chi, con nên ở nhà công phu cho yên dạ. Con ơi, màn này là phải gặp nhiều rắc rối không sao vừa ý được, con phải phấn đấu trong nghịch cảnh để tu tiến!
    Cha biết có nhiều con muốn mượn cảnh thiền đường để dễ công phu, nhưng lại ngại việc phải uống bùa! Biết làm sao hơn con, khi khối trược quá lộng hành, dù thiền đường đã được trấn, nhưng các vị Thiêng Liêng tiếp lịnh trấn nơi đây, phải có muôn ngàn phần việc để làm trong màn đại khổ này hầu cứu độ các nguyên căn nặng nghiệp! Điển lực của họ phải phân tán khắp nơi để lo cứu khổ cứu nạn, gánh bớt tai biến chết chóc của nhân loại theo lịnh của Thượng Đế và không trụ được nơi đâu nhiều, nếu nơi ấy không có điều cần thiết lắm! Cho nên phải dụng thêm thủ tục kiểm soát này!
    Việc đó có phần gây phiền phức cho bạn đạo nhưng nhờ vậy ngăn chặn bớt những phiền phức có thể xảy ra cho gia chủ. Để các con phái Vô Vi đỡ nghi ngại, Cha sẽ chuyển Tám lên thiền đường để giảng giải việc này cho các con hiểu hơn vào một ngày gần đây.

    (5 Ông Tám giảng:
    “Chuyện mà Trấn và dán Bùa ở xung quanh là thuộc về Hữu Vi, trong cái Hữu Vi đó nó có cái hữu ích cho những người sơ cơ mới Tu Hành. Người mới Tu Hành mà trong nó còn trược nầy kia, phải cho nó mượn cái đó để tạm qua một thời gian, sau nầy cái chánh là nó phải tụ Tu, tự giải bằng cái Pháp Luân Thường Chuyển là cái Bùa của càn khôn vũ trụ sáng suốt, là hư không đem thanh điển vô hóa giải mọi trược khí, khử trược lưu thanh. Bùa là khử trược lưu thanh. Cho nên, người Tu Vô Vi mà Tu đúng, trong mình không uể oải, không bần thần, không thấy lộn xộn thì uống Bùa làm gì ?
    Cái căn bản của mình tạo ra nó chánh hơn, cái mượn của người ta là giả, thì bây giờ phải gắng Tu để đạt tới cái chánh. Rồi người nào bây giờ còn yếu vì động loạn, vì thời cuộc, vì sanh hoạt không Tu mà bây giờ còn yếu thì nó cũng nhờ cái đó qua cơn đau khổ uể oải của nó để tiếp tục Thiền. Cho nên, người nào uống Bùa, nếu nó còn yếu ớt thì cũng nên uống, uống vô thấy khỏe thì nó phải uống. Còn những người Tu mạnh rồi, đâu cần thiết uống làm gì, không nên lấy đó đặt điều Mê Tín mà đi thụt lùi. Khi các bạn tiến được rồi cứ tiến lên, chớ rồi cứ bước tới một bước mà lùi ba bước làm sao được, nên phải cương quyết lập hạnh và phải biết ý chí mình vô cùng tận để tiến tới.
    Các bạn thấy tại sao cái Bùa vẽ lăng quăng lít quít vậy, nó cũng là luồng điển mà thôi, nó dẫn giải chỗ nào bị lố bịch để chuyển hóa đi lên, cho nên người nào trược uống vô thấy hiệu nghiệm, thấy khỏe, mà người nào thanh uống cả triệu cái không ăn chung gì. Cho nên, phải hiểu Bùa là gì, là để hổ trợ phương tiện một chút, cái pháp cũng là phương tiện, mà cái ý chí mới là trường cửu. Cho nên, phải hiểu rõ từng giai đoạn, đừng nói hồi trước Ông Tám nói Tu không cần Bùa, cần Phép, vì cái thời đó người ta làm Bùa cho người nầy mê người kia, người kia bỏ người nọ để thủ lợi,còn cái nầy thuộc về khuyến Tu nó khác hơn những Bùa kia, chỉ vì thủ lợi mà nó giết người, cho nên hồi đó ngăn ngừa không cho các bạn uống những Bùa Tà Giáo, còn cái nầy mình không thủ lợi mà để hổ trợ cho mọi người tiến hóa.
    Tôi thấy người nào cố gắng Tu thì không có gì rắc rối, không cần thiết cái đó, nhưng những người không cố gắng mà bị khủng hoảng, uống thấy khỏe thì nên uống, còn nếu chúng ta đang đi tốt mà ỷ lại, nói gia thêm cái nầy cho tốt thì chỉ gây sự chậm tiến. Cho nên, phải hiểu cái văn minh của đạo pháp, đạo pháp có văn minh là sự sáng suốt, đạo pháp cũng có cái mê muội…”)

    Như vậy, để các con thấy rằng, nếu các con dưới trần biết lo tu, có trình độ thanh điển khá để tự vượt màn này một cách vững vàng, nếu không có cảnh các con yếu ớt linh hồn dễ bị khối trược xâm nhập kéo đi phá phách nhiễu loạn, thì Cha đâu phải bận tâm chuyển việc như trên. Cảnh khổ diễn bày khắp nơi! Các nguyên căn nặng nghiệp bị khảo đảo điêu đứng té lên té xuống, rớt lên rớt xuống, con cái khóc la vang Trời, kêu xin cứu khổ, khiến Cha nhức nhối ngày đêm!
    Cha không nói xa xôi, Cha nói các con ở phái Vô Vi đây! Màn này bị trược khảo, ngã lên ngã xuống, kêu réo Cha thảm thiết! Nếu các con biết tự tu tự tiến như các con nói, nếu các con đủ điển lực Vô Vi, để lo tự bảo vệ lấy thì thật đỡ khổ lòng Cha! Đằng này các con tự nhìn xem, lớp thì bị khối trược xâm nhập tá vô sử dụng, lớp thì bị bịnh hoạn hành hạ, lớp thì gặp cảnh khổ nàn khảo đảo nhưng lại nghèo ý chí nghị lực không vươn lên nổi, rồi than thở rên rỉ rằng: “Con muốn tu, muốn về nhưng đi không nổi, đi hết nổi v.v... ” Trước cảnh bi đát này Cha biết phải làm sao để cứu khổ các con nếu không dùng đến “hữu vi sắc tướng”? Bao lâu rồi, ban phương tiện Vô Vi để cứu chúng con, chúng con thờ ơ giải đãi.
    Phương tiện Vô Vi ấy là gì? Là mở đạo khuyên dạy, là nhắc nhở, là hô hào, là cổ võ kêu gọi các con rán tu, rán ăn ngay ở thật, làm lành lánh dữ, lo tu để tự hóa giải bớt nghiệp, bớt khổ, bớt nạn cho mình, nhưng phương tiện Vô Vi đó, các con đã không sử dụng đến, rải nó xuống để cứu độ các con không xong, khiến trần gian mới trọng trược thảm thê dường ấy! Vô Vi không hiệu quả, Cha mới phải dụng Hữu Vi chớ con! Cha há không biết sử dụng đến “hữu vi sắc tướng” để cứu độ con là hạ sách sao? Nhưng thượng sách không xong, trung sách chẳng rồi, Cha mới phải dụng hạ sách để cấp cứu con cái đó thôi!
    Bởi thế, các phần thiêng liêng thuộc khối thanh đã được lịnh Thượng Đế ban sứ mạng, mượn xác tiếp điển cứu trần, hóa giải bớt phần nào khối trược đang hoành hành trần gian để nhân loại bớt khổ. Cũng vì vậy mà có hiện tượng Bồ Tát tiếp điển qua xác trần để dụng bùa thanh cứu khổ nạn của dân. Đấy là gánh phần nào nghiệp lực của nhân loại để hỗ trợ nhân loại tiến hóa. Vì có nhiều con, Cha thí dụ trong môn phái Vô Vi đây, đến khi thức giác biết nghĩ tu, muốn hướng thượng, muốn hành Thiền Định để giải thoát, thì nghiệp chướng tiền khiên đã quá nặng, tam bửu hao mòn, mọi cơ quan máy móc bản thể đều suy bại. Bây giờ bắt đầu biết lo đi lên, thì không còn sức để đi nữa, ý chí đã lụn tàn, bản thể hư hoại, điển lực suy vi mới trở thành nạn nhơn cho khối trược tá vào sử dụng, rồi phần thì bị nghiệp lực khảo đảo trì kéo, hành pháp công phu không nổi.
    Thế nên, Thượng Đế cũng rán cứu rỗi nó, gánh bớt chút nặng, chút khổ, chút nghiệp cho nó để nó dễ tiến hóa hơn. Vì vậy, Cha đã thuận ý cho con nào bị phần điển trược xâm nhập, bị bịnh hoạn hành hạ, có thể tới xin Bồ Tát trị giúp, để bớt khổ mà lo tu tiến. Đây là hồng ân cứu rỗi trong thời mạt hạ của Thượng Đế, là một thứ phương tiện để hỗ trợ phần nào cho trần gian bớt nặng, bớt khổ hầu có điều kiện tốt hơn để tiến hóa trong màn khối trược hoành hành. Duy có điều, các con đừng bao giờ lầm mục tiêu với phương tiện! Mục tiêu của con là gì?
    Là sự tiến hóa không ngừng của phần hồn, mục tiêu này con đừng bao giờ quên nó, vì quên nó con sẽ bị thoái bộ tức khắc! Cha thấy từ khi có việc Bồ Tát tiếp điển qua xác trần dùng bùa cứu bệnh, nhiều con cho rằng đây là bùa thanh rồi đâm ra lạm dụng, bám víu, ỷ lại vào bùa, cho nên phần hồn vì đó bị thoái bộ, tư tưởng bỗng chốc bị ru ngủ trong “Sắc tướng Hữu Vi” rồi bị sắc tướng Hữu Vi trói buộc không vượt lên cao được!
    Cha cho con rõ, như Cha đã xác định ở trên, rằng đây là bùa do phần thanh điển hỗ trợ, nhưng không phải vì nó là bùa thanh mà các con lại nẩy sinh cái tinh thần ỷ lại, lệ thuộc vào thanh điển do bùa tá trợ! Nên nhớ, các con phải đi phải tiến. Bùa không đi giùm các con được! Nếu các con uống bùa mà về được tới nơi, thì Cha đã rải bùa xuống thế gian để đem các con về. Con phải hiểu cuộc hành trình của con là để trau dồi, là rèn luyện ý chí để phấn đấu tiến hóa luôn luôn cho đến khi ý chí trở nên vô cùng tận! Con phải học mới hiểu biết, phải trui rèn trong nghịch cảnh, nương nhờ nghiệp lực để học hỏi và tiến bộ. Bùa thanh chỉ tạm trợ lực cho những con quá nặng nghiệp bị nợ nần oan trái khảo đảo, hồn xác bị hoành hành, muốn đi mà đi không nổi,
    Cha xót thương ban ơn cứu vớt hỗ trợ chút lực cho nó bớt khổ, bớt nặng, để nó có thể tiếp tục tự lo đi. Nhiều con không có bịnh cũng thỉnh bùa uống, hầu được gia tăng nội lực để công phu. Việc này không phải hại nhưng thành tai hại. Tại sao? Vì Cha e rằng, một khi con có tinh thần ỷ lại, bám víu vào bùa để đi, mà không lo tự tu tự tiến, ý chí phấn đấu của con bị suy yếu, phần hồn do đó bị trì trệ, không phát triển, không vươn lên cao được!
    Các con nên biết, dẫu là bùa thanh, nhưng nó vẫn giả con ơi! Nó có tốt hơn bùa trược thật, nhưng phần thanh điển do bùa mang lại cho con vẫn là giả thôi con! Vì nó không phải là thật của con, tức nó phải mất. Cái thanh điển thật của con là cái thanh điển do con cố gắng trau dồi, vun bồi luôn luôn bằng một đời sống đạo đức thiện lành, bằng sự tinh tấn công phu thiền định, bằng cách giữ gìn sự thanh tịnh an nhiên cho toàn bộ cái Tiểu Thiên Địa các con! Chỉ có thanh điển này mới hưởng thật và hưởng được bền bỉ mà thôi.
    Cho nên, Cha khuyên các con, con nào không có bịnh thì thôi, đừng đi thỉnh bùa để giúp mình tiến mau, dễ thiền v.v... Đấy là tinh thần ỷ lại và lạm dụng bùa, điều này chẳng những không giúp con đi nhanh mà còn trở ngại cho sự tiến bộ của con nữa, Cha nói lại, uống bùa thanh không có gì hại, nhưng các con phải hiểu, sự tai hại ở đây không phải do bùa, mà do cái tinh thần lạm dụng bùa của các con đó! Nhưng rồi, con nào có bịnh, vì nhu cầu cần thiết các con cứ đến xin Bồ Tát giúp cho. Với các con này, Cha thấy cũng cần có vài lời nhắn nhủ. Con nào đã được trị thuyên giảm phải nhớ rằng lo tu, nếu không tu, bệnh rồi sẽ tái phát nữa thôi! Vì, con phải thức giác rằng, thiếu tu là nguyên nhân của mọi bệnh trạng, cả xác thể lẫn linh hồn!
    Cho đến chừng nào mà con hiểu được chính con đã làm con bịnh bằng sự hoang phí sinh lực bởi một đời sống quay cuồng loạn động, và rồi, chỉ có con mới là ông thầy thực sự để trị được tận gốc căn bịnh của con, thì chừng ấy các con mới có hy vọng lành bịnh. Vì phải chăng, con nào sống thiếu thanh tịnh, thiếu tiết độ, đắm chìm trong tham, sân, si, hỉ, nộ, ái, ố, dục v.v... là nó đang hoang phí sinh lực, đang phá hoại bản thân chính nó? Khi nào con giận nhiều, buồn nhiều, lo âu nhiều, ính toán nhiều, ham hưởng thụ, dục lạc nhiều, tâm vọng động quá nhiều việc trần gian, đương nhiên, con phải suy yếu rồi ngã bịnh thôi! Về mặt y lý, khi con giận, buồn, lo âu, tính toán, vọng động, tâm trí không yên, không thanh tịnh, tức khắc, lúc ấy hệ não của con sẽ tiết ra độc tố phá hoại bản thể, rồi hệ thống thần kinh bị dao động, tim đập nhịp không đều, các cơ năng thuộc bộ tuần hoàn, bộ hô hấp, bộ tiêu hóa v.v... đều chịu ảnh hưởng xấu!
    Và nếu trong đời sống hằng ngày con vọng động nhiều, hoặc vọng động luôn luôn như vậy, thì tự nhiên bản thể của con phải suy thoái đưa tới bệnh hoạn mà thôi! Về mặt khoa học vô vi, khi con lo âu, tính toán, ham muốn vọng động nhiều bởi cuộc sống trần gian, tam bửu của con bị phân tán, phải hao mòn, ngũ hành suy thoái, lục phủ ngũ tạng do đó bị hư hoại, linh hồn con không được nuôi nấng trưởng dưỡng, nó sẽ bị mê muội, tối tăm, yếu ớt chẳng khác nào ngọn đèn leo lét lụn tàn dần cho đến khi tắt hẳn. Tam bửu mất, ngũ hành phân tán suy vi là nguyên nhân mọi căn bệnh của xác thể lẫn linh hồn!
    Cho nên, Cha lập lại, con phải thức giác để thấy mình đã làm mình bịnh và chỉ có mình là ông thầy có thể trị tận gốc căn bệnh mình mà thôi! Ông thầy nào khác ngoài con chỉ là ông thầy giả, vì ông thầy này chỉ trị cái hậu quả của bịnh trạng, chỉ có con mới là ông thầy trị nguyên nhân bịnh trạng đó! Phải trị nguyên nhân, bịnh mới hết. Vì còn gốc thì còn nảy sanh nhánh nhóc, còn nhân thì còn quả thôi con!
    Nếu con chỉ biết ỷ lại vào một ông thầy nào khác ngoài con, mà không biết giữ tiết độ, không biết dinh dưỡng, không biết tu, thì dẫu thầy có giỏi chừng nào, thuốc có hay chừng nào, bùa có linh đến độ nào, cũng không thể cứu con được, vì thành quả của việc trị liệu sẽ bị con phá hoại bởi một cuộc sống loạn động sau đó! Cho nên, chừng nào mà con hiểu được tinh thần này để quyết tâm lo tự trị thì bệnh trạng con mới có cơ may hoàn toàn bình phục.
    Bởi vậy, khi chưa hiểu thì nghĩ rằng, tu là đè nén, là chịu thiệt thòi, là hy sinh không hưởng điều nọ điều kia, không hưởng thụ trần gian v.v... Khi hiểu rồi con sẽ thấy tu không phải là hy sinh mà là bảo vệ quyền lợi cho chính mình đó thôi! Khi con từ bỏ những ham muốn hưởng thụ trần gian, những vọng động tham, sân, si, hỉ, nộ, ái, ố, dục v.v... Ấy không phải là đè nén, là hy sinh, mà là con đang dinh dưỡng con, con đang bảo vệ con, con đang vun bồi cho con được khỏe mạnh cả linh hồn thể xác và ngăn ngừa trước cho con bao rắc rối khó khăn, đau khổ, thử thách mà con sẽ gặp trong tương lai. Đấy là con biết thương con và thương con trong sáng suốt đó vậy. Nhân đề cập đến vấn đề “Hữu Vi sắc tướng”
    Cha thấy cũng nên nhắn nhủ vài lời với các con trong phái Vô Vi.
    Cha thấy phần đông các con trong phái Vô Vi có khuynh hướng khinh khi “Hữu Vi sắc tướng”.
    Điều này không nên con! Sợ các con cứ vướng mắc mãi trong hình tướng nên khuyên con bỏ hình tướng để trực tiến vào tâm, hồi quang phản chiếu, soi lại, nguyên lai bổn tánh của con để thấu đạt chơn lý! Và khi con hiểu được sự giả tạm của hình tướng để bắt đầu lìa cái trình độ
    “Hữu Vi sắc tướng” để bước vào trình độ học tập Vô Vi, bài Hữu Vi con đã học, trình độ đó con đã đi qua, bây giờ con tiến vào trình độ khác hơn, nhưng như vậy không có nghĩa là con khinh khi bài học cũ và những ai đang còn ở trong trình độ đó!
    Con đừng khinh thường Hữu Vi sắc tướng! Nên biết rằng “Hữu Vi nhờ Vô Vi mà có, Vô Vi nhờ Hữu Vi mà thành!“ Có phải chăng, con từ điển quang Vô Vi ra xác thể Hữu Vi để học hỏi, ngụp lặn trong Hữu Vi. Tìm biết nó, để rồi từ những kinh nghiệm đó con mới thành đạt, mới hườn lại cái Vô Vi của con? Chơn lý là Vô Vi và Hữu Vi một lượt.
    Bỏ Vô Vi, sái chơn lý, bỏ Hữu Vi sái chơn lý luôn con. Khi con đã đi qua trình độ hữu vi, giờ đây muốn lên lớp, con không học bài đó nữa, nhưng nhìn lại nó con cũng không khinh, con phải thấy nó là một giai đoạn cần thiết đóng góp vào chu trình tiến hóa của con! Và rồi với những ai còn kẹt trong hữu vi sắc tướng, con cũng đừng vì vậy mà rẻ khinh, mất lòng tôn trọng đối với họ.
    Cha thấy, có nhiều con trong phái Vô Vi đến Khổng Thánh Miếu, thấy hình thức lễ nghi áo mão bái sám thì ra vẻ khinh thường, chê bai ở đó là còn Hữu Vi sắc tướng, cho rằng theo tinh thần Vô Vi không cần bày vẽ lễ bái như vậy, và tỏ thái độ khó chịu trước cảnh tượng đó. Các con lý luận về “Tinh thần Vô Vi” như vậy thật sai lầm!
    Đấy không phải là tinh thần Vô Vi mà là cống cao ngã mạn. Con phải hiểu rằng, tinh thần Vô Vi là tinh thần “Hòa”, không biết Hòa thì không phải tinh thần Vô Vi. Một con người biết sống tinh thần này thì tâm thức chan chứa yêu thương hòa ái, đến đâu cũng Hòa được, tới lớn Hòa lớn, tới nhỏ Hòa nhỏ, tới đâu Hòa đó, Hòa với tất cả và học với tất cả. Ấy mới là tinh thần Vô Vi. Còn con nào nhìn cái Hữu Vi sắc tướng mà còn khinh rẻ phiền bực khó chịu, ấy là còn câu nệ chấp ngã, chứng tỏ rằng nó đang bị ngoại cảnh, bị cái sắc tướng lúc ấy chi phối khiến tâm nó vọng động phiền bực khó chịu.
    Cho nên, chính thực con này miệng nói Vô Vi, lý luận tinh thần Vô Vi mà tâm còn kẹt nặng trong vòng Hữu Vi sắc tướng đó vậy!

    39. VẤN: Thưa Cha, có một dạo có một người phạm thượng với Cha, Tam Giáo Tòa giáng điển về đàn cơ bắt tội cảnh cáo. Xin Cha cho chúng con biết Tam Giáo Tòa là gì?

    ĐÁP: Tam Giáo Tòa là một cơ quan hành luật trông coi việc tội phước của nhân loại. Cơ quan này dưới sự chưởng quản của ba vị: Thông Thiên Giáo Chủ, Ngươn Thỉ Thiên Tôn và Thái Thượng Đạo Tổ. Sự thật ba vị này cũng là Cha phân thân ra làm việc đó thôi.
    À, chúng con nghe việc phạm thượng Cha, bị Tam Giáo Tòa bắt tội và cảnh cáo. Tại sao có việc bắt tội này con?
    Khi một linh hồn phạm thượng lộng ngôn với Thượng Đế, thóa mạ Thượng Đế. Việc thóa mạ này chẳng thiệt hại gì đến Thượng Đế hay “Đấng Chơn Lý”. Vì, nó có phạm thượng triệu lần như vậy thì chơn lý vẫn là chơn lý, lúc nào cũng làu làu tỏa sáng. Không có gì hủy diệt được chơn lý! Không có gì làm sứt mẻ được chơn lý!
    Nhưng sở dĩ chấp sự lộng ngôn của nó, trách nó, bắt tội nó, chỉ vì sự phạm thượng này xuất phát từ vô minh, từ lòng kiêu ngạo ngu muội của nó. Việc đó sẽ gây trở ngại sự phát triển của chính nó, làm trì trệ sự tiến hóa của linh hồn, làm chậm trễ ngày về của nó. Đấy con, chính việc đó mới là điều quan trọng.
    Chỉ có sự trở về nguồn cội, sự tiến hóa không ngừng của linh tử mới là điều đáng kể với Thượng Đế. Cho nên khi con lộng ngôn xúc phạm Cha, con làm Cha xót xa đau khổ! Cha đau khổ không phải vì uy danh sứt mẻ, vì chơn lý lúc nào cũng là chơn lý, nhưng cha khổ vì con vô minh, con ngã mạn trong ngu muội, nên con không tiến hóa được. Trình độ của con kẹt lại đó và bị thoái bộ theo dòng tiến hóa.
    Cho nên, khi con xúc phạm Cha, Cha bắt tội con qua Tam Giáo Tòa. Cha bắt tội nhưng vì quyền lợi của linh hồn đứa phạm tội, vì nhu cầu hiểu biết và tiến hóa không ngừng của nó! Bởi vậy, sự thất lễ phạm thượng của con vốn dĩ không là tội, chính sự thất lễ phạm thượng trong vô minh, gây trở ngại việc tiến bộ của con mới là tội. Và rồi, luật báo ứng sẽ tác động lên lòng tự tôn ngu muội của con để sửa chữa, để thanh lọc, dần dần giúp con mở trí tiến hóa.
    Đến khi con đạt được sáng suốt, hồn con được giải thoát khỏi sự ngu muội, con cứ việc chưởi Cha, tha hồ thóa mạ Cha. Đạt Ma Tổ Sư nó chửi: “Ông Trời là đống phân”. Đấy quả là một sự lộng ngôn! Nhưng ở đây lộng ngôn mà hiểu biết, nên không phải lộng ngôn. Nó lộng ngôn trong minh triết. Lời thóa mạ của nó phát xuất từ sự hiểu biết cái vĩ đại vô cùng tận của Ông Trời, cái gì cũng là Ông Trời, đống phân cũng là Ông Trời, không có cái gì là không Ông Trời, Ông Trời gồm thâu hết mọi thứ! Cho nên, sự phạm thượng trong minh triết của Đạt Ma chính là lòng tôn kính tột bực đối với Ông Trời đó!
    Bởi vậy, thóa mạ Cha trong vô minh ấy là lộng ngôn, ngã mạn, phạm thượng. Thóa mạ Cha trong hiểu biết, ấy là minh triết, là tôn kính Cha, là ca ngợi Cha đó vậy! Này con, Cha nói thêm rằng, thực ra tính tự tôn kiêu ngạo chính là bản chất của Thượng Đế, và là bản chất của con đó. Tuy nhiên, nếu con cứ mãi ngã mạn trược, kiêu ngạo kiểu trược, con sẽ chìm đắm trong ngu muội, giậm chân ở trình độ trọng trược u tối mà không tiến được.
    Cho nên, nếu muốn khỏi trầm luân chậm trễ ở trình độ đó, để tiến sang trình độ cao hơn, con phải học ngã mạn lối khác hơn. Con đã học kiêu ngạo theo lối trược, giờ đây, con nên học cách kiêu ngạo theo lối thanh để tiến lên chỗ sáng, chỗ nhẹ.
    Kiêu ngạo thanh là sao? Khi con khiêm tốn đó con! Con phải hiểu khi con khiêm tốn là con đang tự tôn một cách sáng suốt đó! Thật vậy, đứa kiêu ngạo không thích phục ai, luôn luôn muốn cao hơn người, nhưng vì nó kiêu ngạo kiểu nặng, nên nó bị trì xuống thấp mà không được lên cao như nó muốn. Kiêu ngạo lối này chỉ khiến con xuống thấp, bị chê bai giận ghét xa lánh.
    Còn đứa khiêm tốn, ý không muốn hơn ai, luôn luôn tìm chỗ khuyết của mình để cầu tiến, hòa ái, học hỏi nơi tất cả, thấy mọi người đều là Minh Sư của mình, nhìn được trong chỗ dở, chỗ thấp kém, cái hay cái cao để mình học hỏi tiến bộ. Đứa này sẽ vọt lên cao thật nhanh, dù nó không hề muốn làm cao. Có phải chăng nhờ nó chịu khiêm tốn học hỏi nên được phong phú, mau tiến bộ, mau sáng suốt, hiểu biết nhiều?
    Hạnh khiêm tốn hòa ái với tất cả sẽ là hấp lực thu hút sự quý mến và lòng tôn trọng của mọi người với đứa đó. Hành động mà được quý mến tôn trọng, được hơn người và được tiến bộ lên cao, chính là tính kiêu ngạo đang phát triển ở hình thức cao, tức là kiêu ngạo thanh vậy! Nhờ thanh nhẹ mới rút lên chỗ cao, chỗ sáng.
    Ngã mạn trược, chỉ là tính kiêu ngạo ở trạng thái vụng về thô thiển, ngã mạn thanh hay tính khiêm tốn là tính kiêu ngạo ở trạng thái cao nhã, tinh vi tế nhị. Lối tự tôn bằng cách khiêm tốn này sẽ giúp con tiến hóa lên chỗ sáng suốt. Dĩ nhiên, đây phải là đức khiêm tốn thật, không phải làm màu khiêm tốn để được ca ngợi. Khi tâm con còn vọng động chút gì, muốn làm cao, muốn được khen, tức còn vướng mắc cách ngã mạn nặng trược, ắt con sẽ bị trì xuống nặng mà chẳng tiến cao được.
    Thể hiện hòa đồng với tất cả, luôn luôn học hỏi tiến bộ nhưng không chút vọng tưởng mong được cao, được sáng, được quý, được trọng, tâm ý thanh tịnh không không. Ấy mới thiệt là biết kiêu ngạo thanh, là hạnh kiêu ngạo của Phật vậy!

    Cho nên, kiêu ngạo là tính của Thượng Đế nên bất khả diệt! Khi con học khiêm tốn, ấy không phải là diệt kiêu ngạo, mà là thăng hoa tính kiêu ngạo của con đó thôi. Cuộc hành trình con xuống thế đến ngày về là để học tính kiêu ngạo, từ thấp đến cao, từ nặng đến nhẹ, từ trược đến thanh, cho đến khi con thật sự biết kiêu ngạo.
    Nói đến đây, Cha nhớ lại, có đứa cho rằng cung cách giảng thuyết của Cha cũng như lối xưng hô thằng này đứa kia, như gọi thầy các con là thằng Tám, hay gọi những vị lớn như Phật, Chúa, Khổng Tử v.v... bằng thằng Chúa, thằng Phật, thằng Khổng v.v... như vậy Cha có vẻ tự tôn, kiêu ngạo! Nhưng con ơi, con nghe Cha hỏi đây: Có đạo lý nào lên án Cha gọi con bằng “Thằng” là tự tôn kiêu ngạo không con? Hay chỉ có những đứa con nó nghe Cha nó kêu nó bằng “Thằng” mà thấy khó chịu, những đứa ấy mới tự tôn kiêu ngạo!
    Nhưng nếu con nào nghe Cha xưng hô thằng này đứa nọ, mà lên án Cha là tự tôn kiêu ngạo thì Cha sẽ cho nó biết rằng, con nói Cha kiêu ngạo chưa đủ rõ, phải nói rằng Cha đại kiêu ngạo và kiêu ngạo vô cùng tận mới đúng hơn! Cha là thằng kiêu ngạo nhứt càn khôn! Cha cao nhứt và cũng thấp nhứt, cao cả nhứt mà cũng hèn mọn nhứt, cả sự hèn mọn Cha cũng nhứt không muốn thua ai!
    Cho nên, Cha kiêu ngạo cả trong sự hèn mọn nữa con! Và nếu khi nào Cha không còn kiêu ngạo nữa, Cha để Cha thua một cái gì, nhường bước cho một cái gì, còn để cái gì cao hơn Cha, thì đấy là sự sụp đổ của chơn lý tối thượng vậy! Thế nên, chơn lý vốn dĩ đại kiêu ngạo, đấy là bản chất bất khả diệt của nó.
    Tuy nhiên, Cha cho con rõ, ở ngôi Thượng Đế Cha có quyền khinh thường hết mọi thứ trong càn khôn, Cha có quyền coi mọi thứ thấp kém hơn Cha hết, không những chỉ vì Cha là chơn lý tối thượng, không những chỉ vì Cha là Đấng Sáng Tạo ra nó, mà cả vì lý do, khi Cha nghĩ khinh nó, khi Cha thấy nó thấp kém hơn Cha, Cha nhìn được chỗ nó là Cha, Cha là nó, nó với Cha là một, đó thôi. Cho nên, Cha khinh mà không khinh, làm cao mà thấp, kiêu ngạo mà không kiêu ngạo đó con! Nên biết rằng:
    Khi con làm được cao cả nhất và làm được hèn mọn nhất, thấy được cả hai trạng thái đó cùng một lúc, ấy là con đã thật sự biết kiêu ngạo vậy!

    40. VẤN: Thưa Cha, trước đây những bạn tu theo PLVV có nghe ông Tám dạy rằng, người hành pháp Thiền này không cần ăn chay, vì có phần Pháp Luân Thường Chuyển khử trược lưu thanh, cho nên ăn mặn mà vẫn thanh. Và Ông Tám còn nói bản thể người tu ví như cái nhà tốt, sang trọng như cái “Xá Vệ Quốc”. Vậy tại sao không từ bi thâu nạp những phần điển các con thú vào để cho nó sung sướng, để độ nó, dẫn tiến nó đi lên. Đây là cứu nó chứ không phải sát nó. Tuy nhiên, từ ngày cha xuất hiện trong Phái Vô Vi, Cha khuyên chúng con phải ăn trường chay, rồi chúng con thấy ông Tám ăn chay trở lại. Như vậy phải chăng trước đây Ông Tám lý luận sai?

    ĐÁP: Tại sao không từ bi thâu nạp phần điển thú vào cái nhà tốt sang trọng, vào cái “Xá Vệ Quốc” của người tu cho nó hưởng sướng hơn, để độ nó, để dẫn tiến nó đi lên? Tám nói điều này đúng chớ con! Nhưng có điều chỉ đúng và chỉ nên áp dụng cho riêng Tám cũng như một số người tu tiến hóa cao, đã phát huệ, có trình độ thanh điển nhiều để có thể dẫn tiến con vật. Chỉ những cá nhân này mới có được bản thể đủ thanh lọc xứng đáng xem là “căn nhà sang trọng” là Xá Vệ Quốc để thu nạp các phần điển thú vào, cho nó hưởng được sự sung sướng, sự sáng suốt, thanh nhẹ, để dẫn tiến nó đi lên thôi!
    Trường hợp này ăn mặn có phước, có công quả! Đem điển thú vào bản thể mà giúp nó tiến hóa đi lên được nhờ sự sáng suốt và khối thanh điển của mình thì nên làm, đấy là cứu nó chứ không phải sát nó! Nhưng còn chúng con, đa số tu theo pháp này cũng bắt chước Tám ăn mặn, nhưng bản thể chúng con chưa đủ thanh lọc, huệ chưa sáng, thanh điển chưa bao nhiêu, căn nhà bản thể còn dẫy đầy rác rưới, meo mốc tối tăm, vì chưa được tẩy rửa bao nhiêu kiếp rồi, bây giờ mới bắt đầu quét rác. Nhưng rồi con chắc con đã quét sạch chưa? Ngồi công phu hành pháp quét được mớ rác, sau đó lại quến thêm một mớ khác vào, quét ra bao nhiêu lại quến thêm bấy nhiêu, đấy là, chưa kể trường hợp mỗi tối quơ vào vài “cú chổi” cho lấy có! Thế thì con ơi! Trường hợp này, thật căn nhà của con không thể được xem là nguy nga sang trọng, là cái “Xá Vệ Quốc” để thu nạp chúng sanh mà khỏi bị phàn nàn! Căn nhà con còn lụp xụp tối tăm, thiếu vệ sinh, chưa quét dọn được là bao, thế mà còn thu nạp, mỗi ngày bao nhiêu là chúng sanh vào cái chỗ lụp xụp tối tăm, bẩn thỉu ấy nữa.
    Dĩ nhiên, vào một nơi như vậy chỉ khiến chúng khổ sở tù túng ngu muội và không thể nào tiến hóa lên cao được! Vào căn nhà con mà không thấy sung sướng, thoải mái, không được tiến bộ sáng suốt hơn, thì tự nhiên, chúng phải quay lại khảo đảo con thôi! Ấy là chưa kể con còn phải có nợ “ân oán giang hồ” với chúng, vì con đã giết chúng, rồi đem chúng vào nơi tối tăm khổ sở. Đấy gọi là “Nghiệp sát” đó con! Cho nên người tu còn ăn mặn mà không có trình độ dẫn tiến các phần điển thú để rút chúng lên tầng giới sáng hơn, thì các phần thú này phải bị kẹt lại trong bản thể khiến bản thể bị trược, và điển chúng sẽ vất vưởng theo con để đòi nợ, phá phách, rồi trì kéo con đường tu tiến của con thôi! Cho nên, các con trong Phái Vô Vi đa số không ăn chay vì ỷ lại vào cái Pháp Luân Thường Chuyển khử trược lưu thanh.
    Nhưng Cha hỏi con, mỗi lần công phu, con có chắc rằng cái Pháp Luân đó quét sạch được rác rưởi tích tụ từ bao nhiêu kiếp chưa? Ấy là chưa kể số rác rưởi có thể quến vào thêm hiện tại trong đời sống hồng trần mỗi ngày của con. Con đã tẩy rửa con chưa sạch chưa thanh đã vậy con còn đem phần trược điển thú vào và dám tin chắc rằng con có thể tẩy rửa cho nó sạch, giúp nó sáng để đi lên hay sao?
    Cho nên, người tu, giết con vật mà độ được nó, giúp nó sướng hơn, sáng hơn, và tiến hóa thì đấy là công quả. Giết nó mà không độ được, để nó kẹt trong khổ sở tối tăm, ấy là nghiệp quả. Giết nó mà dẫn tiến được nó, ấy là cứu nó, là có ân với nó. Giết nó mà không dẫn tiến được nó, ấy là hại nó, là có oán với nó! Có oán với nó thì nó phải theo nó báo mà thôi!
    Cha có nghe lý luận rằng “Nếu ăn chay mà thành Phật thì con bò ăn toàn rau cỏ đã thành Phật rồi!“ Điều này cũng đúng vì con nào nghĩ ăn chay mà thành Phật, ấy là mê tín, là vọng tưởng. Phải hiểu rằng, các con không thể ăn chay mà thành Phật được! Việc ăn chay chỉ trợ duyên cho người tu dễ đi, mau tiến hóa, bản thể được thanh hơn người ăn mặn, nên mau nhẹ mau sáng hơn. Người tu thiền ăn chay sẽ dễ hành công phu hơn người ăn mặn chắc chắn. Vả chăng người tu khi ăn chay cũng là giúp phần hồn phát triển đức từ bi hỉ xả. Con không thể ru ngủ lương tri, vị lợi mình, vì miếng ngon của mình để nhúng tay vào máu, sát hại loài thú khi chúng đã có trình độ tham sống sợ chết. Con có thấy không, chúng đau đớn, rên siết, oằn oại biết chừng nào dưới tay đồ tể, và chúng cũng dùng hết sinh lực để dẫy dụa mong thoát khỏi cái chết đang chờ chúng và bám víu vào sự sống mong manh một cách tuyệt vọng ở những giờ phút sau cùng?
    Nếu các con có huệ nhãn để quan sát phần điển con thú giờ phút đó, các con sẽ thấy điển của chúng rung động những màu sắc diễn tả sự kinh hoàng tột độ và sự oán hận ghê gớm những người đã giết chúng và làm chúng đau khổ. Là người tu phải học hạnh từ bi, phát tâm cứu khổ chúng sinh.
    Thế nên con phải hiểu, khi giết con vật để ăn mà dẫn tiến được nó là con cứu khổ nó, giết nó để ăn mà không độ được nó, ấy là con đã sống trên máu và trên những những đau đớn rên xiết của nó đó! Điều này để con thấy rằng khi con chưa có trình độ để cứu khổ con vật bằng cách giết nó thì hãy cứu khổ con vật bằng cách phóng sinh nó vậy!

  9. #9

    Mặc định

    41. VẤN: Thưa Cha, xin Cha cho rõ, người tu theo Pháp Lý này phải tới trình độ sáng nào, mới có thể ăn mặn mà cứu độ được con vật?

    ĐÁP: À, người tu nếu muốn ăn mặn để lập công quả độ thú thì hãy chờ khi huệ nhãn mở tới trình độ thấy được hồn con vật. Thấy được cảnh nó vô bản thể mà nó vui, nó sướng, nhờ ăn mặn: ăn mạng (sinh mạng). khối thanh điển của mình, và sau khi ăn nó, mình công phu dùng tư tưởng dẫn tiến nó, để mình niệm Phật, nó chịu niệm Phật theo mình, chịu nghe lời mình dạy tu để tiến hóa lên tầng giới cao hơn. Phải thấy được những cảnh như vậy bằng huệ nhãn của con, thì mới chắc rằng, con ăn thú vô mà giúp được nó sướng nó nhẹ. Đến trình độ đó con hãy ăn mặn. Ở đây, Cha cũng muốn nhắc nhở chúng con nhớ, hồi Tám mới tu, Tám cũng phải ăn chay trường chứ con. Đến khi trình độ Tám phát huệ, sáng nhiều, thấy được hồn con vật. Thầy nó là Đỗ Thuần Hậu mới khuyên nó ăn mặn để làm công quả độ thú.
    Vì lúc đó cái nhà bản thể của Tám đã sang đẹp, đã là cái Xá Vệ Quốc có thể thu nạp các chúng sinh mà giúp chúng sướng, chúng hiểu hơn để tu tiến. Đạt Ma Tổ Sư cũng như nhiều vị Sư Tổ khác, khi đã có trình độ cao siêu rồi, đắc quả rồi mà còn phải ở cõi trần để độ đời thì đã không chấp nê chay mặn. Gặp chay ăn chay, gặp mặn ăn mặn, ăn mặn khi ấy cũng như ăn chay. Ăn mặn ở trình độ của những vị đó còn hữu ích hơn ăn chay nữa. Ăn mặn lúc đó là vì từ bi, không phải sự đòi hỏi của khẩu vị nữa rồi. Tám cũng vậy, Tám giờ đây ăn mặn hữu ích hơn ăn chay. Tuy nhiên, Cha đã kêu Tám ăn chay lại là để làm gương cho các con tu phái Vô Vi đó thôi!
    Vì nếu nó ăn mặn, các con có khuynh hướng theo gương nó, rồi các con chưa đủ trình độ sáng, bắt chước nó ăn mặn khiến bị chậm trễ, bị trì kéo sự tiến bộ của các con thôi! Đây là lý do để Tám ăn chay trở lại như các con đã biết.

    42. VẤN: Thưa Cha, con vật cũng giống như con người, tai nạn sống chết đều có số, tới ngày giờ phải bị giết theo nghiệp quả. Vậy tại sao mình giết nó lại có nợ sát sinh với nó để nó theo báo mình?

    ĐÁP: Nó theo báo con, đòi nợ con, vì trình độ hiểu của nó chưa tiến hóa đến chỗ biết tha thứ cho những ai làm nó đau khổ! Đấy là thú tính!
    Con người cũng vậy, khi nó tỏ ra căm hận và sinh ý muốn trả đũa báo oán lại kẻ gây điều đau khổ cho nó, ấy là nó thể hiện thú tính đó!
    Cho nên, khi con sát hại con thú mà chưa đủ trình độ để giúp nó sáng thêm, hiểu biết để chịu tu, không oán hận nữa, thì tự nhiên, với bản tính còn phát triển ở trình độ thú, nó oán hận và theo đòi nợ con đó thôi!

    43. VẤN: Thưa Cha, nếu tất cả đều do nghiệp quả, phần số chỉ định, thì việc con phải sống bằng nghề chài lưới, chăn nuôi, cũng là theo phần số. Vậy con nuôi bò heo gà vịt v.v... hoặc chài bao nhiêu cá tôm để loài người sát hại ăn uống, việc ấy có tội không, khi đây là tại số phần của con phải sống bằng nghề này?

    ĐÁP: Những tay đồ tể hay những con nào sinh sống bằng nghề sát sinh hại vật, gây nợ máu với loài thú đều là vướng vào nghiệp không lành cả. Giá các con thấy được những tư tưởng oán hận của các con vật và cảnh hồn nó đeo theo con đòi nợ ra sao, chắc các con phải dứt khoát buông dao đồ tể, vì không còn tâm dạ nào muốn giết hại chúng nữa.
    Nhưng đấy là cảnh tượng thuộc khoa học Vô Vi mà mắt thường không thể chứng nghiệm được, thế nên loài người cứ vì lợi mình, vì miếng ngon cho khẩu vị mà thẳng tay tàn sát chúng không chút xót xa.
    Nhưng rồi, nếu cho rằng với mắt thường con người không thấy được phần điển con thú oán hận theo đòi nợ, thì bằng mắt thường, con người cũng phải chứng kiến cảnh tượng máu đổ ghê gớm, cảnh rên siết oằn oại dẫy dụa hãi hùng của loài vật, để rồi tự vấn lương tâm xem mình có quyền dùng uy lực của kẻ mạnh hơn, biết hơn, thông minh hơn, mà thẳng tay đàn áp sát hại, và sống bằng máu, bằng cái chết của một sinh vật yếu đuối ngu muội hơn, nên không đủ sức tự vệ?
    Cảm giác đau đớn oằn oại của thể xác mà loài vật chịu đựng khi bị cắt cổ lột da đâu khác gì loài người khi bị cảnh tương tự? Chúng cũng biết kinh sợ và đem hết khả năng để tự vệ hầu thoát được cái chết đang đe dọa. Tâm trạng ấy, bản năng phấn đấu ấy đâu khác gì con người?
    Đã vậy còn ngụy biện rằng: “Người ta giết sẵn đem bán, tôi mua về tôi ăn, tôi ăn miếng thịt của con vật đã chết sẵn rồi, tôi đâu có chính tay hạ sát nó”. Nhưng thử hỏi, không có người ăn làm sao có người giết, không có cầu làm sao có cung! Vì vậy, cả người giết lẫn người ăn đều phải chia nhau món nợ máu với mấy con thú bị sát hại.
    Cho nên, khi con người đã có trình độ phát triển nhân tính thật sự thì không còn muốn giết hại loài vật nữa. Vì vậy đã không biết thì thôi, biết rồi thì các con phải mau mau phát tâm bỏ nghiệp dữ để tiến sang nghiệp lành hơn. Tìm những cách sống không vay nghiệp nặng, dẫu không đem lại cho con nhiều lợi nhuận vật chất, nhưng về phương diện tinh thần con sẽ tránh bớt nợ oan khiên.
    Cha thí dụ một trường hợp điển hình, đấy là trường hợp của một đứa trong phái Vô Vi mà chắc các con ở đây có biết. Trước đây nó có trại chăn nuôi, sau một thời gian hành pháp Vô Vi này, ngồi công phu thấy mấy con thú bu nó phá. Rồi nó đào ao nuôi cá để kiếm lợi, tối công phu thấy bầy cá bu nó rỉa. Nó hoảng sợ lương tâm nặng nề cắn rứt. Sau đó, có cơ hội diện kiến Cha, nó liền xin Cha ban ơn chuyển nó giải nghiệp sớm. Thấy nó thật tâm, Cha chuyển cho được như ý. Giờ đây, nó đã dẹp trại chăn nuôi. Hôm trước, được vào đảnh lễ Cha, nó thưa rằng: “Con có tay chăn nuôi, con biết tính toán sao cho có lợi nhiều bằng nghề này.
    Nhưng sau một thời gian tu theo Pháp Vô Vi Huyền Bí Học, con bắt đầu đổi tánh, nhứt là khi công phu thấy cảnh mấy con thú nó phá, lương tâm con cắn rứt nặng nề, không còn muốn sống với nghề này nữa! Giờ đây, được Cha ban ơn cho con giải quyết đâu đó ổn thỏa, con thấy nhẹ nhàng, thanh thản hơn, dẫu giờ đây, con không còn kiếm được lợi nhiều như trước!“
    Trường hợp trên là gương điển hình để con nào, nếu đã lỡ vì vô minh mà vướng nghiệp sát, sống bằng những nghề có nợ với loài thú, thì khi đã hiểu hãy dứt khoát phát tâm chuyển sang nghiệp lành hơn đi con! Rồi con phải lo chí quyết tu hành lập công bồi đức để mau tiến hóa. Ngày nào con tiến hóa lên cao, cứu độ được chúng, là con mới hết nợ với chúng. Con phải biết oan oan tương báo, có vay phải có trả. Càng vay nhiều thì càng phải trả nặng. Trước sau gì luật nhân quả cũng phải tác động để cho con học mà thôi!

    44. VẤN: Thưa Cha, nhưng rồi các loài vật dưới nước cũng như trên cạn, nếu không bị loài người sát hại, không có nguồn tiêu thụ thì chắc chúng sẽ càng ngày càng sinh sôi nẩy nở choán hết chỗ sống của loài người trên địa cầu này, vậy phải làm sao?

    ĐÁP: Này con, nếu có sinh phải có diệt. Ấy là quy luật của Đất Trời. Vả như các loài vật không bị con người sát hại, chắc chắn, chúng cũng phải bị diệt theo quy luật thiên nhiên mà thôi. Thử bàn đến loài thủy tộc sống dưới nước. Nếu con người không bắt chúng, sát hại chúng, thì chúng cũng phải tự tiêu diệt bởi cảnh cá lớn nuốt cá bé, loài này là mồi của loài kia, chúng săn đuổi nhau và tàn hại lẫn nhau không ngớt, ấy là chưa kể những cảnh biến động dưới lòng biển cả, những chấn động bất ngờ dưới biển sâu đã mang lại cái chết cho vô số sinh vật trong lòng đại dương.
    Rồi lại bàn đến những loài vật trên đất liền. Những thú vật sinh sống chốn rừng xanh, nếu loài người không săn bắt chúng, chúng cũng phải bị diệt theo quy luật. Những cảnh đọ sức, cảnh mạnh hiếp yếu, cảnh con này ăn con kia, cảnh săn đuổi, giết hại lẫn nhau, rồi những tai nạn chốn rừng thẳm, những biến động bất ngờ, những trận bão rừng, những trận cháy rừng đã hủy diệt bao nhiêu thú vật chốn rừng xanh. Sự kiện ấy khiến nhiều nơi loài người đã lập ra những luật bảo vệ rừng, cấm việc săn bắn để giữ lại nhiều giống hiếm hoi đi dần tới chỗ tuyệt chủng.

    Rồi bây giờ, Cha nói đến các loài gia súc than cận với loài người, như bò, heo, gà, vịt, chó, mèo v.v... Nếu con người không dùng chúng làm vật thực và là nguồn lợi sống, thì chúng cũng phải chết đi vì tai nạn, vì bệnh hoạn vì già yếu mà thôi! Mỗi loài đều có số tuổi của nó, khi con chó
    sống quá mười năm, nó phải bắt đầu già yếu, chậm chạp đi lần vào cái chết không hơn vài năm sau đó. Nếu con nói rằng, giả như không sát hại chúng, dùng chúng làm thực phẩm thì chúng sẽ sinh sôi nẩy nở, không còn chỗ chứa. Thế thì xem thử con chó con mèo bên Âu Mỹ, hầu như không ai giết nó để ăn thịt. Chúng được thương yêu săn sóc và xem như người bạn thiết trong gia đình.
    Nhưng rồi có vì vậy loài này sinh sôi nẩy nở không còn chỗ chứa? Có khi, vì bệnh hoạn hay già yếu mà chết, con người còn thương tiếc muốn giữ được chúng sống, vậy mà vẫn phải mất chúng thôi! Các con nên rõ, các loài gia súc như: bò, heo, gà, vịt v.v... sở dĩ, còn đông như vậy trên địa cầu là vì chúng được xem như nguồn lợi lớn khiến con người thành lập những trại chăn nuôi quy mô để trưởng dưỡng chúng, để kích thích chúng sinh sản tối đa, dùng mọi mánh khóe tân tiến để giữ chúng mạnh khoẻ, săn sóc, bảo vệ chúng khỏi bệnh, khỏi chết để được nhiều lợi nhuận. Ấy vậy, mà vẫn có những tai nạn, những bịnh dịch súc vật khiến chúng chết đi hằng loạt không giữ nỗi khiến trại chủ phá sản.
    Đấy là nguyên nhân khiến chúng sinh sôi nẩy nở và có nhiều như vậy. Phải có bàn tay con người chuyên chú nuôi nấng, chủng giống kích thích chúng nẩy nở thêm tối đa bằng mọi mánh khóe tân tiến để ăn uống thủ lợi, chúng mới góp mặt đông như vậy mà thôi!
    Con thấy hiện tại ở Việt Nam, giống cừu phải hiếm vì ít ai khai thác chăn nuôi và sử dụng đến nguồn lợi nầỵ Nói vậy, để con nhận định rằng, nếu con người không chuyên tâm nuôi thú vật để ăn uống thủ lợi, không còn sinh sống bằng cách sát hại hay bằng máu và nỗi đau đớn oằn oại của loài vật nữa, thì chắc chắn, các thú vật sẽ không sinh sôi nẩy nở đến độ choán đất sống như con tưởng.

    45. VẤN: Thưa Cha, trên thực tế phải thấy rằng thú vật là một nguồn lợi đáng kể cho đời sống con người. Chúng cho thịt để ăn, cho lông, xương, da, để làm chất liệu sản xuất những sản phẩm trong công nghiệp. Như vậy, chúng đã đóng góp thêm sự phong phú cho xã hội loài người. Thế giới chắc sẽ bớt phong phú đi, nếu tập thể loài người ăn chay trường và không còn sát hại thú vật để sử dụng nữa.

    ĐÁP: Con nói đúng, thú vật là nguồn cung cấp đáng kể cho xã hội loài người thêm phong phú về phương diện vật chất. Nhưng không phải vì thế mà con người cảm thấy hạnh phúc, cảm thấy đời sống bớt đau khổ! Trái lại, càng ngày con người càng chìm đắm trong đọa đày, trong những bi kịch máu lệ bởi những cảnh xâu xé, tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau, lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu, rồi bao nhiêu tội ác, bao nhiêu thảm kịch diễn bày với khủng bố, với giết chóc, với những chiêu bài lý tưởng đẹp đẽ: “Vì người để giết người”, mà hậu quả là những cuộc tàn sát tập thể của xã hội loài người bởi những cuộc chiến tranh khốc liệt!
    Đây là những lò sát sinh vĩ đại lôi cuốn hàng vạn triệu sinh linh vào cuộc chém giết để trả cho tròn cái quả báo ứng của nghiệp sát! Có phải chăng, những nỗi đọa đầy thống khổ mà nhân loại đang gánh chịu là từ những thể hiện của “thú tính” trong con người, từ sự đánh mất nhân tính được diễn đạt qua bối cảnh tranh giành xâu xé nhau để thỏa quyền lợi vị kỷ, qua những cảnh đàn áp khủng bố, chiến tranh, giết chóc, những tội ác gớm ghê? Rồi thử hỏi vì sao nhân tính lu mờ dần?
    Nhờ đâu thú tính được tăng trưởng mạnh mẽ trong những khuôn mặt và hình dạng con người? Có phải chăng vì loài người đã nuôi mình bằng thịt thú, sống bằng máu thú, xây đắp quyền lợi và sự hưởng thụ của mình trên nỗi thống khổ của triệu ức xác thú? Không nói đến hồn thú, điển thú, thuộc địa hạt Vô Vi mà con người chưa thấy được. Nhưng điều chắc chắn và rõ ràng là máu thú phải xâm nhập, lưu hành, thâm nhiễm trong huyết quản con người, khiến nhân tính mờ đi, thú tính phát triển. Rồi con người không ngần ngại gì để lao vào tội ác, tham lam ích kỷ, dùng bạo lực để đàn áp uy hiếp kẻ yếu thế hơn, tranh giành xâu xé giết chóc tàn hại lẫn nhau, y như cách sống của xã hội loài thú. Như vậy để thấy rằng, việc sát hại loài vật tuy tương đối giúp cho đời sống con người phong phú phần nào về vật chất, nhưng lại tàn phá hạnh phúc loài người về phương diện tinh thần.
    Và rồi, chắc chắn, sự sụp đổ tinh thần có lúc sẽ kéo theo những thảm họa sụp đổ của nền văn minh vật chất. Bi kịch ấy tất phải đến không sao tránh khỏi, và các con chắc chắn đã thấy nhiều dấu hiệu của một cuộc chiến tranh nguyên tử hạch tâm khốc liệt sắp bùng nổ không xa, đưa tới sự hủy diệt hoàn toàn nền văn minh vật chất, nhưng nghèo đói tinh thần, của thế giới hiện tại.
    Nhưng rồi, hình ảnh thế giới sẽ ra sao khi cả tập thể loài người ăn chay trường và từ bỏ việc sát hại thú vật để trục lợi? Chắc chắn thế giới sẽ không có kiểu phong phú hiện nay, nhưng có ngàn kiểu phong phú khác để giúp con người phúc lạc.
    Con người sẽ không có thịt, da, xương, hay lông thú để trang điểm đời sống vật chất, nhưng lại có muôn vàn phương tiện khác phong phú hơn để trang điểm một cuộc sống thịnh vượng cả vật chất lẫn tinh thần. Loài người ở xã hội này sẽ biết đoàn kết thương yêu nhau như huynh đệ, tôn trọng lẫn nhau, vì khi đã biết tôn trọng quyền sống của cả loài vật, ắt sẽ biết tôn trọng quyền sống của con người thật sự!
    Những thứ ấy thực vô giá mà hiện tại kho vàng cả thế giới muốn tìm mua cũng không có mà mua được. Nhờ đoàn kết và biết thương yêu nhau, con người ở xã hội này sẽ phát triển trí thông minh, tâm đạo đức, óc sáng kiến và trở nên văn minh tột bực, từ vật chất đến tinh thần.
    Nhân loại kỷ nguyên này đi sâu vào việc nghiên cứu Khoa Học Vô Vi, phát triển vượt bực Khoa Siêu Hình Học, tức khoa Hình Nhi Thượng Học, được học hỏi hiểu biết và tiến hóa rất cao nhờ mở được những quyền năng bí ẩn trong bản thể con người.
    Xã hội này sẽ thật sự là xã hội đại đồng, là một thứ Bồng Lai tại thế! Viễn tượng này không phải là ảo tượng. Xã hội này chắc chắn phải được hình thành do ý chí của Thượng Đế, và được xây dựng nên, không phải từ vũ khí, bạo lực, sắt máu, mà nhờ sự hiểu biết, nhờ trình độ tiến hóa đạo đức và tinh thần đại đồng của con người.
    Xã hội này chỉ sẽ xuất hiện vào kỷ nguyên Thánh Đức sắp đến. Cơ Thánh Đức đang được hô hào rao giảng để sửa soạn mở màn. Vậy Cha khuyên các con hãy chuẩn bị thân tâm xứng đáng.

    46. VẤN: Thưa Cha, cây cỏ cũng có đời sống, cũng là một sinh vật trong thiên nhiên, vậy tại sao mình có thể sát hại nó để ăn, mà mình không thể làm như vậy với loài thú?

    ĐÁP: Trước hết, dĩ nhiên con người phải cần thực phẩm để nuôi sống cơ thể của nó, nhưng nó phải biết chọn cách sống nào phù hợp với định luật thiên nhiên hay định luật tiến hóa. Và khi con người dùng cốc loại, rau đậu, làm thực phẩm, ấy là phù hợp theo định luật thiên nhiên vậy. Vì sao? Vì thực sự, con người là một loài sống bằng cốc loại, rau đậu, hoa quả. Xét về phương diện cơ thể học, sự cấu tạo cơ thể của con người từ móng tay, móng chân cho đến hàm răng, đến bộ phận tiêu hóa, đều để ăn ngũ cốc, rau đậu.
    Cơ thể loài ăn thịt đã được cấu tạo khác hơn, từ bộ phận tiêu hóa, đến răng nanh dài, đến tứ chi có móng vuốt bén nhọn để vồ mồi xé thịt. Thế nên, nếu con người ăn thịt, là sống sái với quy luật thiên nhiên, do đó, phải cản trở sự tiến hóa của nó.
    Về mặt khoa học Vô Vi, thì loài thực vật nhờ thọ khí âm dương của Trời Đất mà hóa hóa sanh sanh, nên điển của chúng có bẩm chất nhẹ nhàng, thanh hơn điển của loài động vật. Vì vậy, khi sống bằng thực vật, khí chất con người được nhẹ nhàng hơn, điển quang con người ít nhiễm trược hơn là khi dùng thực phẩm động vật. Cho nên, khi sống bằng động vật, điển con người phải bị nặng nề, trì trệ sự tiến hóa đi lên của nó. Về mặt đạo lý, các con thấy rằng, loài thú có trình độ tiến hóa hiểu biết hơn loài cây cỏ.
    Chúng có xúc giác biết nhạy cảm sự đau đớn như loài người. Tuy ngu muội hơn con người, nhưng các con phải nhận rằng ở chúng có phần nào sự phát triển tình cảm và trí thông minh, nhất là những loài thú được cơ hội sống gần con người. Thế nên, vì trình độ tiến hóa hiểu biết hơn, chúng phải cảm giác đau khổ hơn loài cây cỏ khi chúng bị sát hại. Vậy con phải chọn cách sống nào đỡ gây cảnh đau đớn để phù hợp với nhân tính.
    Về mặt nhân quả, con phải biết rằng càng giết hại một sinh vật tiến hóa nhiều chừng nào, con càng nặng nợ chừng nấy.
    Con giết loài cây cỏ không nợ bằng con giết loài cua ốc.
    Con giết loài cua ốc không nợ bằng con giết loài gà vịt.
    Con giết loài gà vịt không nợ bằng con giết loài chó mèo.
    Con giết loài chó mèo không nợ bằng con giết một con người.
    Con giết một con người bất lương không nợ bằng con giết một con người tu hành thánh thiện v.v...
    Cho nên, con sẽ chọn cách sống nào ít gây nợ nhất để khỏi bị trì kéo, gây trở ngại con đường tiến hóa của con. Tóm lại, tất cả chỉ để phục vụ mục tiêu tối hậu, đấy là sự tiến hóa không ngừng của các Tiểu Hồn đó thôi.

    47. VẤN: Thưa Cha, theo con thấy, sở dĩ vấn đề ăn chay bị con người chống đối là vì ăn chay không ngon miệng mà làm tổn hại sức khoẻ con người.

    ĐÁP: Con có cảm giác ngon miệng ấy là vì tập quán và thói quen đã thâm nhiễm vào khẩu vị và tâm lý của con. Khi con ăn chay đã quen, con ăn lại cá thịt sẽ thấy tanh hôi và khó ăn mà thôi.
    Còn bảo rằng ăn chay gây tổn hại sức khoẻ con người, Cha cho con rõ, cơ thể con người được cấu tạo để sống bằng cốc loại thảo mộc. Và trong thức ăn cốc loại thảo mộc có đầy đủ tính bổ dưỡng cho sức khoẻ con người. Nếu chỉ có ăn chay mới gây tổn hại sức khoẻ, thì chắc bệnh viện phải chứa toàn người ăn chay! Nhưng trên thực tế, con thấy rằng đa số bệnh nhân trong nhà thương là đứa ăn cá thịt. Như vậy, có nghĩa là không phải chỉ ăn chay mới làm con người bệnh hoạn. Thật ra ăn chay mà bệnh là vì không biết dinh dưỡng. Ăn mặn mà không biết dinh dưỡng con cũng bịnh hoạn như thường!
    Song, con nên xét kỹ nguyên nhân, thật ra con bịnh hoạn đây là vì đã phá hoại cho suy vi cả lục phủ ngũ tạng, đánh mất tam bửu Tinh Khí Thần bởi một cuộc sống loạn động dẫy đầy Tham, Sân, Si, Hỉ, Nộ, Ái, Ố, Dục v.v... Vì khi con mê dục thì Tinh mất, khi con lo lắng vọng động ham muốn chuyện trần thì Thần tán, Khí hao. Tinh Khí Thần, Tam Bửu, tiêu mất thì hồn xác phải hư hoại, bệnh hoạn đó thôi.
    Cho nên, Cha khuyên tất cả các con nên biết sống tiết độ để tự bảo Tinh, dưỡng Khí, tồn Thần, cải sửa hệ thống thần kinh, lành mạnh hóa dần dần lục phủ ngũ tạng nhờ đem thanh khí điển của Trời Đất vào thanh lọc bản thể.
    Pháp môn Vô Vi Huyền Bí Học này rất hay, để giúp cơ thể con được khoẻ mạnh, nếu con chịu chuyên tâm tinh tấn hành pháp không giải (7 Suy vi: Suy nhược đến hư hoại.) đãi bê trễ. Cha cho con rõ, con nào công phu được tốt, hưởng được khá thanh điển thì trong ngày nó có thể ăn uống thật thanh đạm mà cơ thể vẫn được khoẻ mạnh như thường!
    Đấy là điều mà nhiều con đã chứng nghiệm. Điển hình là trường hợp của Tám Lương Sĩ Hằng, các con đều thấy lúc Tám mới tu, nó chỉ ăn cơm với một trái cà luộc mỗi ngày. Xét về mặt y học thì ăn như vậy quá khổ hạnh, phản lại phép dinh dưỡng, hoàn toàn thiếu sinh tố nuôi cơ thể, chắc chắn sẽ đưa tới bệnh hoạn, đuối sức. Nhưng rồi trên thực tế, nhờ siêng năng hành pháp, công phu tốt, nó hưởng được nhiều thanh điển nên vẫn hồng hào khoẻ mạnh như thường.
    Tóm lại, Cha khuyên tất cả các con hành Thiền nên ăn chay trường để công phu được nhẹ nhàng tốt hơn. Thiền mà còn ăn mặn phải bị trì kéo dữ lắm. Nội chúng sanh trong bản thể của con, con lo độ chưa xong, nội đám lục căn nó trì con, tiến lên không muốn nổi, con còn rước thêm một mớ chúng sanh ở ngoài vào, làm sao con đi lên mà khỏi bị chậm trễ?
    Đấy là chưa kể những nợ nần do con đã vay mạng của loài thú khi chưa độ được chúng tiến hóa đi lên. Ngày giờ cận một bên rồi, coi chừng đi không kịp nghe con.

    48. VẤN: Thưa Cha, hầu như các pháp môn tu Thiền khác đều khuyên người tu tuyệt dục, riêng phái Vô Vi chúng con, Ông Tám nói không cần phải kiêng, chỉ rán hành pháp một thời gian khai thông được ngũ tạng thì nó cũng hết muốn dục. Nhưng đa số chúng con hành pháp một thời gian rồi mà vấn đề dục vẫn còn khảo chúng con. Nhưng mỗi lần dục thì thấy cơ thể mệt mỏi và sau đó công phu mệt, nặng, không được tốt. Vậy xin Cha cho chúng con rõ, chúng con có cần thiết phải tuyệt dục để tiến bộ nhanh không?

    ĐÁP: Đây, để Cha giải cho các con hiểu hơn. Khi con tu Thiền là bắt đầu làm cái việc tìm con đường đi lên đến nơi sáng suốt giải thoát. Đã vậy, thì việc tuyệt dục trần là một điều hết sức cần thiết để linh hồn con mau sáng và tiến lên nhanh.
    Chắc con hiểu, khi con dục, cơ thể con suy yếu vì toàn bộ hệ thống thần kinh phải hoạt động mãnh liệt, nên sau đó con mệt mỏi, điển lực hao đi vì tinh bị mất. Con phải biết rằng, tinh là chất liệu căn bản để tạo con đường trở về. Vì khi hành pháp là lúc con luyện tinh hóa ra khí điển, khí điển này mới tạo thần. Tinh khí thần, tam bửu hội lại gọi là tam huê tụ đảnh. Dần dần, kết thành Thánh Thai tức Xá Lợi, để giúp con lần dò con đường về. Con khá biết rằng, Tiểu Hồn không thể quy nguyên hườn bổn được nếu không tạo được Thánh Thai. Công phu là luyện Tinh hóa Khí, để nhờ Khí ấy mà bồi bổ trưởng dưỡng phần hồn cho được mạnh mẽ sáng suốt dần dần. Nếu con để Tinh khô, thì Khí tận. Khí tận thì Thần phải tiêu mòn. Linh hồn con vì đó mà yếu đuối ngu muội không vươn đi lên nổi.
    Cho nên, việc tồn tinh là điều tối yếu cho sự phanh luyện, chất liệu căn bản đó, con để hao hụt hay mất nó luôn luôn thì con lấy gì mà công phu luyện đạo? Còn việc Tám nói không nhất thiết phải diệt dục, ấy là vì Tám muốn nương chúng con là những đứa còn ngụp lặn trong bể trần ai. E rằng khuyên các con diệt ngay, các con thấy khó rồi nản chí bỏ luôn. Cho nên, Tám nương chỗ này để dẫn dắt chúng con từ từ, rồi một mặt khuyên chúng con chuyên tâm tinh tấn hành pháp, đem thanh điển của Đất Trời vào thanh lọc bản thể, khai thông ngũ tạng, rồi dần dần chúng con cũng chán bớt việc hồng trần đi. Nhưng Cha cho biết đi như vậy lâu lắm con!
    Con cứ nương lục căn lục trần mãi, mỗi lần nó đòi, nó khảo là con chiều ý nó, vậy chừng nào nó mới biết tự giác để quy phục con? Chừng nào lục căn mới sáng, để biết tự giác khi phần hồn Chủ Nhân Ông không biết sử dụng ý chí sáng suốt để chế ngự nó và kéo nó đi lên chỗ sáng? Con không nhìn gương của Tám, khi nó bước vào đường tu là dứt khoát đoạn dục trần, tâm ý phế bỏ việc thế gian, lập hạnh, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn đều có đủ, nhờ vậy nó hành pháp mới mau kết quả, luyện đạo mới mau phát huệ, đạt lục thông để đi lên thật nhanh đến chỗ giải thoát.
    Cho nên, nếu con muốn tiến bộ nhanh, con rán tiết độ dần dần, rồi phát hùng tâm tuyệt dục trần, thì việc công phu luyện đạo của con mới mong có kết quả tốt.

    49. VẤN: Kính thưa Cha, khi sáng tạo con người thành hai hình hài người nam và người nữ, rõ ràng là Thượng Đế đã có chủ tâm cho họ có sự phối hợp với nhau. Sự kiện đó đã được ghi nhận qua cách cấu tạo thật tế nhị và tinh vi của hai cơ thể nam nữ, để hai cơ thể này có thể phối hợp với nhau hầu sanh đẻ nòi giống nhân loại. Điều đó cho thấy rằng dục của con người là thuận theo quy luật của thiên nhiên. Giờ đây, nếu bảo con người tuyệt dục vì đạo đức tu hành, như vậy, có phải là nghịch lại luật thiên nhiên và sái luật tiến hóa không? Cha nói rằng, nếu nghịch lại luật thiên nhiên tức là sái luật tiến hóa thì đấy là sự hủy diệt! Vậy xin Cha giải thích.

    ĐÁP: Luật thiên nhiên chính là luật tiến hóa. Nghịch lại luật thiên nhiên tức là sái luật tiến hóa và đấy sẽ là thảm họa hủy diệt. Điều này con nói rất đúng! Khi sáng tạo con người, Thượng Đế đã chủ ý rõ rệt cho sự phối hợp qua cách cấu tạo cơ thể của nam và nữ. Như vậy, rõ ràng là Thượng Đế chủ trương cho họ dục để nối dòng. Đấy là định luật tiến hóa, điều này con nói cũng đúng!
    Vậy tại sao lại khuyên con người phải diệt dục để tu hành hầu được tiến hóa đi lên? Sự kiện này có vẻ mâu thuẫn, và chỗ mâu thuẫn khó hiểu này các nguồn minh triết tôn giáo, các học thuyết, hằng vạn triệu pho sách triết lý từ bao thế kỷ đã bàn bạc đủ cách đến vấn đề hết sức quan trọng cho đời sống con người này. Có học thuyết thì cổ võ đề cao, khuyến khích hưởng dục, xem dục là bản chất đẹp của con người. Có triết lý thì đả phá, ghê tởm dục như ma quỷ, coi dục như một tội lỗi xấu xa chống lại Thượng Đế.
    Có học thuyết thì xem dục là thú tính phải chế ngự nó để có một đời sống tiết độ đạo đức. Có triết lý thì chủ trương diệt dục để thoát vòng trầm luân tứ khổ v.v... Tóm lại, nhân loại đã tốn hao không biết bao nhiêu giấy mực mổ xẻ vấn đề này để khai thông những bế tắc cho con người nhưng hầu như chưa làm con người thật sự thỏa mãn! Vậy dục là gì? Cha cho con rõ, thật sự dục là bản chất của Thượng Đế, dục là chơn lý đó con! Dục là một nguyên lý vĩnh cửu, bất khả diệt và không thể không có được! Dục là nguyên nhân sự hình thành của càn khôn vũ trụ, là định luật bảo vệ sự tồn tại vĩnh cửu của chơn lý bất biến, do nguyên tắc hóa hóa sanh sanh đời đời của vạn vật.
    Nếu Thượng Đế ngưng dục trong một sao đồng hồ, thì càn khôn này phải tan rã ngay tức khắc! Cho nên, Thượng Đế phải dục không ngừng, không nghỉ và dục vô cùng tận! Trong càn khôn này có ai dục bằng Thượng Đế?
    Thượng Đế dục ngay cả trong mỗi vi trần, trong từng vi thể, dục trong từng tế bào nguyên tử. Có nguyên tử nào mà không có sự phối hợp của lực Âm Dương? Cho nên, dục phải là chơn lý trong định luật tiến hóa luôn đó con! Thế thì tại sao lại khuyên diệt dục, khuyên từ bỏ sự phối hợp tự nhiên giữa nam và nữ?
    Cha sẽ cho con hiểu thêm một chút, điều mà các nguồn triết lý, học thuyết chưa giải thích rõ hơn! Các con biết, sự thực vấn đề ở đây không phải là diệt bản chất dục, mà là phát triển thêm dục tính, học biết dục hơn, học bài dục cao hơn để tiến hóa lên cao hơn. Con phải học dục luôn luôn, để càng lúc càng phát triển nó, cho đến khi con biết dục vô cùng tận để làm Đấng Toàn Giác Toàn Năng. Cuộc hành trình cho con xuống thế, cho đến ngày trở về là để đi học dục, từ dục trược đến dục thanh, từ dục nặng đến dục nhẹ, từ trình độ thấp đến trình độ cao, đủ mọi đẳng cấp, cho đến khi con thật sự biết dục! Con sẽ học cái dục của loài kim thạch, rồi cái dục của loài thảo mộc, rồi cái dục của loài thú, dục của loài người, đến cái dục của Thánh, Tiên, Phật, v.v... cho đến khi hiểu dục ở mọi khía cạnh của nó!
    Cho nên, con phải biết rằng, cái dục giữa con người với con người là quy luật thiên nhiên, nhưng việc từ bỏ kiểu dục này cũng là theo quy luật thiên nhiên, là thuận theo dòng tiến hóa của vũ trụ và con người đó thôi!
    Thật vậy, con người đã học dục giữa nam và nữ, giờ đây, muốn tiến hóa hơn, muốn hiểu biết hơn, muốn lên lớp cao hơn thì phải học dục kiểu cao hơn. Kiểu dục cao hơn này là gì? Đấy là công phu luyện đạo, là hành pháp môn thiền định đó con! À, điều này có vẻ bất ngờ với chúng con và có thể gây chấn động trong giới tu hành, khi Cha nói Thiền Định là một kiểu dục.
    Nhưng Cha phải nói sao hơn khi đấy là một hiện thực không thể chối cãi được? Dục là gì? Là sự phối hợp giữa âm và dương để đạt đến trạng thái hòa điệu. Vậy phải chăng khi hành thiền định là con tạo điều kiện phối hợp âm dương trong bản thể? Và rồi công phu luyện đạo là gì? Là con vận chuyển đem tinh đi lên, luyện ngươn tinh hóa ra ngươn khí hiệp với ngươn thần, Tinh Khí Thần hội tụ tạo thành Xá Lợi tức Thánh Thai. Động tác đem tinh đi lên để tạo Thánh Thai phải gọi là gì nếu không gọi là dục? Đem tinh trở xuống để tạo phàm thai ấy là dục trần, đem tinh trở lên để kết Thánh Thai, ấy là dục của Tiên Phật vậy.
    À, rồi con bảo rằng từ bỏ cái dục giữa nam và nữ là nghịch luật thiên nhiên, sái luật tiến hóa? Tại con chưa biết quy luật đó thôi! Cha cho con rõ, chính hiện tại con người đang sống sái thiên nhiên, dục mà không đúng với quy luật, không theo định luật tiến hóa nên bị băng hoại và thoái bộ tinh thần như thế kỷ hôm nay đã chứng kiến.
    Vậy thế nào là dục theo quy luật? Dục theo quy luật, tức là kim thạch dục theo kim thạch, thảo mộc dục theo thảo mộc, loài thú có dục của loài thú, loài người có cái dục của loài người, v.v... Mỗi loài đều có kiểu dục của nó theo quy luật. Những kiểu dục ấy như thế nào? Điều này rất phức tạp tế nhị Cha không thể tỉ mỉ nói hết ở đây được, Cha chỉ đề cập vấn đề một cách khái quát sơ lược để các con tạm có chút quan niệm. Muốn khỏi dài dòng, Cha chỉ nói từ cái dục của loài thú tiến hóa gần bằng loài người trở lên.
    Ở loài thú: Tình cảm và sự hiểu biết còn phát triển thô sơ. Dục loài thú chỉ là sự hấp dẫn giữa con đực và con cái. Chúng không có tình yêu, không có sự suy xét, phân định, không có tình nghĩa như ở loài người. Con nào biết yêu thương, có tình nghĩa, chẳng hạn khi con mái chết, con đực buồn rầu bỏ ăn để chết theo, đấy là những con thú có trình độ hiểu biết, sắp tiến hóa lên người. Tóm lại, loài thú dục theo nhu cầu đòi hỏi của bản năng sinh lý cái đực, để sinh sôi nẩy nở theo chu kỳ ấn định của thiên nhiên.
    Ở loài người: Tình cảm và sự hiểu biết phát triển sâu xa hơn. Dục loài người vì vậy mà phong phú và tế nhị hơn nhiều! Ngoài sự hấp dẫn tính dục giữa hai phái tính, con người còn có suy nghĩ, có óc phán đoán, có tình yêu, có đạo nghĩa. Cho nên, dục ở loài người không phải chỉ là sự phối hợp giữa hai xác thể nam nữ theo bản năng sinh lý, mà gồm cả phần tâm lý nữa! Đấy là dục theo nhân đạo. Như vậy, dục đúng mức nhân đạo gồm cả yếu tố xác thể lẫn tinh thần, có tình yêu thương, có sự hiểu biết, có lòng kính trọng lẫn nhau. Do đó, có sự tiết độ hơn loài thú, nên gọi rằng “phu phụ tương kính như tân” có nghĩa là giữa vợ chồng phải lấy lễ mà đối, lấy tình mà đãi, lấy đạo nghĩa mà cư xử. Cái dục của con người tế nhị như vậy đó! Nhưng cũng vì thế mà con người được nếm nhiều hơn, hưởng nhiều hơn loài thú! Ngoài sự rung động giữa hai xác thể còn có sự rung động giữa hai tâm hồn biết yêu thương kính trọng nhau, do đó mà đẹp đẽ và thi vị hơn thú vật. Ấy là dục theo đúng mức nhân tính.
    Nếu con người nào dục chỉ vì nhu cầu bản năng sinh lý, dục vô độ, vô trật tự, chỉ theo sự đòi hỏi của thể xác mà không có tình yêu và lòng kính trọng, ấy là đang dục theo kiểu của loài thú. Dục theo thú tánh là vật dục, không phải nhân dục. Khi con người nào dục theo kiểu này tức phải thoái bộ lại trình độ tiến hóa của loài thú. Vì lúc đó dục chỉ còn là sự phối hợp để thỏa mãn giữa hai hình hài xác thể, không khác gì hai con thú trống và mái mà thôi! Đa số nhân loại trên thế giới ngày nay, đang trên đà thoái hóa về dục tính, dục trái với thiên nhiên, trái với luật tiến hóa.
    Điều này phải dẫn đến bao thảm kịch nước mắt, tội ác do sự loạn dâm gây nên! Khi vật dục được cổ võ, thú tính được khuyến khích và khi con người tiêm nhiễm những tư tưởng đó, nó đâm ra khinh bỉ nhân phẩm làm người, bất cần những giá trị tinh thần, vứt bỏ trí suy tư, óc phán đoán hơn thiệt là những cái phân biệt nó với loài thú. Nó chỉ biết nó muốn gì và phải làm sao thỏa mãn cái muốn của nó, dù sự thỏa mãn ấy có gieo đau khổ cho cá nhân khác hay cho tập thể loài người. Nó tin rằng, khi không sống theo ý nó thích, không thỏa mãn điều nó muốn, chỉ vì hy sinh cho người này kẻ kia, cho gia đình, cho xã hội, hay vì sợ quan niệm đạo đức của loài người kết án, đấy là nó đã không sống cho nó, không sống với bản chất thật của nó, nó tin rằng vậy là nó đánh mất chính nó!
    Nhưng nó không nghĩ rằng nếu trong xã hội, ai cũng tưởng nghĩ và hành động như nó, tức là không ai thèm nương ai, không ai biết sợ làm kẻ khác đau khổ, chỉ theo ý mình, lo thỏa mãn điều mình muốn bất chấp chung quanh, bất chấp việc đụng chạm quyền sống của kẻ khác, thì xã hội phải rối loạn lên, người này sẽ xô xát với kẻ kia để được thỏa mãn ý thích vị kỷ.
    Con người trong một xã hội xô bồ như vậy, sẽ hỗn loạn, điêu đứng, trầm luân, đau khổ, để cuối cùng, sau những tranh giành, cấu xé, lấn áp nhau, chà đạp lẫn nhau như ở xã hội loài thú để được hưởng thụ, con người sẽ chỉ còn cảm nhận sự bi quan, sự bơ vơ, lạc lõng, chán chường, băng hoại, chẳng biết tìm đâu ra nơi nương tựa cho tâm hồn.

    Nãy giờ, nhân bàn đến dục tính, Cha nói qua về sự thoái bộ tinh thần của con người, vì Cha thấy hiện tại những luồng tư tưởng cổ võ cho thú tính trong con người và tin rằng thú tính ấy là tất cả bản chất thật của nó, đang được luân lưu khá thịnh hành trong những xã hội văn minh vật chất. Thật sự, con người nghĩ điều này cũng không có gì đáng trách, chỉ vì vô minh nên nó chưa biết nó là ai, nó vĩ đại đến chừng nào, bản chất thật của nó phong phú ra sao, gồm những phần gì? Nhưng rồi có một lúc nào, trên dòng tuôn thao đăng đẳng, định luật tiến hóa sẽ ảnh hưởng giúp nó hiểu điều đó dần dần mà thôi!

    Bây giờ Cha trở lại chu trình tiến hóa của tính dục.
    Cha đã nói đến vật dục rồi tiến sang nhân dục, biết nhân dục con người không thể cứ ở lại mãi chỗ này! Vì phận sự, vì nhu cầu hiểu biết của nó, nó phải tiếp tục lo tiến bước luôn luôn để tuân theo định luật tiến hóa. Nó đã học dục theo Nhân Đạo bây giờ muốn tiến hóa nữa, nó phải dục theo Thiên Đạo. Nếu cái dục theo Nhân Đạo khiến nó phải đi tìm sự phối hợp với phần âm hay dương ở ngoài nó, thì cái cái dục theo thiên đạo dạy nó học tìm sự phối hợp của âm dương ngay trong bản thể nó. Giai đoạn này, nó không dục bên ngoài, không phóng tâm tìm đối tượng bên ngoài nữa. Đây là lúc nó phải quay vào trong, tìm đối tượng để dục bên trong.
    Con người vì vô minh nên cứ đi loanh quanh tìm kiếm đối tượng đâu đâu bên ngoài nó, quay cuồng điêu đứng, để đạt cho được đối tượng mà nó vừa ý. Nếu không đạt được hoặc đạt được rồi lại khám phá ra đối tượng không đúng như mơ ước – vì chắc chắn không bao giờ có thể đúng như mơ ước – nó lại trầm luân trong thất vọng, đau khổ, đắng cay, buồn cho số kiếp.
    Chìm đắm trong buồn, thương, khóc, hận, và bằng bao nhiêu lao tâm khổ trí ấy, con người đã chạy theo một đối tượng giả hiệu, đối tượng này không bao giờ như nó ước mong, không bao giờ thật sự hòa điệu cùng nó, để cho nó niềm hạnh phúc an lạc lâng lâng tuyệt vời! Đối tượng mà nó mong ước, thật lý tưởng và có thể hài hòa thật sự, đáp ứng tối đa nỗi khát khao lạc thú hạnh phúc vợ chồng của nó đã có sẵn ở bên trong chính nó, nhưng vì tối tăm, ngu muội, đui mù, nên đã bao lâu rồi, nó không hay, không biết! Đấy mới thật sự là “nửa phần khác của nó”.
    Con người phải biết rằng nó được cấu tạo bởi phần âm và phần dương, phần dương của nó gọi là “Hồn” phần âm gọi là “Vía” là cô vợ lý tưởng nhứt và chỉ có cô vợ này mới có thể cùng nó đạt tới sự hòa điệu tuyệt diệu mà không có một đối tượng nào khác bên ngoài có thể mang đến cho nó.
    Đấy là cô vợ thật sự mà nó phải chịu chia ly trên đoạn đường đi xuống của nó. Đấy là hiện tượng Nhất Nguyên tiến sang Nhị Nguyên! Để rồi trải bao tháng ngày biền biệt hôn trầm trong mê muội, nó đã thật sự quên mất bóng người xưa...
    Cho nên, khi nó đã thật sự mỏi mòn, quá thất vọng chán chê, không tìm thấy hạnh phúc với những gì chung quanh bên ngoài nó, con người mới chịu bắt đầu trở vào trong, để tìm về cái thế giới của chính nó. Và khi tìm vào cái thế giới này, ấy là nó đã tình cờ dấn thân lần bước trên lối cũ để tìm gặp lại bóng hình xưa! Đấy là hiện tượng Nhị Nguyên tìm về Nhứt Nguyên! Này con ơi, khi đã bắt đầu cuộc dấn thân đó, con hãy như ông chồng si tình chung thủy, ngày đêm băng ngàn vượt suối, mấy đèo cũng qua, mấy sông cũng lội, để tìm về hội ngộ người vợ thân yêu mà mình đã trót lãng quên như chưa hề gặp mặt! Sự chịu khó cố gắng “Công Phu, Công Quả, Công Trình” để vượt mọi khó khăn thử thách, trên đường tìm về của con, sẽ được đền bù xứng đáng khi gặp lại cố nhân! Cảnh đẹp đẽ và hạnh phúc của vía hồn tương hội sẽ đáp lại quá dư mọi nỗi nhọc nhằn mà con đã trải qua.

    Bằng con mắt huệ nhãn, con sẽ thấy cô vợ của con diễm kiều và lý tưởng ra sao! Cha cho rõ cảnh tương hội này không khác gì cảnh phối hợp dục giữa vợ chồng thế gian, nhưng được thật sự đầm ấm, đầy yêu thương, thơ mộng, hạnh phúc và hưởng lạc thú, hơn cái hưởng của vợ chồng thế gian muôn ngàn lần.
    Cảnh tượng đẹp đẽ và kỳ ảo đó, các con có thể chứng nghiệm cảm giác một cách rõ ràng hiện thực và hết sức sống động để chúng con cảm thấy rằng những gì mà loài người đang thiết tha bám víu ở trần gian và tưởng là hạnh phúc, thật chẳng khác gì bọt nước bèo mây, và chẳng đáng chút gì so với cái con đang hưởng được! Vả chăng, dục giữa vía hồn, hay phần âm và phần dương trong bản thể của con, không những chỉ giúp con phần lạc thú, mà còn là việc tối cần để con được tiến hóa về chỗ sáng suốt giải thoát.
    Đấy là một kiểu dục mà Cha cổ võ hô hào cho các con tìm hưởng. Kiểu dục này giúp con khỏe mạnh, sáng suốt, an lạc. Càng dục càng khỏe, càng mạnh càng sáng, càng tiến hóa nhanh!
    Sáng suốt an lạc khoẻ mạnh cả xác thể lẫn linh hồn. Sớm muộn gì, con người có lúc cũng phải thức giấc sau khi đã mỏi mệt chán chê những gì bên ngoài nó, để dấn thân tìm tới cuộc hội ngộ đẹp đẽ này, vì nó phải lo phản bổn quy nguyên, âm dương hiệp nhứt để thấy lại nó thật sự !
    Cho nên, người thế gian đều ngộ nhận cho rằng, Niết Bàn chỉ là trạng thái hư vô vắng lặng, Ông Phật phải diệt mọi điều ham muốn, diệt hết bản chất dục là lạc thú quý báu của con người, để được cái trạng thái thanh tịnh như như! Trạng thái này có gì là vui? Niết Bàn hư vô có gì hấp dẫn để phải từ bỏ những lạc thú thế gian, lạc thú tình yêu, lạc thú vợ chồng?
    Sự thực Cha cho biết, Phật không bao giờ mất bản chất dục. Phật chỉ từ bỏ dục dở, để tìm đến kiểu dục hay hơn, để Phật hưởng hơn. Nhờ Phật biết cách dục cao hơn, nên Phật nếm lạc thú hơn chúng con muôn ngàn lần. Chính trạng thái thanh tịnh như như an lạc khiến Phật sung sướng, vui vui, hạnh phúc, sáng suốt, lâng lâng, kỳ ảo là do việc giao hợp âm dương trong Phật đã đạt tới sự hòa điệu đúng mức và Phật được hưởng lạc thú của sự hòa điệu đó một cách miên viễn, nhờ âm dương trong Phật đã thật sự hiệp nhất không còn chia ly nhau nữa. Con người vì vô minh nên cứ bám víu, ham muốn những cái nhỏ hẹp tối tăm để chỉ được hưởng những lạc thú thật bé mọn, hưởng chẳng bao nhiêu và chẳng bao lâu! Khốn thay, cái hưởng ấy lại móc nối bao nhiêu là thứ khổ!
    Hưởng thú vợ chồng thì thê thằng tử phược, gánh vác gia đình, con, vợ, gánh vác nợ áo cơm: Hưởng thú địa vị công danh thì công danh nó hành địa vị nó khảo. Hưởng thú bạc tiền thì phải cực khổ, quay cuồng lo vun bồi, lo bảo vệ đồng tiền, có được tới tỉ phú, có bạc tiền chất đống, rồi cũng bị cái lợi hành hạ, suốt đời phải lo âu, khổ công tính toán điều động sao cho gia tài bạc tỉ của mình còn tồn tại mãi thôi!
    Cho nên, ham hưởng dục nặng trược thì bị trì kéo xuống cái nặng bởi nợ nần thế gian phải gánh vác, ham hưởng dục thanh nhẹ thì được kéo đi lên sáng suốt, an lạc, thanh nhẹ, lâng lâng...
    Vì vậy, Cha kêu gọi cổ võ tập thể loài người nên ham muốn mà biết ham muốn hơn, dục mà biết dục hơn nếu muốn được hưởng thật sự! Hãy dấn thân đi tìm hưởng cái lạc thú dục đầy kỳ ảo của Tiên Phật. Cảnh dục do điển âm dương giao hòa, vía hồn tương hội, như vợ chồng thế gian không phải là điều tưởng tượng bịa đặt mà là một hiện thực sống động, và bất cứ con nào cũng có thể chứng nghiệm được, nếu nó quyết tâm chịu hành pháp công phu luyện đạo.
    Thật tình, từ trước tới nay, các thiền sư chân tu chứng đắc được trạng thái “âm dương tương hội”, đã không tiện thố lộ cho trần gian biết những thi vị kỳ ảo đã chứng nghiệm được với cảnh hạnh phúc vợ chồng trong bản thể và các vị ôm theo lên Niết Bàn bao bí mật kỳ thú sau khi tịch diệt! Thế nên, người trần ngu muội cứ tưởng biết dục và hưởng dục hơn ông Phật, không ngờ ông Phật lại biết dục và hưởng lạc thú dục hơn con người ngàn lần! Như Lương Sĩ Hằng chẳng hạn, các con hãy gặp nó, hỏi thử xem những gì nó chứng nghiệm về những điều Cha nói, để nghe thêm cái dục của Tiên Phật một chút chơi cho biết!
    Riêng trong phái Vô Vi, hiện tại, cũng có nhiều con được khai khiếu mở huệ ít nhiều. Những con này có dịp nếm những chứng nghiệm rõ ràng về cái bản thể con người được nhìn thấy thực sự như cái Tiểu Thiên Địa, có đứa được chứng nghiệm, đi chơi bằng hồn trong “Tề Luân Hư Cảnh” tức đi chơi trong bản thể của nó, được thấy phần âm hay cái vía thường được gọi là “Cô Tiên” của nó, cũng có đứa xuất hồn ra được khỏi Tiểu Thiên Địa để ngao du đó đây trong Đại Thiên Địa v.v...
    Việc này các con có thể tìm liên lạc với chúng nó để nghiên cứu học hỏi thêm. Tuy nhiên, muốn thỏa mãn thực sự tính hiếu kỳ thì chỉ có cách là con dấn thân để thực sự chứng nghiệm. Chỉ tìm nghe cho biết thì cũng không hữu ích là bao nhiêu và chẳng thể thỏa mãn óc hiếu kỳ của con đâu!

    Hôm nay, Cha có dịp nói chuyện với chúng con về dục. Cha bàn đến nó một cách thẳng thắn cởi mở với chúng con, để phá mê chúng con, giúp khai thông vấn đề hơn và kéo điển chúng con lên chỗ sáng suốt! Cha tiếc chỉ nói điều này một cách tổng quát và không thể dùng ngôn từ để bàn nó một cách tỉ mỉ sâu xa mọi khía cạnh tế nhị của vấn đề vĩ đại này. Tuy nhiên, ý Cha cũng muốn hạn chế như vậy, và phần còn lại Cha dành cho các con việc dấn thân để nếm, để chứng nghiệm thực sự, và để thực sự biết nó, chứ rồi nghe qua cho biết, thì không thể thực biết đâu con!
    Rốt rồi, khi con hiểu, con sẽ thấy dục chẳng có gì là xấu xa. Tất cả những gì được xem là tội lỗi, là thói hư tật xấu của con người, những gì làm con người luôn luôn băn khoăn thao thức, khắc khoải ưu tư... những gì mà các hệ thống triết lý, học thuyết xưa nay luôn tranh nhau nghiên cứu và ồn ào bàn cãi như tham, sân, si, dục v.v... đều tự nó không xấu!
    Nó vốn dĩ không xấu, không đẹp, chỉ vì nó có những màu sắc dị biệt, những khía cạnh khác nhau, từ nặng đến nhẹ, từ trược đến thanh đấy thôi, và con người phải học hết những khía cạnh, những màu sắc đó mới thật biết bản chất của nó!
    Thật sự tội là gì? Tội không phải là tham, sân, si, dục... Tội là cái gì gây trở ngại cho sự tiến hóa của con đó thôi! Con phải biết, tất cả chỉ vì mục tiêu tiến hóa, vì sự vận hành của định luật tiến hóa và điều gì gây trở ngại cho sự vận hành đó sẽ được xem là tội. Khi con dục, ngay cả dục theo thú tính, như con dâm vô độ chẳng hạn, cái này chỉ thể hiện dục tính của con ở khía cạnh trược, cái dâm trược đó tự nó không xấu, không là tội, nhưng sở dĩ nó được xem là xấu, là tội vì kiểu dâm trược này gây hậu quả làm trì trệ sự tiến bộ của con, làm suy nhược xác thể, yếu đuối tinh thần, chưa kể những ảnh hưởng tác loạn di hại đã gây cho cá nhơn khác vì cái dâm trược đó.
    Do vậy, nó trì kéo con xuống chỗ trược hơn và bị luật nhân quả tác động khảo đảo, khiến con bị trở ngại trên bước tiến lên của con, vì vậy nên được xem là tội đó thôi!
    Cho nên, khi hiểu ra, con người sẽ thấy rằng, nó thực sự là điển quang, được cấu tạo bằng điển âm và điển dương, cái mà nó nhìn thấy được và ngộ nhận là “Nó”, chỉ là cái lớp vỏ vật chất gồm xương, máu, thịt, bọc ở ngoài cùng đó thôi!
    Và rồi phần Âm và Dương trong con người luôn ở trạng thái phân ly khi nó còn ngu muội! Vì u tối nên hai phần này không biết nhìn nhau, không đến được với nhau. Khi hai phần này chưa tương hội, còn xa nhau, con người sẽ thấy đau khổ thiếu thốn và không bao giờ thỏa mãn, nó sẽ mãi đi tìm mọi đối tượng bên ngoài nó, đi tìm mọi lạc thú ở khắp nẻo đường trần, để khỏa lấp vào cái cảm giác bơ vơ thiếu thốn lạc lõng phi lý ấy, nhưng không bao giờ nó nghe thỏa mãn và hạnh phúc thật sự!
    Chỉ khi nào hai phần âm và dương trong con người tìm đến hội ngộ được với nhau, rồi đi đến chỗ hòa điệu hợp nhất, con người mới nghe thỏa mãn, thanh tịnh, hạnh phúc, lâng lâng...
    Khi hiểu rồi thì dục vừa là khởi điểm vừa là chung cùng, vừa là nguyên nhân phân ly vừa là hậu quả tương hội, vì dục mà tán vạn thù, nhờ dục mà quy nhứt bổn...
    Cho nên, dục là bản chất không thể không có của con người, của Thượng Đế, của chơn lý vậy! Tóm lại, vấn đề không phải là diệt mất bản chất dục mà phải thăng hoa cái dục, học biết dục ở mọi khía cạnh đẹp hơn, lớn hơn, phát triển tính dục luôn luôn, để hợp theo quy luật thiên nhiên, đi theo sự vận chuyển không ngừng của vòng tiến hóa, cho đến khi nó thành vô cùng tận, đấy là về đến ngôi Thượng Đế. Ở ngôi này, con sẽ dục đủ kiểu từ trược tới thanh, từ nặng tới nhẹ, dục trong từng nguyên tử, dục theo kim thạch, theo thảo mộc, dục theo thú, dục theo người, dục theo Thánh, Tiên, Phật, v.v...
    Thượng Đế dục không ngừng, dục đủ kiểu, nên hưởng đủ thứ lạc thú. Những kiểu dục khác nhau, những trạng thái rung động lạc thú khác nhau này diễn ra cùng một lúc trong Thượng Đế để trở thành một sự hòa điệu kỳ ảo của mọi trạng thái, một cảm giác hạnh phúc tuyệt diệu vô biên, một thứ lạc thú mênh mông vô cùng tận...
    Dục lúc ấy là chơn lý vô cùng vô biên, là sự sống vĩnh cửu của càn khôn, là tình yêu, là minh triết, là ý chí, là điều tốt lành, là cái đẹp đời đời của Đấng Toàn Năng, Toàn Giác, Toàn Thiện, Toàn Mỹ, Toàn Chơn…

    50. VẤN: Thưa Cha, con không theo một pháp môn nào cả, sợ hành không đúng có hại cho cơ thể, con chỉ theo cách thiền định như bên Thông Thiên Học dạy, là tập định trí vào một tư tưởng lành, hoặc niệm Phật trong tâm, hoặc quán tưởng đến vị Phật nào mình ưa thích, để cho tâm dần được thanh tịnh. Thưa Cha, cách thiền định để đạt tới sự thanh tịnh nội tâm như vậy có giúp cho âm dương tương hội, phản bổn hườn nguyên không, hay bắt buộc phải theo cách luyện tinh để quy tam bửu, tạo Thánh Thai mới được? Xin Cha dạy cho chúng con rõ.

    ĐÁP: Pháp môn luyện đạo dụng Pháp Luân nghịch chuyển tinh đi lên, quy tam bửu để tạo Thánh Thai, ấy là pháp tu tắt, là phương pháp “luyện đan” để quy tam hiệp ngũ, tạo anh nhi xá lợi hầu Tiểu Hồn nương theo đó mà phăng lối trở về. Quy tam hiệp ngũ là sao? Là quy tam bửu hiệp ngũ khí, gọi là “Ngũ Khí Triều Ngươn, Tam Huê Tụ Đảnh”.
    Những pháp luyện đan khác nhau xưa nay, đều là tâm pháp bí truyền, tuy cách thức có hơi khác về mặt hình thức, nhưng chung quy cũng chỉ là dụng cách vận Pháp Luân chuyển ngươn tinh đi lên, hóa ra ngươn khí hiệp với ngươn thần.
    Cách vận Pháp Luân ấy cũng giúp đem thanh khí điển của Trời Đất vào thanh lọc nội tạng, gom khí ngũ hành về trung ương tức “Ngũ Khí Triều Ngươn” điển khí ấy mới hiệp với ngươn tinh, ngươn thần để tạo Thánh Thai Xá Lợi.
    Còn cách Thiền Định mà con đang hành đó là cách phổ thông trong quần chúng, để giúp con người tập từ từ nhiếp cái tâm, gìn cái ý, gom thần nhập định để đạt tới trạng thái thanh tịnh sáng suốt nội tâm.
    Khi con người mãi lo lắng, tính toán, ham muốn, vọng động chuyện trần gian, mãi đắm chìm trong tham, sân, si, hỉ, nộ, ái, ố, dục v.v... thì tự nhiên tam bửu hao mòn, ngũ tạng suy vi, ngũ hành phân tán. Khi con người chủ động được phàm ngã, chế ngự được lục căn, khóa con khỉ tâm, xiềng con ngựa ý, bế ngũ quan nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, không cho vọng động trần gian nữa, thì bản thể được thanh tịnh.
    Bản thể được thanh tịnh thì tự nhiên tam bửu quy tựu, khí ngũ hành nhờ đó mà từ từ gom về trung ương tức là “Ngũ Khí Triều Ngươn”, khí ấy mới hiệp cùng ngươn tinh ngươn thần để tạo Thánh Thai Xá Lợi.
    Cho nên, cách Thiền mà con đang hành đó cũng giúp cho con định trí để gom thần, hồi quang phản chiếu, và khi con đạt tới trạng thái thanh tịnh nội tâm thì cũng có kết quả như con dùng bí pháp “luyện đan” vậy. Tuy nhiên, cách này đi chậm hơn là cách con biết dùng bí thuật để đem khí dương của Thiên Địa vào bản thể thanh lọc ngũ tạng, tác động để gom khí ngũ hành, nghịch chuyển tinh đi lên hiệp với ngươn thần để quy tam bửu.
    Cho nên, nếu con quyết tâm giải thoát và muốn được tiến bộ nhanh thì con nên theo pháp tu tắt, dùng bí thuật để phanh luyện.
    Hiện nay, pháp môn Vô Vi Huyền Bí Học này cũng là một phương pháp “luyện đan” nhưng đã được Thượng Đế cho phổ truyền công khai trong quần chúng, vào giai đoạn cuối của hạ ngươn mạt kiếp, hầu nhân loại có chiếc chìa khóa quý báu để khai Thiên Môn, mà trở về phản bổn hườn nguyên, âm dương hiệp nhứt.
    Pháp này tương đối dễ hành và không đến nỗi nguy hiểm có thể phổ truyền cho quần chúng. Rồi đây, từ từ những pháp môn luyện đạo mà cách thức có thể phổ thông cho con người, sẽ được Thượng Đế chuyển cho công khai hóa.
    Đây là hồng ân Ngài ban cho trần gian vào kỳ đại xá này của Trời Đất. Vậy con hãy tận dụng chiếc xe tốt để trở về, chớ bỏ lỡ cơ hội. Duy có điều, dù con hành pháp luyện đạo để tu tắt, nhưng nếu con không lập hạnh giải thoát, tâm ý cứ vọng động sự đời, chưa chịu dứt khoát từ bỏ chuyện trần gian, cứ mãi để hồn con chao động với hỉ, nộ, ái, ố, tham, sân, si, dục, v.v... thì dầu có dùng pháp tu tắt hay chừng nào con cũng không đi nhanh được đâu!
    Cha nhắc lại, vào ngươn chót này, con phải rán lo tròn tam công thì mới mong đi kịp.

  10. #10

    Mặc định

    51. VẤN: Thưa Cha, có người cho rằng làm việc cũng là một cách thiền. Khi mình chú tâm vào lo công việc thì đấy cũng là thiền. Nhưng cách thiền này lại hữu ích cho xã hội hơn là cách ngồi nhập định cho được thanh tịnh, chỉ để cho một mình mình được hưởng. Tư tưởng này có hợp lý không? Xin Cha cho con rõ!

    ĐÁP: Này con, khi con chú tâm vào một công việc để làm tròn bổn phận làm người và để phục vụ xã hội thì đấy cũng là một cách định trí tập thiền, điều đó đúng! Nhưng khi nói rằng việc ngồi công phu để được thanh tịnh không đem lại hữu ích cho xã hội, điều này sai!
    Thực ra, một con người đạt được sự ổn định, sự quân bình, sự sáng suốt nội tâm, mới thật hết sức hữu ích cho xã hội. Chính sự sáng suốt ổn định đó là những điều kiện tốt đẹp cần thiết để họ phục vụ hữu hiệu cho tha nhân, kẻ sáng suốt thanh tịnh bao giờ cũng đóng góp được nhiều cho sự an vui của kẻ khác.
    Còn kẻ kia, tuy chú tâm vào việc nhưng lại quá lo âu điều thành bại, quá vọng động vào công việc khiến trí óc rối loạn, thần kinh căng thẳng, lao tâm tổn trí, nên thần tán, khí hao, điển mất, lục phủ ngũ tạng do đó bị suy yếu, gây tổn hại sức khỏe cho thể xác lẫn tinh thần. Đấy là những điều kiện xấu gây trở ngại lớn cho việc phục vụ xã hội nhơn quần. Có thể nói, kẻ này có thiện chí phục vụ nhưng lại bất trí vậy!
    Trường hợp này không thể gọi là thiền, vì thiền ắt phải có định. Ở đây không thể nói là định vào công việc mà động vì công việc thì đúng hơn! Con phải biết rằng, một người đạt được sự ổn định quân bình sáng suốt, khi làm việc thì đem hết khả năng và lương tâm ra phục vụ, không lơi tâm bê trễ nhưng lại không vọng động vì việc, có thành thì tốt, có bại ấy là lẽ thường ở đời này, không vì thế mà chán nản, buồn rầu loạn tâm khổ trí. Ấy vậy mà việc lại ít khi gặp bại, nhờ biết giữ ổn định sáng suốt trong công việc. Làm việc mà không vọng động vì việc, nhưng vẫn sáng suốt điều hành chu đáo việc với tất cả lương tâm và khả năng phục vụ. Ấy là lối làm việc của bậc thượng nhân cao kiến vậy.
    Cho nên, Cha khuyên các con, dẫu công việc nhiều đến đâu, mỗi ngày nên dành ra ít nhứt cũng hai tiếng đồng hồ vào giờ Tí để công phu Thiền Định. Giờ này là lúc mọi vật đều an nghỉ sau một ngày náo nhiệt. Rồi thì trong tư thế tĩnh tọa, con hãy buông bỏ hết thế sự, gìn cái Tâm, nhiếp cái Ý, bế Ngũ Quan, đoạn lìa với thế giới bên ngoài để quay vào trong, lắng nghe tiếng nói của Chơn Ngã. Nhờ những giây phút này mà hệ thống thần kinh con được ngơi nghỉ, mọi cơ quan cơ năng đều được vỗ về, được tiếp trợ do con đem dưỡng khí vào bản thể qua phép vận hơi thở. Cơ thể vì đó, mà được thanh lọc ít nhiều, nhờ tống bớt đi một số thán khí độc hại.
    Đấy là nói về mặt y học thực tiễn. Riêng về mặt khoa học Vô Vi, ấy là lúc con đem thanh khí điển của Trời Đất vào tiếp xúc với bản thể, thanh lọc nó, khai thông những bế tắc của nó, giúp nó sinh động lại, nhờ sự tăng trưởng của phần điển lực trong con lúc đó. Vì khi con dụng pháp: nhiếp Tâm, gìn Ý, bế Ngũ Quan, khí Điển của con không bị phân tán đi, sẽ từ từ gom tụ về trưởng dưỡng ngươn thần để nó được lớn mạnh, sáng suốt dần dần, cho đến khi nó đủ sức để phá cái ngục tù bản thể, mở lối Thiên Môn, nương theo Xá Lợi lần bước trên lối cũ để trở lại quê xưa.
    Tóm lại, với con nào thích làm việc và có tâm hồn phục vụ xã hội, con nên dành thì giờ Thiền Định để có sức khỏe thể xác lẫn sự sáng suốt tinh thần là những điều kiện tất yếu để con giải quyết điều hành công việc cho tốt đẹp và giúp con phục vụ kẻ khác hữu hiệu hơn.
    Nên nhớ rằng khi con chú tâm vào công việc, ấy chưa hẳn con đã biết thiền trong công việc, con chỉ thật sự biết thiền trong công việc khi tâm con đã được thanh tịnh sáng suốt, đã đạt được trạng thái thiền mà thôi.
    Còn con nào quyết tâm muốn tới chỗ sáng suốt giải thoát thì càng phải siêng năng tinh tấn chuyên tâm Thiền Định để mau tiến đến mục tiêu mong ước.
    Ở đây, Cha cũng thấy cần nhắn nhủ thêm với những con nào ưa tìm thiền trong sách vở, thích tìm hiểu thiền qua những ngôn từ lý luận cao xa. Này con ơi! Thiền là Vô Tự Chân Kinh, là quyển kinh không chữ, là quyển sách không lời, là tiếng nói không âm thinh, là những lý luận bất khả luận! Con không thể hiểu được nó bằng ngôn từ, sách vở, bằng những lý luận ồn ào của trí óc suy tư. Con nên bỏ cách ấy đi! Hoài công thôi!
    Vì không bao giờ con thấy thiền ở ngoại giới khi con chưa thấy nó trong con! Muốn tìm biết nó, con phải thực hành công phu thiền định, dụng Pháp nhiếp Tâm, gìn Ý, bế Ngũ Quan, gom Thần, nhập Định. Khi hồn con đã thật sự vắng lặng, khuôn mặt thiền sẽ hiện ra dần dần để con nhận diện chiêm ngưỡng.
    Và rồi trong trạng thái đó, con sẽ đọc được những dòng kinh không lời, cao siêu thâm viễn, được nghe những tiếng nói vô thinh huyền diệu lâng lâng, và con sẽ thỏa mãn sự tìm hiểu của con bằng bất khả luận bàn.
    Tóm lại, đừng tìm thiền bên ngoài vô ích, sẽ không bao giờ con thấy nó! Hãy quay tìm nó trong con! Khi con đã thấy nó, đã đạt được nó rồi, thì khi nhìn ra ngoại giới, con sẽ thấy sự hiện diện của nó khắp nơi, con không cần phải đi tìm nó nữa!

    52. VẤN: Thưa Cha, Cha có cho biết đây là giai đoạn cuối của Hạ Ngươn để đến Cơ Tận Diệt tức là Cơ Phán Xét Cuối Cùng. Cha cho biết con người phải Phước Huệ Song Tu mới đi kịp. Nhưng bên Thiên Chúa Giáo, các tín đồ chỉ được khuyến khích phần phước, tức là làm việc xã hội giúp đời mà không nghe dạy một phương pháp công phu Thiền Định nào để được trở về giải thoát. Như vậy giáo dân sao đi cho kịp?

    ĐÁP: Thực sự bên Thiên Chúa Giáo cũng có sự chậm trễ trong việc nghiên cứu khoa học Vô Vi, cho nên, khi bước sang cơ chuyển tiếp để dọn đường cho Cơ Thánh Đức, Cha sẽ chuyển cho giáo dân mở trí về việc này. Vì phần công phu không thể thiếu, nếu muốn khỏi chuyển kiếp trở lại trầm luân ở cõi thế gian. Muốn giải thoát thì phải công phu thiền định để điển âm dương trong bản thể được giao hòa tạo nên Thánh Thai Xá Lợi. Có Thánh Thai Xá Lợi, hồn con mới về được cõi hư linh siêu thoát mà thôi.
    Nếu con chỉ tu có phần công quả, sau khi bỏ xác con sẽ được hưởng phước một thời gian ở cõi Thánh Giới, rồi phải chuyển kiếp trở lại thế gian để tiếp tục tiến hóa cho đến khi phần trí tuệ được đến cõi giải thoát.
    Vì vậy, rồi đây sẽ có một số con bên Thiên Chúa Giáo được chọn tiếp ơn Thánh Linh để hướng dẫn giáo dân hành pháp Thiền Định hầu được về cõi giải thoát. Vì pháp thiền định không phải chỉ dành riêng cho Phật Giáo hay Lão giáo v.v...
    Tôn giáo nào cũng có thể áp dụng để đạt tới thanh tịnh sáng suốt nội tâm và tạo điều kiện cho mình gần gũi với đấng mà tôn giáo mình thờ phượng. Chẳng hạn các con Công Giáo có thể tọa Thiền, tập trung tư tưởng để chiêm ngưỡng Đức Chúa Trời. Nếu con nào có bạn người Công Giáo, con nên chỉ dẫn pháp Vô Vi Huyền Bí Học, để giúp nó khỏe mạnh xác thể và sáng suốt tinh thần. Phần lời nguyện con dạy nó niệm câu: “Xin cúi lạy Đức Chúa Trời (hay Đức Thượng Đế cũng được) chứng minh con tu hành đắc đạo”, và tưởng Thượng Đế trên đầu, răng kề răng, co lưỡi.
    Phần Thiền Định thì con khuyên nó nghĩ tư tưởng: “Trở về hợp nhất với Thượng Đế.“ Như vậy để nó khỏi nghi ngại hoang mang và để nó thấy rằng pháp Thiền chỉ giúp nó tiến đến gần hơn Đấng mà nó hằng thờ phượng đó thôi!
    Và rồi, nếu nó chịu chuyên tâm tinh tấn hành pháp có khi nó sẽ được thấy Chúa bằng huệ nhãn, được xuất hồn lên gặp Chúa ngay khi nó còn sống tại thế gian. Hiện nay, đã có một số ít, là tu sĩ Công Giáo, được Cha chuyển ơn cho hành pháp Thiền, rồi được mở huệ khai khiếu, chứng nghiệm nhiều hiện tượng Vô Vi để biết thêm Phật, Chúa Giêsu cũng một gốc mà ra.
    Các con Thiên Chúa Giáo không chịu chú ý rằng, trước khi ra hành đạo, cứu dân độ thế, Chúa Giêsu đã tự cô lập trong sa mạc, nhịn đói 40 ngày để thanh lọc bản thể, gom Thần nhập định hầu được tiếp xúc và nhận ân điển Đức Chúa Cha truyền ban sứ mạng ra mở đạo tế độ quần sinh.
    Đấy là Chúa đã nêu gương cho nhân loại thấy rằng, muốn được gần gũi tiếp xúc với Thiên Chúa, con người phải tìm vào cô đơn, đắm chìm trong sự vắng lặng của nội tâm, gạt bỏ mọi tư tưởng thế sự để linh hồn quy về hợp nhất với Đấng Tạo Hóa! Đấy là gương Giêsu dạy loài người tìm về thiền định để tạo điều kiện tốt gần gũi và hợp nhất với Thiên Chúa. Giáo dân đọc đoạn quan trọng này trong Phúc Âm mà chẳng bao nhiêu đứa chịu chú ý noi gương Chúa.
    Cũng như các con bên Phật Giáo, đọc lại cuộc đời của Đức Phật mà không biết noi gương Phật. Các con muốn về Niết Bàn, muốn tới cõi Hư Linh để thoát vòng luân hồi chuyển kiếp mà chỉ lo thờ lạy tượng cốt, xin Phật ban phước điều nọ điều kia, hoặc xin Phật cứu độ linh hồn cho con được về cõi Phật.
    Như vậy chừng nào các con mới thoát vòng tứ khổ để về đến nơi giải thoát? Sao các con không thấy rằng, Phật được về tới Niết Bàn đâu phải nhờ thờ lạy tượng cốt nào, hay nhờ tụng kinh gõ mõ? Có lúc nào, trong giai đoạn tu hành của Phật, con thấy Phật đốt nhang hoặc tụng kinh gõ mõ mà được đắc đạo không?
    Con thấy rõ rằng Phật phải hành công phu, gom thần nhập định, hồi quang phản chiếu, bản thể thanh tịnh, tâm ý không không, nhờ đó mà quy Tam Bửu, hiệp ngũ khí, tạo được Xá Lợi, ngươn thần được siêu xuất, rồi đạt tới chỗ Âm Dương hiệp nhất, thanh tịnh như như, an lạc Niết Bàn. Các con Phật tử ngày nay, phần đông chỉ lo bái sám tượng cốt, tụng kinh gõ mõ ê a cho Phật nghe để Phật phò hộ, chớ không tìm thấu đạt lý kinh, để rồi:

    Dứt bỏ vọng tâm,
    Tìm cơ siêu xuất,
    Noi gương Đức Phật,
    Gom Ý trụ Thần,
    Tinh tấn siêng năng,
    Trau dồi Thiền Định,
    Có vậy mới mong,
    Thoát vòng lục đạo,
    Tứ khổ luân hồi,
    Đạt đến cao siêu,
    Về nơi giải thoát.

    Cho nên, trải qua bao nhiêu ngàn năm, các tôn giáo bị biến cải dần dần đi đến chỗ thất chơn truyền, chánh pháp hoằng khai thuở xưa đều lọt vào tay phàm nên đã bị cải sửa biến dạng, suy thoái làm hư mối đạo.
    Bên Nho Giáo, các hàng Nho sinh hậu lai phần đông học thuộc làu ba mớ chữ trong Tứ Thư, Ngũ Kinh để lòe đám dân ngu, hoặc để mưu cầu danh lợi, quyền cao lộc cả chốn quan trường, chớ không phải học để mở mang trí tuệ lo tu tâm dưỡng tánh, trau dồi hạnh nết, để biết cư xử sao cho vẹn đạo làm người, cho tròn Nhơn Đạo, hầu có nền tảng chắc chắn đi vào Thiên Đạo.

    Còn Lão Giáo dạy Lý Huyền Cơ, lẽ bí nhiệm của bộ máy Âm Dương Trời Đất, đã bị thoái hóa từ chỗ Vô Vi cao viễn xuống những trò mê tín dị đoan, phô trương phù phép, đồng bóng, hô phong hoán vũ v.v... Bày vẽ cho con người ham thích cái huyễn hoặc của bàng môn tả đạo chớ không còn biết hướng về cái huyền diệu của minh triết cao siêu!

    Còn Phật Giáo, thì tam sao thất bổn, đi từ chỗ cao siêu thậm thâm xuống tới hữu vi âm thinh sắc tướng. Giới tu hành phần đông câu nệ vào kinh điển, nhưng lại không tìm đạt thấu lý kinh để hiểu chơn lý. Phật dạy quay vào trong để tìm Phật tánh, Phật tử lại cố phóng tâm ra ngoại giới, lo tụng kinh, gõ mõ, lễ bái, cúng lạy ông Phật gỗ, xi măng, để xin được hộ trì. Thế nên, dần dần sa vào chỗ mê chấp sắc tướng, sái chơn truyền, không đi đến chỗ siêu diệu. Do đó, mà linh hồn không lên được chỗ giải thoát, phải trở lại chuyển kiếp luân hồi để học hỏi tiến hóa nữa.

    Còn bên Ki Tô Giáo thì Hội Thánh La Mã chỉ lo củng cố vương quyền, các hàng lãnh đạo, các hàng giáo phẩm không thực thi đúng điều Chúa dạy và không hướng dẫn dân đi theo đường lối Chúa muốn, đến nỗi trước nguy cơ chết chóc của con người bởi thảm họa chiến tranh, Mẹ phải hiện ra tại Fatima vào Thế Chiến Thứ Nhứt để ban những thông điệp quan trọng khẩn cấp, nghiêm khắc cảnh cáo Giáo Hội La Mã và tín đồ Ki Tô Giáo, rằng phải tức khắc lo ăn năn đền tội, ăn chay hãm mình thực thi đúng đường lối Chúa dạy, và Mẹ đã truyền cho giáo hội phải sửa sai làm gương, cùng kêu gọi giáo dân ăn chay, ăn chay theo ý Chúa là không ăn thịt loài thú, tức dùng rau quả ngũ cốc, điều đó hết sức quan trọng để cứu dân thoát cảnh giết chóc tương tàn do nghiệp sát đã lôi cuốn hàng triệu con người vào cảnh máu đổ thịt rơi, bởi những cuộc chiến tranh khốc liệt mà thảm họa hủy diệt của loài người sẽ không sao tránh khỏi! Đấy là hồng ân Thiên Chúa ban rải để cứu rỗi con người qua phép lạ Fatima. Nhưng từ ấy đến nay, Giáo Hội đã chẳng sửa sai được điều gì đáng kể!
    Cho nên, Cha cho biết, nếu tình trạng cứ tiếp tục như vậy, rồi đây Giáo Hội La Mã sẽ hoàn toàn sụp đổ trước cuối thế kỷ này để thể hiện lời tiên tri của Đức Mẹ!
    Có thể nói, đây là giai đoạn suy bại của các nền tôn giáo cũ nên còn gọi là thời kỳ mạt pháp. Vì vậy, vào giai đoạn tới, khi Cha thật sự công khai xuất hiện ở Cơ Chuyển Tiếp, mối giềng đạo đức cao siêu sẽ được tu chỉnh để phục hưng và đi vào Cơ Quy Nhứt!
    Cơ Quy Nhứt là gì? Là Tam Giáo quy nguyên, Ngũ Chi hiệp nhứt. Tam Giáo quy nguyên là ba tôn giáo cổ tức Nho, Thích, Lão phải quy về một, còn Ngũ Chi hiệp nhứt tức là Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo phải hiệp về một gốc, vậy có nghĩa là tất cả các chi phái, các tôn giáo khác nhau trên thế giới đều nằm trong ngũ chi này và sẽ đến lúc phải quy về cội nguồn là Thượng Đế mà thôi! Vì các tôn giáo, chi phái đều là những phương tiện khác nhau, Cha cho xuống thế để mở giềng mối đạo hướng dẫn nhân loại tiến hóa đi lên.
    Những phương tiện này thuộc về khối thanh, thuộc về cái lực tốt lành của càn khôn để kéo con người lên chỗ sáng suốt. Con người vì vô minh mê chấp, nên phân biệt đạo người đạo ta, đạo người thấp đạo ta cao, chỉ có đạo ta là chơn lý... Nó không hiểu rằng, tất cả đều từ một cội nguồn, Phật, Chúa, Lão, Khổng, hay các giáo chủ khác, đều được Thượng Đế giao sứ mạng xuống thế vào những thời kỳ khác nhau, ở những địa phương khác nhau, để hoằng hóa mối đạo, mở trí khai tâm cho dân hiểu biết điều thiện lành đạo đức hầu tiến hóa trở về với Thượng Đế.
    Đấy là những phương tiện mà Thượng Đế gửi đến các Tiểu Hồn của Ngài để nó vạch lối tìm lại quê xưa. Con người ngu muội, chưa hiểu chơn lý, nên đố kỵ, tỵ hiềm, chấp ta, ngã mạn, đi đến chỗ gây chia rẽ phân biệt giữa các tôn giáo, chi phái, không thực thi đúng tinh thần từ bi bác ái và những điều giảng dạy của các vị giáo chủ, khiến cơ đạo phải ngửa nghiêng. Mà hễ cơ đạo ngửa nghiêng thì đời phải hỗn loạn.
    Cho nên, sắp tới đây, Cha sẽ bước ra để lo Cơ Quy Nhứt, cơ này là đại cuộc của đất trời mà cũng là đại cuộc của linh hồn các con.
    Bằng mọi giá các con phải thực hiện nó cho kỳ được, nếu không thực hiện được, thì chắc chắn các con không có ngày về! Vì nếu các con không quy hiệp được, có nghĩa là các con chưa chịu hòa đồng, chưa thực thi hòa ái, còn chấp nê đố kỵ, tâm tánh còn hẹp hòi, cống cao ngã mạn, còn thiếu đức từ bi bác ái. Nhân tính chưa tròn làm sao đủ tiêu chuẩn để được chọn vào Cơ Thánh Đức?
    Con phải biết tinh thần hòa đồng, biết sống tình huynh đệ giữa con người với nhau, không còn chút phân biệt là trình độ tối thiểu để sống ngươn Thánh Đức. Vì Cha cho con rõ, Kỷ Nguyên Thánh Đức là ngươn của thế giới đại đồng, xã hội này được dựng lên bởi con người biết yêu thương kính trọng nhau, xem nhau như huynh đệ, không còn phân biệt màu da chủng tộc, tôn giáo, giai cấp. Con người của xã hội này phải có trình độ tiến hóa cao về đạo đức tinh thần, về lòng từ bi, bác ái.
    Cho nên, nếu con nào còn bản tánh chấp nê, đố kỵ, hẹp hòi, chia rẽ, không biết hòa đồng, không thực thi hòa ái, là đương nhiên, sẽ bị gạt tên khỏi sổ Long Hoa! Mà không được tuyển vào dự Đại Hội Long Hoa, tức là ngày về của con thực không còn có hẹn.
    Cho nên, Cơ Quy Nhứt phải thành tựu, mà thành tựu hay không là do chính các con có chịu quy hay không. Các con nhớ rằng, phải quy mới về. Vì quy là về, không quy ắt không về được nghe con! Các con khá biết.

    53. VẤN: Thưa Cha, bên khối thanh có các vị đại diện xuống để kéo con người đi lên, vậy chắc khối trược cũng phải có các đại diện ở thế gian để lôi con người đi xuống?

    ĐÁP: Chớ sao con! Đấy là định luật tiến hóa! Vì trần gian là một môi trường sinh động nhứt để các Tiểu Hồn học hỏi nhờ lực kích động và phản động giữa trược và thanh. Nếu khối thanh có các đại diện để hướng dẫn con người đi lên, thì bên khối trược cũng có lực lượng đại diện để trì con người đi xuống. Thiếu gì quỷ Sa Tăng trong hình dạng con người để lôi cuốn nhân loại vào chỗ ác trược tội lỗi. Con phải biết bên khối thanh cũng như bên khối trược, đều có đủ thứ đại diện ở mọi địa hạt: tôn giáo, văn chương, triết học, nghệ thuật, chánh trị, kinh tế, khoa học v.v... Địa hạt nào cũng phải có thiện và ác hiện diện hầu con người có đủ cơ hội để học hỏi mọi khía cạnh của chơn lý.
    Cha cho ca ngợi Thượng Đế, rồi cho phủ nhận Thượng Đế, cho kính yêu Thượng Đế rồi cho chửi rủa Thượng Đế, cho thuyết hữu thần rồi cho thuyết vô thần, cho chủ nghĩa duy vật rồi cho chủ nghĩa duy tâm v.v... Học thuyết này nhìn chơn lý kiểu này, học thuyết khác nhìn chơn lý kiểu khác. Triết lý này đưa con người vào ác trược, triết lý kia kéo con người lên thiện lành. Có loại phát minh khoa học cứu khổ con người, có loại phát minh khoa học để hủy diệt con người v.v... Tất cả đều nằm trong ý chí của Thượng Đế, và những vị đại diện của thiện và ác đều được sứ mạng của Thượng Đế để đóng góp cho sự tiến hóa của nhân loại. Đấy là những “Kép độc” hay “Kép mùi” xuất hiện trên sân khấu của trần gian để diễn những lớp, những màn, những bài bản do ông Trời là đại soạn giả kiêm đại đạo diễn đó con!
    Những vĩ nhân của thế giới, các triết gia, những vị giáo chủ các tôn giáo, những đại văn hào, đại thi hào, những họa sĩ lừng danh, các bác học gia, những chánh trị gia, những kinh tế gia lỗi lạc, những vị minh quân, các danh tướng, những tay hôn quân vô đạo, hay những tay lãnh tụ độc tài v.v... đều có sứ mạng đóng góp cho sự vận hành của bánh xe tiến hóa, cho guồng máy của Thiên Cơ vận chuyển đó con!

    54. VẤN: Thưa Cha, những đại diện của khối trược, tức Sa Tăng, trong lớp con người, đã được sứ mạng Cha giao, để gây những thảm kịch ác trược dưới trần gian theo ý Cha sắp xếp. Vậy nếu họ đóng tròn vai Sa Tăng, thì Cha phải xử họ thế nào?

    ĐÁP: Kẻ đó phải bị đọa dưới cõi nặng nề tối tăm đau khổ.

    55. VẤN: Thưa Cha, dù họ gieo tội ác, nhưng đấy là làm sứ mạng theo ý Cha muốn, tức là có công!

    ĐÁP: Đúng vậy! Nó đã làm tròn sứ mạng mà Cha muốn tức là phải có công chớ con! Vì vậy mà Cha đã thưởng cho nó bằng cách đọa nó. Như vậy, là Cha đã cho nó hưởng cái quả mà nó đã có công gieo trồng và vun xới đó con! Khi hiểu rồi thì phạt là thưởng, thưởng là phạt. Tóm lại, chỉ là định luật, con có công gieo cái gì, con sẽ được hưởng cái ấy đó thôi!

    56. VẤN: Thưa Cha, trong việc làm của kẻ ác đó, Cha cũng có trách nhiệm xếp đặt, vậy Cha có chịu quả báo không?

    ĐÁP: Có chứ con! Cha đã sắp xếp điều đó, thì tức nhiên, Cha phải gánh lấy quả báo! Gánh bằng cách nào? Cha gánh chịu quả báo ngay trong kẻ bị đày đọa đó con. Vì nó là một chiết hồn của Cha, nó bị đọa đày tức là Cha bị đọa đày qua nó đó!
    Cho nên, ngay giờ phút này, Thượng Đế cũng đang bị vùi dập, bị đọa đày, chịu trầm luân, gánh lấy quả báo trong cảnh nặng nề, tối tăm đau khổ của cõi địa ngục qua các Tiểu Hồn tội lỗi đó con!
    Nói tóm lại, rốt rồi, tất cả mọi sự kiện đều từ Cha, đều do Cha, đều là Cha! Cha là bầu gánh, kiêm đại đạo diễn, kiêm soạn giả, kiêm diễn viên, đào kép chánh, phụ, độc, mùi v.v... Cái nào cũng là Cha hết! Cha viết tuồng, Cha dựng cảnh, rồi Cha diễn cả vai độc lẫn mùi, cả ác lẫn thiện, qua các diễn viên đào kép tức là Tiểu Hồn của Cha đó con!
    Cho nên Cha vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả, vừa là khởi điểm vừa là chung cùng. Đấy là chơn lý Vô Cùng, vĩnh cửu và bất biến.

    57. VẤN: Thưa Cha, Cha bảo trong càn khôn bao giờ cũng còn khối trược, như vậy bao giờ địa ngục cũng phải còn đó. Thế thì Đức A Di Đà đã lập 48 lời nguyện quá lớn, vậy biết bao giờ Ngài làm tròn để về được Ngôi Chánh Giác.

    ĐÁP: Con nói đúng! Sự hiện hữu của địa ngục không bao giờ bị xóa đi trong chơn lý. Khối trược bao giờ cũng còn đó. Vì khối trược mà mất đi thì càn khôn phải sụp đổ tức khắc! Bởi vậy, A Di Đà phải làm việc đời đời con! A Di Đà Phật hay Vô Lượng Quang Phật là ngôi vị tượng trưng cái lực sáng suốt của càn khôn. Lực sáng suốt này phải làm việc đời đời trong chơn lý, đối kháng lại cái lực ngu muội và kéo lực này đi lên. Cũng như lực ngu muội sẽ đối kháng lại cái lực sáng suốt để trì nó xuống. Chính sự đối kháng, sự xô đẩy, sự hấp dẫn nhau của hai lực này đã tạo nên sinh lực tiến hóa không ngừng của càn khôn và nuôi nấng bảo vệ sự sống hằng hữu của chơn lý bất biến.
    Cho nên, A Di Đà không bao giờ làm tròn lời đại nguyện, để rồi không bao giờ về đến Ngôi Chánh Giác! Thật vậy! A Di Đà Phật luôn luôn ở ngôi vị của cái thanh, cái sáng suốt và không bao giờ ở ngôi chánh giác tức là cái biết chơn chánh của càn khôn cả! Tại sao vậy con? Vì, cái biết chơn chánh gồm cái biết thanh và cái biết trược, hay nói cách khác là gồm cái biết sang suốt và cái biết ngu muội. Hai trạng thái biết này phải thể hiện cùng một lúc để hình thành cái biết chơn chánh hay chánh giác. Ngôi Chánh Giác ấy là ngôi Thượng Đế hay ngôi chơn lý Tối Thượng vậy.
    Cho nên, A Di Đà Phật sẽ đời đời ở ngôi sáng suốt chớ không ở ngôi chánh giác, các con nên phân biệt rõ.

    58. VẤN: Thưa Cha, Cha nghĩ gì về những đứa con lừng danh như: A. Gide, Nietzche, Rimbaud, Thomas Wolfe v.v... không thèm trở về với Cha nữa? Họ cho rằng, nếu thật có Cha và dẫu cái nhà Thiên Đàng của Cha có hạnh phúc đẹp đẽ giàu có đầy đủ để cho họ sung sướng, họ vẫn thấy yêu thích trần gian với những khổ vui của nó?

    ĐÁP: Này con ơi, những đứa con này đều có sứ mạng văn nghệ, dùng văn chương triết học mô tả trần gian với mọi đường nét của nó, để nói lên một khía cạnh của Thượng Đế tức của chơn lý. Những đứa này đã đóng góp một giai đoạn vào chu trình học hỏi tiến hóa của con người, giúp con người nhận diện trần gian, gắn bó với những nét đẹp bi tráng của nó, và sống và say mê, và yêu thương mãnh liệt những hương vị ngọt ngào, đắng cay, chua chát mặn nồng, những nét bi, hài, xấu, đẹp, thiện, ác của con người trần và cuộc sống trần gian! Đấy là làm công việc phác họa một góc cạnh của Thượng Đế đó thôi!
    Con hỏi Cha nghĩ gì về sự chối bỏ đường về nhà Cha của chúng nó, Cha sẽ trả lời rằng, chuyện ấy chẳng có gì ngạc nhiên khi chúng nó chưa hiểu căn nhà của Cha phong phú vô cùng tận, những gì chúng yêu thích đều có cả trong đó. Chỉ vì chúng chưa biết cái chúng yêu thương chỉ là một góc cạnh nhỏ bé trong căn nhà vĩ đại đó thôi!
    Này con ơi! Nếu con thích cái đẹp trần gian hơn cái đẹp thiên đàng, con lại càng nên trở về ngôi Thượng Đế để thưởng thức nó trọn vẹn! Vì con nên biết, không ai yêu thương trần gian hơn Thượng Đế, không ai đam mê, gắn bó, thiết tha nồng nàn với nó hơn Thượng Đế, cũng không ai ở vị trí nếm, hưởng thụ tất cả những nét tế nhị và phức tạp của nó hơn Thượng Đế!
    Chỉ có Cha mới thật biết trần gian, mới thật hưởng, thật nếm đầy đủ mọi hương vị từ tanh hôi đến thơm tho, mới chiêm ngưỡng sâu sắc mọi đường nét vụng về, thô thiển, tinh vi, mới ngắm nghía trọn vẹn những cảnh sắc xấu xa, nhớp nhúa, mỹ lệ, thanh tao của trần gian! Con có biết rằng mỗi giây, mỗi phút, tư tưởng tình yêu và ý lực của Thượng Đế rung động không ngừng trong từng hơi thở, từng tế bào đang di động trong cái sinh hồn của trần gian không?
    Tóm lại, trần gian chính là một góc cạnh trong vô số góc cạnh của ngôi nhà xưa vĩ đại mà các con đã từ giã ra đi không muốn hẹn ngày về!
    Nó là một trong những nét đẹp dị biệt của Thượng Đế hay của chính con đó.
    Này hỡi “Cùng tử”8! Hãy tìm về mái nhà xưa để biết thưởng thức thật sự mọi nét đẹp của con đi! Tìm về nhà Cha tức con tìm về con để thật biết mọi bản chất của con và thật biết hưởng mọi bản chất này đó thôi!

    59. VẤN: Thưa Cha, tối ngủ chiêm bao thấy Đức Kim Thân, đấy có phải là Cha cho thấy không? Tu đến trình độ nào mới thấy được điển Cha và được lên đến nơi Cha ngự?

    ĐÁP: Trình độ nào cũng có thể thấy điển Cha nếu Cha muốn cho thấy! Nhưng trạng thái thấy cũng còn tùy mức tiến hóa của linh hồn và cường độ điển quang Cha ban theo tình huống lúc đó.
    Phần hồn còn mê, chưa phát huệ, thường chỉ thấy Cha trong chiêm bao, do Cha ban chút ân điển cho nhớ Cha và nhắc căn tu. Trình độ huệ mở khá hơn chút có thể thấy Cha với hình thức linh ảnh khi công phu trụ được thần, hay ở những dịp đặc biệt như đồng tử Chơn An9 được (8 Cùng tử: đứa con nghèo khổ, túng quẫn (ám chỉ con người tả tơi, nghèo khổ, trải qua bao kiếp sống trầm luân dưới cõi trần ai).
    (9 Chú thích:Tài liệu Điển Ký của Tân Dân Đàn có ghi: Đạo hữu Minh Miêng phái Minh Đức Nho Giáo) biết bên phái Vô Vi có hiện tượng Kim Thân Cha đang tiếp xúc với Thầy Tám nên bàn với toàn nhóm đạo thử rước Kim Thân Cha tới Chứng Đàn Cha cho thấy vậy! Nhưng đồng tử Chơn An cương quyết chống đối. Trong tình huống rắc rối nầy, các vị thiêng liêng đã sắp xếp chu đáo: Trước ngày hành lễ, điển chư vị thiêng liêng giáng xuống chính đồng tử và cho lịnh phải tiếp đón Kim Thân Cha bằng nghi thức Đại Lễ trọng thể. Sau đó, trong buổi lễ Chứng Đàn đầu tiên của Kim Thân Cha ở Khổng Thánh Miếu, đồng tử Chơn An đã được mở nhãn cho thấy hai lần linh ảnh Kim Thân Cha ngồi tại ngai Chứng Đàn, mặc áo trắng chiếu sáng lòa và đặc biệt có thiên nhãn sáng chói rực rỡ ngay trái tim ngài. Đồng tử Chơn An đã xúc động phát biểu điều nầy ngay trong buổi lễ, rất tiếc phần nầy đã không được giữ lại khi in ấn và tài liệu chỉ còn ghi lại những phần chính buổi Đàn Cơ.)

    Còn như Lương Sĩ Hằng đã có trình độ nắm vững ngũ hành đạt lục thông, thì muốn thấy Cha lúc nào cũng được. Thường khi Cha cho nó thấy điển Cha qua dung mạo Đức Kim Thân ở nhiều lứa tuổi khác nhau, có khi cỡ như một đứa bé vài tuổi vậy! Tuy nhiên tất cả những cách thấy trên đều chỉ là thấy một luồng điển của Cha, được thể hiện tùy theo trình độ tiến hóa của linh hồn các con, tùy theo trường hợp sự việc và thể hiện thiên hình vạn trạng mà Cha không thể tả được bằng lời. Cha chỉ nói sơ vài trường hợp thí dụ điển hình cho con hiểu chút vậy thôi!
    Còn nếu con muốn đến được chỗ Cha ngự hay trung tâm sinh lực của vũ trụ thì phải thanh nhẹ lắm mới được! Thường khi con nghe chuyện các vị lên chầu Ngọc Hoàng Thượng Đế trên xem hư thực. Thiên Đình, nói lên chầu nhưng kỳ thật chỉ ở xa xa, được Cha phóng điển tiếp xúc và ban ơn mà thôi, con được thanh nhẹ chừng nào, con mới tiến gần vô trung tâm tức chỗ Cha ngự chừng nấy!
    Có những phần hồn đã phát huệ, được Cha cho ơn chầu Cha, tức được đến Bạch Ngọc Cung, dù có các vị Kim Tiên đi kèm hộ thêm điển, nhưng nếu chưa thanh nhiều thì vẫn phải ở xa xa, yếu đuối, run sợ, đầu không ngẩng lên được, vì sự chói sáng rực rỡ kinh hồn của Cha!
    Trình độ thanh nhẹ như Lương Sĩ Hằng, đã đạt lục thông, điển quang lên đến Niết Bàn, nhưng sau này có lần Cha cho nó chứng nghiệm đến nơi Cha ngự, thử điển cho biết, mấy lượt điển quang của nó tự ý tiến vào gần Cha, đều bị tan rã tức khắc, Cha đã phải phóng điển hộ giúp, nó mới được đến gần Cha để đảnh lễ và yêu thương Cha.
    Chứng nghiệm này các con có thể hỏi lại nó cho biết thêm!
    Tóm lại, Cha là khối Điển Quang Vô Cực Vô Biên, sinh động mãnh liệt. Các cung các cõi từ trược tới thanh, từ nặng tới nhẹ, từ tối tới sáng đều là những tần số điển khác nhau của Cha đó thôi! Các cung các cõi này được duy trì, nuôi nấng, sinh hoạt, nhờ nguồn điển lực cung cấp từ trung tâm vũ trụ, có thể nói ở đó phát xuất sinh lực của càn khôn vậy.

    60. VẤN: Thưa Cha, trước đây ông Tám nói Ngọc Hoàng Thượng Đế ở cõi Trung Thiên thấp hơn cõi Niết Bàn, chúng con tưởng Ngọc Hoàng Thượng Đế là Địa Tiên tức là thấp hơn Phật, nhưng từ khi Cha xuất hiện trong phái Vô Vi, Cha đã cho ông Tám chứng nghiệm nhiều điều siêu diệu và giúp ông Tám mở trí rất nhiều. Riêng chúng con cũng được duyên phước hiểu thêm nhiều vấn đề cao siêu mới lạ mà chưa nghe kinh sách nào nói đến. Nhờ vậy chúng con mới biết về tới Phật phải tiến hóa trở về Cha. Tuy nhiên chúng con vẫn thắc mắc tại sao Cha lại ở cõi Trung Thiên thấp hơn cõi Phật?

    ĐÁP: Này con, phần đông các Phật tử cũng như các con phái Vô Vi trước nay vẫn hình dung rằng Ngọc Hoàng là ông Vua ở các cõi Trời thấp hơn cõi Phật. Thật sự những vị Vua ở các cõi Trời thấp, mà các con thường hình dung, chỉ là những vị Thiên Đế, Thiên Vương hay Thiên Tôn v.v... do Cha phân thân ra để trông nom cai quản.
    Con phải biết, mọi việc trong càn khôn đều do Cha điều động sắp xếp, mọi tầng giới từ thấp đến cao Cha đều phải hiện diện dưới nhiều hình thức khác nhau để coi sóc sự tiến hóa những Tiểu Linh Quang của Cha ở các cõi đó chớ con! Và các hệ thống tổ chức điều hành công việc của Cha thật vô cùng vĩ đại, hết sức chằng chịt tinh vi không sao tả được, trí phàm các con không cách gì hình dung nổi đâu!
    Cho nên, Cha đã nói Cha là bầu gánh kiêm soạn giả, kiêm đạo diễn, kiêm đào kép diễn viên là vậy! Do đó, Cha có mặt khắp mọi cung, mọi cõi với đủ mọi vai trò từ thấp đến cao, từ vua đến quan đến sĩ tốt v.v... Còn việc các con hỏi tại sao Cha lại ngự ở cõi Trung Thiên thấp hơn cõi Phật, Cha sẽ cho con biết rằng, Cha ở cõi Trung Thiên nhưng nơi Cha ngự là trung tâm vũ trụ, là nơi cung cấp nguồn năng lực để chuyển động guồng máy vĩ đại của cả càn khôn. Cha ở cõi thấp hơn Niết Bàn – nhưng thấy, biết và có mọi trạng thái của tất cả các cung các cõi, từ cực trược cho đến cực thanh! Vì vậy cõi Niết Bàn là một thành phần nằm trong cái bản thể vĩ đại của Thượng Đế, và cõi này được Ngài nuôi dưỡng bằng ý chí và thần lực của Ngài.
    Để các con dễ hình dung, con hãy nhìn lại cái bản thể của con, tức cái Tiểu Càn Khôn mà con đang ngự trị. Có phải chăng, con tức Tiểu Linh Quang, tức chơn thần của Cha là Chủ Nhơn Ông nắm quyền cai quản cả Tiểu Thiên Địa? Và phải chăng Chủ Nhơn Ông chơn thần đang ngự nơi trái tim bản thể là thuộc về cõi trung thiên của cái Tiểu Càn Khôn mà con đang trông coi? Linh hồn của bản thể con không nằm ở vị trí cao của bản thể nhưng lại điều hành hết mọi sinh hoạt toàn bộ máy móc cơ quan bản thể, con thấy chưa? Cho nên, trước đây, hầu như các con thuộc phái Vô Vi đều cho rằng Cha ở cõi thấp hơn Phật nên không bằng Phật.
    Lúc Tám được ngộ Cha và Cha xuất hiện trong phái Vô Vi, có đứa hỏi Cha, ông Trời lớn hơn ông Phật hay nhỏ hơn ông Phật? Cha trả lời, ông Trời nhỏ hơn ông Phật, bằng ông Phật, mà lớn hơn ông Phật luôn! Ông Trời vừa là ma quỷ, là cát đất, là kim thạch, là thảo mộc, cầm thú, là con người, là Thánh Tiên, là ông Phật, là Cha ông Phật nữa!
    Cho nên, về tới Phật rồi còn phải đi, phải tiến lên ngôi Thượng Đế. Thật ra Phật là gì? Phật là tính thanh, là tính sáng của càn khôn, nhưng Phật chưa là chính giác, Phật chỉ là Niết Bàn, là khối thanh, khối sáng của càn khôn, nhưng Phật không là càn khôn, Phật chưa là chơn lý. Phật chưa đạt được đầy đủ bản chất của chơn lý. Vì chơn lý phải có cả thanh lẫn trược, Phật thì đã lìa tính trược, Phật không còn muốn trược, không còn làm trược, không còn chịu đựng trạng thái ác trược nữa. Vậy nghĩa là Phật chưa toàn năng, toàn giác, toàn mỹ, và chưa thật biết Bi, Trí, Dũng!
    Thật vậy, Phật đã lìa tính trược, không còn muốn trược, không còn làm trược, thì chưa thể xem là toàn năng, toàn giác, toàn thiện, toàn mỹ! Phật chưa đủ đại từ bi để chịu đựng cả trạng thái ác trược tối tăm, ngu muội, để chịu khổ, chịu cực làm cả ma quỷ, hầu hỗ trợ hữu hiệu cho sự tiến hóa không ngừng của càn khôn, như vậy là chưa đủ Bi Dũng, mà Bi Dũng còn thiếu thì trí Phật chưa thể mở đúng mức được!
    Phật chỉ thích cái thanh, không thích cái trược, chỉ thích cái sáng mà chê cái tối, cũng là còn mê chấp chưa thật sự vô vi, chưa thật ở mọi trạng thái của hư không, nên chưa thể đạt hư không. Thế nên, Phật còn phải học thêm để được toàn năng, toàn giác và thật sự biết Bi Trí Dũng. Do vậy, Phật Đại Bi, Đại Trí, Đại Dũng với chúng con nhưng còn thiếu Bi, Trí, Dũng trước chơn lý tức Thượng Đế hay Đấng Cực Bi, Cực Trí, Cực Dũng; vì Phật còn chưa làm được như Thượng Đế cho nên muốn mở trí tiến hóa cao hơn, Phật phải chiến thắng tư tưởng lìa trược để học yêu trược, muốn trược, muốn đi xuống trược để biết trược lại.
    Con sẽ hỏi rằng Phật đã học bài trược lúc còn ngu muội, đã biết nó rồi, đã từ chỗ trược mới tiến lên thanh, sao giờ đây còn phải học trở lại nó nữa? Tại sao? Đây Cha giải thích: Con nên biết, trước đây Phật đã học bài trược, biết cái trược bằng cái trí ngu muội tối tăm. Sau đó, Phật phải từ bỏ nó, lìa nó để tiến lên được cái thanh, cái sáng. Sáng rồi, thanh rồi cũng chưa phải đến nơi, chưa là chơn lý, vì chơn lý phải có sáng, có tối, có thanh, có trược cùng một lúc.
    Cho nên, nếu Phật muốn tiến hóa lên nữa để về tới chơn lý, đạt đầy đủ bản chất của chơn lý, Phật phải trở xuống trược để tiến hóa nữa, nhưng lần này, đã có trình độ sáng, Phật sẽ trở xuống trược bằng ý chí sáng suốt, nhìn cái trược, thấy cái trược với minh triết, đi vào trược mà chủ động, nếm trược, chịu trược, không phải vì ngu muội vô minh mà vì Bi Trí Dũng.
    Do vậy, nên càng xuống trược thì càng thanh hơn, càng dấn thân vào chỗ tối, chỗ nặng, thì càng được sáng nhẹ, và Bi Trí Dũng càng lúc càng phát triển cho đến vô cùng tận. Đến bao giờ Phật thực hiện được thanh trược cùng một lúc, điển quang rung động hòa làm một vào mọi trạng thái từ trược tới thanh, từ tối tăm đến sáng suốt, ấy là đã về tới chơn lý, đạt được mọi bản chất của chơn lý, hợp nhất với khối Đại Linh Quang của vũ trụ, được ở ngôi vị Thượng Đế, chừng ấy, Phật mới thật sự được hòa vào hư không vậy!
    Cho nên, khi một linh hồn từ cõi nặng trược về đến cõi thanh tịnh sáng suốt, nếu nó ham thích cảnh Niết Bàn, bám víu hưởng thụ cảnh thanh tịnh an lạc, mà dừng nghỉ ở đó không chịu tiến nữa, ấy cũng là mê, là cái nghiệp Tham Si của Phật! Mê thích cái thanh tịnh sáng suốt an lạc mà ngồi lại đó mãi, không lo tiến hóa, gây trở ngại sự tiến bộ của nó, sái
    quy luật tiến hóa của càn khôn, ấy cũng là sái quấy, là tội lỗi của cấp Phật vậy! Nên nhớ rằng, chơn lý không thể dừng nghỉ, nó phải luôn luôn di động nó mới được đời đời bất biến.
    Muốn ở trạng thái thực sự nghỉ ngơi, thực sự an hưởng, con phải làm việc không ngừng, đấy là chơn lý. Cho nên, về đến Niết Bàn chỉ hưởng được thanh tịnh, an lạc, chớ chưa hưởng được trạng thái cực thanh, cực tịnh, cực an lạc để được nếm hạnh phúc tuyệt diệu kỳ ảo vô tận vô biên! Hãy biết rằng khi cực động mới hưởng được cực tịnh, khi ở mọi trạng thái cùng một lúc, vừa trược vừa thanh, vừa địa ngục trần gian, Niết Bàn v.v...mới thưởng thức được trọn vẹn mọi cái đẹp, mọi lạc thú mênh mông vô cùng tận!

  11. #11

    Mặc định

    61. VẤN: Bạch Cha, đây là lần đầu tiên trong lịch sử triết học của loài người, chúng con được nghe Cha giảng những tư tưởng thật mới lạ siêu việt về bản chất tham, sân, si, dục, v.v... của con người, mà hầu như các học thuyết, triết lý trên thế giới vẫn còn bế tắc! Đây cũng là lần đầu tiên, suốt mấy ngàn năm từ khi có Phật Thích Ca đắc đạo, chúng con mới được nghe rằng Phật còn phải đi học, Phật chưa đủ Bi, Trí, Dũng, và được nghe Cha phân tích cái nghiệp tham, si cùng tội của Phật!
    Thực là những điều quá cao siêu mà trong lịch sử nhân loại chưa hề ai dám nói như Cha! Điều này chắc chắn sẽ gây chấn động lịch sử triết học thế giới! Từ trước tới nay, chúng con nghĩ rằng Phật đã diệt hết tham, sân, si, dục v.v... Phật là bậc Đại Giác, tu về được tới Niết Bàn đã là viên mãn, đã tới nơi rồi!

    ĐÁP: Này con, Phật là bậc Đại Giác trước con người, nhưng còn ngu trước chơn lý tối thượng! Phật đại giác chứ chưa toàn giác! Cái biết của Phật có lớn thật, vĩ đại thật, nhưng Phật chưa biết hết, và Phật phải còn học nữa để tới ngôi Toàn Giác hay Chánh Giác cũng vậy! Và rồi, nếu con cho rằng tu về tới được Niết Bàn đã là viên mãn, đã tới nơi, vậy Cha hỏi con: chơn lý có giới hạn không? Ắt con phải trả lời: chơn lý vô giới hạn! À, nếu vậy, thì tại sao đi tới Niết Bàn rồi không còn đi nữa? Vậy chơn lý giới hạn ở chỗ Niết Bàn sao con? Chơn lý chấm dứt ở đó sao? Bởi vậy, Cha vừa có dịp mở trí cho chúng con hiểu thêm chơn lý. Đấy chỉ là diễn tả sơ lược cho các con hiểu qua sự tiến hóa của cấp Phật theo ngôn ngữ và trình độ mà các con có thể với tới được. Những điều này thật cao siêu!
    Ở đây, Cha chỉ nói sơ cho chúng con có chút ý niệm để có cái nhìn rộng rãi hơn về chơn lý. Cha chưa thể giảng giải cho các con nghe như Cha đã giảng riêng cho cấp Phật! Đấy tạm gọi là chơn lý Vô Thừa mà trình độ các con không sao hiểu nổi! Nghe là lộn xộn, rối loạn rồi hư hết! Cái Siêu Thượng Thừa mà Cha thường giảng thấp lại, cho nghe theo trình độ của các con đã chưa chắc gì các con thấu triệt, huống gì cái Vô Thừa giảng cho trình độ Phật!
    Giờ đây các con còn phải khó nhọc phăng dò từng bước từ trược lên thanh. Cái nghiệp tham, sân, si v.v... và những cái tội của Phật là cái mà các con còn phải ngày đêm rán trau dồi học hỏi để đạt tới! Cha mong sao các con đến được chỗ đó giùm Cha đi! Tới được cõi thanh tịnh sáng suốt Niết Bàn đã là giỏi lắm, vì tới được trạm đó con đã gần nhận diện được thật sự trọn khuôn mặt chơn lý rồi đó!
    Cho nên, Cha chỉ nói qua cho biết chút để giải cho hiểu chỗ so sánh ông Trời với ông Phật! Cỡ trình độ Lương Sĩ Hằng trở lên, nắm vững ngũ hành đạt lục thông, điển linh quang xuất tới Niết Bàn mới có thể nghe và hiểu lời Cha giảng cho cấp Phật mà thôi!
    Đây là một đại cơ duyên, phước đức cho đường tu tiến của Lương Sĩ Hằng, nhờ tình cờ ngộ được Kim Thân Cha tại thế, để chứng nghiệm và học hỏi bằng Vô Vi và Hữu Vi một lượt, nhiều điều thật cao siêu dị thường mà hằng hà sa số Phật chưa có cơ hội chứng nghiệm hiểu biết! Sự kiện giảng Vô Thừa cho cấp Phật tại trần gian vào buổi Hạ Ngươn mạt kiếp thật là một hiện tượng chưa hề có trong lịch sử càn khôn!
    Điều dị thường này xảy ra cũng nhờ một cơ duyên hy hữu, vì Cha bất ngờ chọn được xác xứng đáng, ở trình độ với tới chơn lý để có thể giảng được Vô Thừa. Nhờ vậy, luồng điển siêu quang của Cha từ cõi cực thanh bố xuống cõi trược trần đã thể hiện được tính uy nghi sang suốt trong những lời giảng dạy cho cấp Phật mà không bị ảnh hưởng méo mó sai đi, vì trình độ hiểu của xác trần.
    Vả chăng, phần hồn vị này đã được Cha chứng quả nên có đủ tư cách quả vị để nhận điển Cha giảng dạy cho các vị tiến hóa cao còn dưới cõi hữu vi. Sau này, khi Cha thực sự xuất hiện làm việc, Cha sẽ chuyển những cơ hội đặc biệt để nhiều vị tiến hóa cao ở các nơi đến học hỏi với Đức Kim Thân.
    Tóm lại, để các con thấy rằng, tất cả chỉ là định luật tiến hóa, vì sự tiến hóa, cho mục tiêu tiến hóa đời đời để được hằng hữu đời đời. Mọi sự phải vận chuyển và tiến hóa không ngừng, Địa Ngục, Trần Gian, Niết Bàn v.v... cũng chỉ là những trạm tiến hóa hiện diện trên cuộc hành trình học hỏi của Tiểu Hồn để đóng góp cho mục tiêu tiến hóa của nó đó thôi! Nhứt là trạm trần gian, là môi trường mà cuộc gặp gỡ và sự đối kháng giữa hai lực thanh trược diễn ra mãnh liệt sôi nổi nhứt!
    Đấy là trường tiến hóa sinh động bậc nhất của càn khôn đã cung ứng biết bao sự kiện để Tiểu Hồn chứng nghiệm học hỏi. Từ những vấn đề then chốt trong đời sống vật chất tinh thần mà con người phải lao tâm khổ trí để giải quyết, rồi những diễn biến xoay quanh nó, từ xã hội, văn hóa, kinh tế, chính trị, khoa học, những tiến bộ văn minh vật chất, những vấn đề tâm linh, những nguồn triết lý tôn giáo, các chủ nghĩa, các học thuyết dị biệt, rồi những dao động của đời sống, những vui khổ của kiếp người, những lạc thú trần gian đính kèm theo những thảm kịch bi đát, những cảnh máu lệ, chiến tranh, giết chóc, thiên tai, địa ách, những bất trắc không ngừng đe dọa kiếp người ngắn ngủi chóng tàn.
    Tất cả những thứ ấy chỉ là những cơ hội hiến dâng cho con người, cho Tiểu Hồn học hỏi tìm biết mọi bản chất của nó, học tiến hóa không ngừng những bản chất đó để nó được tiến hóa luôn luôn!
    Cho nên, Tiểu Hồn từ thanh tiến xuống học trược, từ trược tiến lên học thanh, rồi học thanh trược cùng một lúc cho đến khi đạt được chơn lý, về đến ngôi Thượng Đế! Khi đã đạt được chơn lý, về đến cội nguồn hòa vào hư không, vậy đã dừng nghỉ chưa? Còn đi nữa không? Còn chứ con! Vì chơn lý không thể dừng nghỉ, nó phải đi, phải di động luôn luôn nó mới được sống còn, hằng hữu và bất biến.
    Chơn lý là cái khối tròn vô biên, đời đời, xoay quanh nó, luôn luôn tự nhìn nó, tự sống với nó, tự học hỏi nó, tự lo tìm thấy biết nó đời đời, để đời đời không bao giờ nó tự đánh mất nó.
    Vì vậy, Thượng Đế phải học về Thượng Đế đời đời, học bằng cách phân thân Tiểu Hồn đi xuống thế. Có đứa cho rằng đi mãi, hết sức nhọc nhằn mới về đến nơi, đến được ngôi Thượng Đế, để rồi lại ra đi nữa chán thật! Không chán đâu con! Thượng Đế đi hoài mà vẫn ở tại chỗ đó thôi! Đi mà như không đi con! Và rồi, nhờ Cha chịu làm việc luôn luôn nên Cha hưởng lạc thú luôn luôn!
    Trong càn khôn này không ai làm việc bằng Cha, việc gì Cha cũng làm. Cha làm việc đến mức độ mà Cha như không làm gì cả, nghỉ ngơi sung sướng luôn luôn! Vì Cha cực động nên thành cực tịnh đó con! Những trạng thái này con phải là Cha để chứng nghiệm được mới hiểu, nghe Cha nói con không hiểu nổi đâu! Cho nên, khi con về đến ngôi Thượng Đế, ở vị trí của Thượng Đế, con lại thèm muốn, lại thấy cái nhu cầu khẩn thiết học hỏi tiến hóa và con lại phân thân ra làm Tiểu Linh Quang để đi học!
    Việc đi học nhất định không thể không có! Vì đấy là bản năng phấn đấu sinh tồn của chơn lý, và cũng là ý nghĩa, là hạnh phúc, là lạc thú vô biên, trang điểm cho sự sống hằng hữu đời đời của chơn lý vậy.

    62. VẤN: Thưa Cha, con chưa hiểu tước vị Đức Kim Thân, xin Cha giải thích.

    ĐÁP: Đức Kim Thân là tước vị Cha đã ban khi Cha chứng quả cho vị này! Chữ Kim Thân Cha dùng ở đây là Huệ Mạng Kim Cang, là một xác thể được tinh luyện để không còn hư hoại nữa, nên vị này còn có tước hiệu là Đức Huệ Mạng Kim Cang. Xác của vị này hiện tại còn thuộc thể hồng trần vì Cha còn cần nó trần, khi nào Cha thấy không cần nữa, Cha sẽ dùng quyền năng để tinh luyện nó thành bất hoại.
    Đây là một hiện tượng khó tin nhưng hoàn toàn có thật ở thế kỷ 20 này, mà trần gian sẽ có dịp chứng kiến về sau. Quyết định chọn xác vị này là Kim Thân Cha là một quyết định quan trọng bất ngờ của Thượng Đế trước hiện tượng dị thường của vị này!
    Cha không thể nói rõ sự kiện, nhưng có thể diễn đạt sơ lược một chút cho con hiểu qua, ấy là vì khi được Cha tiếp điển mượn xác, phần hồn vị này bất ngờ chứng ngộ đạo Vô Thượng, với tới chơn lý trong những trường hợp hết sức kỳ lạ và hy hữu, khiến Thượng Đế phải kinh ngạc thích thú và quyết định bất ngờ chứng quả cho vị này, ban ân phước cho xác vị này được trở thành Kim Thân Bất Hoại về sau, và giao sứ mạng vị này thay Cha mặt hữu vi dưới cõi trần, để tận độ dẫn dắt dân tiến vào Kỷ Nguyên Thánh Đức. Khi Cha xuất hiện làm việc, Cha sẽ phải chuyển cho trần gian dần dần biết được hiện tượng dị thường hy hữu này!
    Cho nên rồi đây, các con sẽ có dịp biết Cha qua Đức Kim Thân với một hình ảnh đặc thù của Ngọc Hoàng Thượng Đế ở trần gian vào cuối thế kỷ 20! Cha sẽ sống như một người trần gian, Cha sẽ khoác áo trần không khoác áo đạo, điều này để dạy các con phá bỏ hình tướng, trực tiến vào cái tâm. Các con tu áo, tu hình thức, tu bề ngoài nhiều rồi! Tu tâm chưa được mấy ai!
    Cho nên lần này Cha xuất hiện, dạy các con phá mê phá chấp, Cha sẽ dụng một hình thức bên ngoài, hoàn toàn như người trần, có một nếp sống thật trần nhưng thoát trần! Qua Đức Kim Thân, Cha muốn đến với trần gian bằng một sắc thái mới lạ, vừa trần thật trần, vừa siêu thật siêu, có cung cách vừa trược vừa thanh một lượt, để thể hiện những đường nét dị biệt trong chơn lý, hầu mở trí cho nhân loại hiểu thêm Thượng Đế vào hậu bán thế kỷ 20 này, trước khi diễn ra cơ tận diệt của thế giới.

    63. VẤN: Thưa Cha, mấy hôm nay, chúng con được tin Cha sắp đi quy ẩn, chúng con đã tìm mọi cách vào được đây để tiễn Cha và được nghe những lời giảng dạy quý báu của Cha, nhờ có cơ hội Cha sắp đi, nên chúng con mới có dịp len vô đây để diện kiến Cha. Xin Cha cho biết, tại sao Cha đã giáng thế làm chi để rồi lại đi quy ẩn?

    ĐÁP: Cha giáng thế trước ngày giờ nhờ chọn được xác lành đẹp ý Cha, nhưng Cha phải vào Cơ Quy Ẩn vì chưa đến lúc làm việc! Màn này là màn khối trược làm việc theo Thiên Cơ. Lẽ ra Cha ẩn dạng khi xuống thế cho đến khi ra mặt thật sự và không con nào được biết Cha. Nhưng sở dĩ phái Vô Vi được duyên phước biết Cha là nhờ Tám Lương Sĩ Hằng có cơ hội bất ngờ ngộ Cha dưới thế. Cũng vì duyên phước này, nên từ trước đến nay, Cha cũng hé chút cửa để ban ơn cho các con đó thôi! Giờ đã đến lúc ánh sang phải che đi để bóng đêm chuyển động tràn lan, cho nên Cha phải lui vào Cơ Quy Ẩn thật sự, để khối trược lộng hành khảo đảo theo luật tiến hóa.
    Rồi con xem, sau khi Cha ra đi, các con sẽ bị khảo đảo, nhồi quả, con nào cũng bị trược khảo tùy theo nghiệp lực của nó. Nếu nó không trụ được điển, để tâm phóng ra ngoại giới thì ắt phải hỗn loạn đảo điên. Con nào khôn ngoan, biết giữ điển, lo siêng năng công phu, giữ miệng ít nói, dành tâm trì niệm Phật hoặc niệm danh Cha luôn luôn, sẽ giải bớt khổ nạn hoặc tránh những chuyện rắc rối kéo tới khảo đảo. Còn ngược lại, nếu không lo kiểm soát điển, nói chuyện nhiều, phát ngôn quá nhiều, thế nào cũng bị ô nhiễm nhiều trược, rồi sanh biến tâm, loạn động, kéo chuyện rắc rối khổ nạn đến khảo đảo mình thôi! Tầng trược khí càng lúc càng dày, vài ngày nữa con xem, sau khi Cha đi, các con sẽ bị trược khảo mọi mặt cả đạo lẫn đời, để rồi có hiện tượng huynh đệ chia rẽ, đố kỵ, tỵ hiềm, xa lánh nói xấu nhau, lập ra phe này phái nọ, dụm năm dụm ba bàn tán nói toàn chuyện hướng hạ để quến trược tới khảo.
    Rồi cũng có hiện tượng tung tin thất thiệt, loan đồn dựng đứng nhiều tin tức sai sự thật về Cha để thóa mạ Cha. Dẫu rằng Cha sẽ lui vào im ẩn, sẽ không còn nhắn gởi, tuyên bố bất cứ chuyện gì bên ngoài, nhưng rồi vẫn có kẻ sẽ dựng tin Cha tuyên bố thế này, Cha hành động thế kia, hoặc bịa đặt nhiều điều về Cha, để gây bàn tán xôn xao trong dư luận, gây chán nản mất niềm tin, gieo hoang mang quần chúng, tạo sự hỗn loạn cho cơ đạo. Điều ấy chắc chắn phải xảy ra không tránh được khi khối trược hoành hành thao túng trong những ngày tới.
    Cũng như giờ này có những con đến đây đảnh lễ Cha, nghe Cha giảng dạy và biết kính trọng Cha, nhưng rồi vài ngày nữa, sau khi Cha đi, trong số những con có mặt đây cũng có đứa sẽ loạn tâm để chưởi Cha, nói xấu Cha, thóa mạ Cha, lăng nhục Cha đủ mọi mặt vì lý do này lý do khác. Chuyện ấy chắc chắn phải đến!
    Đây là màn mà Thượng Đế phải bị hạ bệ, để ma quỷ lên ngôi. Đây là lúc mà Cha phải gánh khổ nhục và vác Thánh Giá dưới trần qua Đức Kim Thân, lãnh bớt trược khổ trần gian để vớt thêm nguyên căn nặng nghiệp trong cơ chết chóc! Cha sẽ chịu đựng hết, vì đây là hạnh nguyện của Cha, và cũng vì Cha muốn chuyển cho Đức Kim Thân học gánh vác như Cha, cho tròn hạnh nguyện với quả vị của Ngài! Nhưng Cha chỉ e và thương cho các con nào không biết giữ mình, không trụ được điển để loạn tâm, sanh làm bậy nói bậy, tự hại mình và hại người, tạo quả báo để chịu khảo đảo khiến phải vấp ngã rồi chậm trễ con đường về đó thôi! Chuyện gì phải đến ắt đến, nhưng Cha vẫn nói trước để con nào nghe và biết giữ mình, được thì phước cho nó, thì nó đỡ khổ! Chứ rồi nhan hồi Cha phải chịu đựng thì không sao tránh khỏi! Sau này, khi Thượng Đế tái xuất hiện để thật sự làm việc, Ngài sẽ đáp lại xứng đáng mọi thắc mắc, mọi điều phê phán, mọi thóa mạ lăng nhục Ngài, qua Kim Thân Ngài bằng những sự kiện thực tế trước con người và lịch sử. Rồi tất cả các con sẽ hiểu thôi!
    Suốt mấy hôm nay, nghe tin Cha đi quy ẩn, hằng vài trăm con mỗi ngày lũ lượt từ các nơi tìm đến đây bằng mọi cách len vào hội ngộ Cha vài giây phút ngắn ngủi trước buổi Cha ra đi. Giai đoạn vừa qua, Cha đã xuất hiện trong chúng con như một lóe sáng khoảnh khắc trong bóng đêm dày đặc để ban rải cho chúng con chút ân phúc của Thượng Đế. Những mong rằng, trong thoáng chốc mong manh ấy, Cha đã mở thêm những chân trời mới lạ để các con dấn thân học hỏi, tìm kiếm, hầu cuối cùng đạt đến cái biết vô cùng của chơn lý Vô Biên!
    Giai đoạn vừa qua, Cha cũng có ý đem trình độ Siêu Thượng Thừa đến khai lối tiến cho các con, để các con có thêm những ý niệm mới về chơn lý, về Thượng Đế, để được hiểu hơn một chút về định luật tiến hóa không ngừng của vũ trụ, hầu khai thông một số vấn đề vĩ đại mà đa số nhân loại vì vô minh nên đi vào bế tắc, không nhận diện được những ý nghĩa của kiếp người, để rồi lên án sự phi lý, sự trống rỗng của nó.
    Hiểu hơn một chút để có ý niệm sáng tỏ hơn về cuộc hành hương vĩ đại của con, để hiểu con chính thực là ai? Từ đâu tới đây? Tới đây làm gì? Và rồi phải trở về đâu? Nhờ vậy con sẽ ý thức rõ hơn về sứ mạng thiêng liêng đi học để tiến hóa mà con đang đeo đuổi một cách vô thức qua những kiếp sống trầm luân dị biệt, trên cuộc hành trình đăng đẳng của con! Và cũng nhờ vậy, con sẽ biết nhận diện hơn, những bản chất tham, sân, si, dục v.v... bất khả diệt của con, được thể hiện qua những màu sắc, những khuynh hướng khác nhau, từ ác đến thiện, từ trược đến thanh, để rồi ngày đêm biết lo phấn đấu không ngừng, thăng hoa nó đi lên, đừng cho nó giậm chân mãi ở chỗ nặng nề trọng trược khiến con đắm chìm ngụp lặn mãi trong vô minh không tiến lên được, để phải có lúc bị đào thải bởi bánh xe tiến hóa mà thôi!
    Tuy nhiên, những gì Cha có dịp nói với chúng con cũng chỉ là diễn đạt Siêu Thượng Thừa theo cách thức mà trình độ hiểu biết của các con có thể với tới được! Và rồi, ngôn ngữ thì bé hẹp, trình độ hiểu của các con có giới hạn, mà chơn lý thì mênh mông vô biên. Không thể có việc trong một thời gian giới hạn, dùng một ngôn ngữ hẹp hòi giới hạn, để nói với một trình độ hiểu biết giới hạn về cái vô giới hạn của chơn lý Vô Cùng! Cho nên, những gì Cha nói cũng chưa là chơn lý, cũng chỉ là những nét vụng về thô thiển cho một số khía cạnh của chơn lý, vì chơn lý vốn không thể diễn đạt, không thể nghị bàn!
    Cha chỉ tạm phác họa một số đường nét lớn trong chơn lý để hướng dẫn các con tiến bước. Nhưng rồi, con nên nhớ, những đường nét Cha vẽ ra đó, tự nó cũng chỉ là cái bóng ảo ảnh! Con phải dấn thân, chứng nghiệm nó con mới hiểu! Vì các con đều biết, không thể có việc nhìn kinh thành Paris trên bản đồ để thật biết Paris! Cho nên con phải dấn thân nếm nó, sống với nó, chứng nghiệm nó, con mới thật biết nó mà thôi!
    Này các con, mấy hôm nay, trước khi Cha chia tay, Cha có dịp gợi cho sáng lên trong chúng con ánh lửa thiêng mà mỗi con đều có sẵn. Vậy các con hãy siêng năng nuôi dưỡng để càng lúc nó càng được sáng hơn, bằng Tam Công Tứ Lượng. Cận ngày rồi con ơi. Đừng bê trễ, đừng để ánh lửa thiêng kia phải yếu ớt lụn tàn dần, rồi đi không kịp nghe con!
    Thôi Cha ban ơn cho tất cả các con!
    *
    **
    ***
    (Hết phần 1)
    Last edited by dienthoai; 08-05-2011 at 12:13 PM.

  12. #12

    Mặc định

    Phần 2
    NHỮNG BÀI THUYẾT GIẢNG ĐƯỢC SẮP THEO THỨ TỰ THỜI GIAN
    TỪ NĂM 1977 ĐẾN NĂM 1991


    ẤN BẢN NẦY CÓ BỔ SUNG THÊM LỜI NHẮN NHỦ NĂM 2005

    Thượng Đế Giảng Chơn Lý

    Huấn Từ của KIM THÂN CHA về “Tình Yêu Của CHA” sau buổi Hội Ngộ Đầu Tiên với Thầy LƯƠNG SĨ HẰNG Xuân Đinh Tỵ (3/1977)

    Các con yêu dấu!
    Hôm nay Cha đến với các con trong tình yêu thương thắm thiết, và điều Cha muốn nói với các con hôm nay là tình yêu của Cha, mà Cha sẽ chỉ có thể diễn tả lên phần nào bằng cái ngôn ngữ hẹp hòi và hết sức hạn chế của trần gian. Thật vậy, không một lời nói nào, một thứ ngôn ngữ nào, có thể nói lên được hết, diễn tả được trọn vẹn tình yêu của Cha.
    Các con ơi! Cha là tình yêu, tình yêu là Cha.
    Tình yêu của Cha tuôn thao bất tuyệt, chảy ngập tràn lai láng trong càn khôn vũ trụ, trong muôn loài vạn vật, trong khắp cùng mọi ngõ ngách của cuộc đời. Tình yêu của Cha thể hiện trong nghịch cảnh, luân lưu tuôn chảy trong từng hơi thở của vũ trụ, trong mọi tế bào, đang luân lưu, đang rung động trong cái sinh hồn của trần gian.
    Có thể nói tình yêu của Cha thể hiện vô cùng, vô biên, mà chỉ riêng các con đã ngộ được chơn lý, các con mới nhận ra sự hiện diện tình yêu của Cha ở mọi nơi, mọi lúc.
    Các con ơi! Cha yêu các con vô bờ! Tình yêu của Cha hiện diện cả trong sự thiện lành, cả trong ác trược, cả trong tiếng khóc, cả trong nụ cười của trần gian. Tình yêu của Cha nằm trong luật luân hồi, luật nhân quả, luật tiến hóa của vạn vật muôn loài.
    Vì yêu, nên Cha cho các con học hỏi và tiến hóa. Vì yêu, Cha cho các con học làm kim thạch, học làm thảo mộc, học làm cầm thú, rồi học làm người, theo chu trình tiến hóa tự nhiên. Vì yêu, nên Cha cho các con học mê trần, học ác trược, học làm điều ác trược theo sự phát triển của hạ trí, theo sự phát triển của Phàm Ngã để rồi các con bị đọa sa, rồi bị ngụp lặn trong biển mê tạo bao nghiệp quả để phải bị trả quả, bị nhồi quả, để luân hồi chuyển kiếp!
    Qua bao thăng trầm với những bài học thấp thỏi, giúp các con phát triển Phàm Ngã. Qua bao đổi thay, nếm đủ vị chua cay, mặn đắng, ngọt bùi trong chu trình tiến hóa của cái ta phàm phu. Khi đã thấm thía mùi vị của đau khổ, thấm thía cái hư ảo của kiếp người, thấm thía cái giả tạm của cái gọi là hạnh phúc ở trần gian, các con sẽ bước sang một giai đoạn mới, bước vào một cuộc hành trình để tìm về giải thoát. Trong cuộc hành trình này, các con sẽ gặp sự tranh chấp giữa tiếng gọi của Phàm Ngã và tiếng gọi của Chân Ngã. Như vậy, các con sẽ có dịp học bài học về ý chí, về nghị lực, về lòng can đảm, về sự nhẫn nhục, về lòng yêu thương, về hạnh sáng suốt.

    Nói tóm lại, là học ba chữ Bi, Trí, Dũng; nghĩa là các con sẽ học Bi tức là học yêu thương, học Trí tức là học trau dồi sự sáng suốt, học phân biệt lẽ thiện ác, và học Dũng tức là học rèn luyện ý chí. Muốn giải thoát, các con phải thấm nhuần, phải thuộc làu ba chữ Bi, Trí, Dũng, mà sự tranh chấp giữa ác trược và sự thiện lành sẽ giúp đỡ các con có cơ hội học ba chữ đó, và giúp các con phát triển.
    Tại sao sự tranh chấp giữa ác trược và sự thiện lành lại giúp các con tiến bộ? Tại sao sự xung đột giữa Phàm Ngã và Chân Ngã, giữa cái ta thật và cái ta phàm phu lại giúp các con tiến hóa?
    Thế nào là tiếng nói của Chân Ngã?
    Thế nào là tiếng nói của Phàm Ngã?
    Các con ơi! Tiếng nói của Phàm Ngã là tiếng nói của Lục Căn, Lục Trần, tiếng nói của ác trược. Tiếng nói thúc giục các con hành động trái lương tâm. Thúc giục các con tranh chấp, hận thù, ganh tỵ, tham lam, ích kỷ. Thúc giục các con chỉ muốn lợi cho mình, sướng cho mình, dù có phải gây đau khổ cho người. Giục các con lười biếng, chán nản, bê trễ, buông xuôi.
    Tiếng nói của Chân Ngã là gì? Tiếng nói của Chân Ngã là tiếng nói kêu gọi các con quay về sự thiện lành, kêu gọi các con sống theo lương tâm.
    Thúc giục các con yêu thương, tha thứ, hy sinh, vì người hơn vì mình, làm điều gì gây niềm vui hạnh phúc cho người. Giục các con siêng năng, tinh tấn phấn đấu, vươn lên trong nghịch cảnh.
    Đấy là tiếng nói của Chân Ngã!

    Sự tranh chấp giữa Phàm Ngã và Chân Ngã thật hết sức quyết liệt. Con người ở giai đoạn đầu của sự phát triển Chân Ngã sẽ rất dễ dàng bị khống chế bởi Phàm Ngã, rất dễ nghe theo lời Lục Căn, Lục Trần để làm bao điều ác trược, bao điều trái lương tâm. Tiếng gọi của Chân Ngã ở giai đoạn này sẽ vang lên một cách yếu ớt. Do đó, con người sẽ phấn đấu hết sức yếu ớt với tội lỗi, với ác trược, và vì vậy nên Phàm Ngã thắng, Chân Ngã phải thua, và con người dễ dàng sa ngã vào tội lỗi, ác trược! Sa vào ác trược là tạo nhân không lành. Nhân không lành thì trái không ngọt. Trái không ngọt thì gặp đắng! Gặp trái đắng, nếm vị đắng! Nếm vị đắng tức là nếm mùi đau khổ, và cứ như vậy, cứ làm tội lỗi, cứ tạo tội lỗi, tạo nghiệp chướng, rồi bị nhồi quả, bị đau khổ, ngụp lặn trong đau khổ cho đến khi con người phát sợ đau khổ, không dám làm điều gì để tạo nên nghiệp dữ rồi nếm mùi đau khổ nữa! Thì chừng ấy, chỉ chừng ấy, con người mới chịu, mới bắt đầu lắng nghe nhiều hơn tiếng nói của Chân Ngã, phát hùng tâm, dùng ý chí để vượt lên dần dần sự thấp hèn tội lỗi, để giải thoát khỏi sự thấp hèn tội lỗi và can đảm xuất khỏi nghiệp dữ để tiến bước vào nghiệp lành.
    Cứ như vậy, các con sẽ tiếp tục tiến lên theo đà phát triển của Chân Ngã cho tới khi sự phát triển này hoàn tất, chừng ấy là các con được hoàn toàn giải thoát, giải thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn chuyển kiếp, luân hồi. Ấy là lúc mà Tiểu Linh Hồn đã thực sự trưởng thành, đủ sức để vượt qua khỏi ngục tù của bản thể để hòa vào cái Đại Hồn của vũ trụ. Tiểu Ngã hòa với Đại Ngã. Tiểu Linh Quang hòa với Đại Khối Linh Quang!
    Các con ơi! Mỗi các con đều phải có dịp nếm qua sự tranh chấp của Chân Ngã và Phàm Ngã. Khi sự tranh chấp càng mãnh liệt thì các con sẽ càng có dịp học được bao nhiêu kinh nghiệm quý báu. Chân Ngã có dịp học chế ngự sự tác loạn của Phàm Ngã bằng hùng tâm dũng chí!
    Phàm Ngã sẽ rên rỉ nhức nhối để chống chọi lại với ý chí của Chân Ngã khi nó cảm thấy bị thua thiệt.
    Tại sao lại có sự rên rỉ nhức nhối chống đối này? Vì các con ơi! Chân Ngã thì đòi các con vì người, yêu người, đòi các con quên cái ta phàm phu đi, quên mình đi; nghĩa là bắt các con nhẫn nhục, hy sinh, chịu đựng. Chịu đựng, hy sinh thì cảm thấy bị thiệt thòi, cảm thấy mất mát, cái ta phàm phu nó sẽ rống lên, nó thấy nó bị thua thiệt, nó thấy nó bị Chân Ngã kềm chế nó, nó bứt phá và nó gây cho các con nhức nhối, đau khổ! Đó là những lúc các con nghe mình xót xa đau khổ khi phải hy sinh, khi phải chịu thua thiệt cái Phàm Ngã của mình, khi phải sống cho người hơn cho mình.
    Các con ơi! Lúc ấy các con nghe đau khổ xót xa. Nhưng cái đau khổ này là gì? Cái xót xa này là gì? Các con ơi! Đấy là sự chống đối của Phàm Ngã khi nó thấy bị bại trận và bị khống chế bởi ý chí của Chân Ngã! Loại đau khổ này nếu các con hiểu nó các con sẽ thấy nó không là đau khổ thật. Thứ đau khổ này nó lại rất giúp ích cho các con. Thứ đau khổ này là mầm mống của sự thăng hoa tư tưởng. Mầm mống của sự thăng hoa, sự vượt thoát của đời sống tâm linh! Đó là chất xúc tác đóng góp vào để rèn luyện hùng tâm dũng chí!
    Các con ơi! Sự đau khổ này, sự đau khổ từ những hy sinh mất mát của Phàm Ngã chính là mầm mống của tự do và hạnh phúc thật sự!
    Các con yêu dấu! Cha vừa lược thuật với các con vài khái niệm tổng quát, vài nét hết sức tổng quát về luật tiến hóa của vũ trụ. Tình yêu của Cha hiện diện trong đó. Qua bao thăng trầm, qua bao đau khổ đắng cay, học hỏi bao kinh nghiệm quý báu, ngày đoàn viên hội ngộ giữa Cha và các con, tức là giữa Tiểu Hồn và Đại Hồn của vũ trụ sẽ cảm động, sẽ đẹp đẽ, sẽ vinh quang và hạnh phúc biết bao nhiêu!
    Các con yêu của Cha! Cha chiết Linh Hồn của Cha ra thành những Tiểu Hồn, phân ly với chúng, cho chúng đi học hỏi. Cha cho chúng đi hay Cha cho các con đi học hỏi nhưng chính là Cha học hỏi. Cho nên, Cha có mọi trạng thái mà trần gian đang có. Các con cay đắng, đau khổ, vui cười, là Cha cay đắng, đau khổ, vui cười, y như vậy! Hồn vía của Cha rung động theo những rung động cảm xúc của cõi trần!
    Các con ơi! Các Tiểu Hồn ơi! Trần gian sầu tủi là Cha sụt sùi nhỏ lệ. Các con ngụp lặn trong đau khổ để nhồi quả, để đọa sa, giãy giụa trong suối bi kịch của trần gian, nhưng chính là những Tiểu Hồn của Cha hay đúng hơn nữa chính là Cha đang trải qua những trạng thái đó!
    Các con yêu dấu ơi! Yêu các con biết nói sao vừa. Đứa chưa thoát được màn u minh của Phàm Ngã đang dấy động, chưa ngộ được tình yêu của Cha, nó sẽ chống báng Cha với bao lý luận khắt khe, với bao lý luận chẳng hạn như:
    Cha bảo Cha yêu con sao còn có trừng phạt? Sao còn nhồi quả? Sao còn bắt con người đau khổ ngụp lặn trong bể nước mắt với những thảm kịch đầy dẫy hận thù xâu xé, giết chóc, đầy dẫy sự bạo tàn, đầy dẫy những uất ức bất công?
    Cha ở đâu? Thượng Đế ở đâu? Tại sao để cho chiến tranh cứ gào thét đe dọa khắp nơi, mà trong khi thân phận con người lại quá nhỏ nhoi, quá lẻ loi, quá bơ vơ lạc lõng?
    Thân phận con người luôn bị kềm kẹp, bị đe dọa từng phút từng giây bởi bao bất trắc của cuộc đời! Thượng Đế đâu sao không nhìn thấy cảnh trần gian đang ngập tràn máu lệ?
    Lực lượng ma vương đang thao túng trần đời!
    Thượng Đế ở đâu?
    Cha ở đâu?
    Có Cha hay không?
    Có tình yêu của Thượng Đế hay không?

    Các con ơi! Cha đây! Cha đang ở đây! Cha đang ở trong các con. Cha đang ở giữa tim các con. Cha đang ở trong lòng vũ trụ. Cha đang bàng bạc khắp nơi trong không gian, trong thời gian, trong muôn loài vạn vật!
    Các con ơi! Cha đang ở đây và Cha sẽ trả lời với các con rằng, Cha sẽ trả lời cho những đứa không hiểu Cha, cho những đứa trách móc Cha, để nó hiểu rằng vì Cha yêu con nên mới có trừng phạt. Trừng phạt là bắt Tiểu Hồn của Cha gánh lấy trách nhiệm của mọi hậu quả về những sái quấy của nó. Trừng phạt con nhưng chính là trừng phạt Cha! Các con cảm thấy bị trừng phạt thì Cha cũng cảm thấy Cha đang bị trừng phạt. Cha cho các con đau khổ, vì các con phải đau khổ để thấm nhuần ý nghĩa của đau khổ, phải ngụp lặn trong hận thù, xâu xé, giết chóc để biết sợ hãi chán ngán hận thù, xâu xé, giết chóc, và phát tâm yêu thương! Thảm kịch của chiến tranh là gì? Thảm kịch của chiến tranh từ đâu? Có phải chăng nó nẩy mầm từ những tư tưởng xấu xa của con người, của chính các con? Có phải chăng nó nẩy mầm từ những tham vọng vô bờ, từ lòng kiêu ngạo, từ lòng ganh tỵ, từ lòng ích kỷ nhỏ nhen của các con? Những tư tưởng xấu xa ấy có phải chăng là những nhân thối đã cấu tạo thành cái quả ung độc là chiến tranh giết chóc lẫn nhau? Và rồi các con ơi! Máu phải đổ, lệ phải rơi! Phải đổ, phải rơi cho đến khi con người sợ hãi chán ngán cảnh đó, để buông vũ khí, để rồi giã từ xâu xé nhau, để nhìn nhau, để thấy yêu thương, để thấy sợ hãi giết chóc và để cùng nắm tay, để cùng bắt tay nhau sống chung huynh đệ!
    Các con bảo rằng bạo lực đang tràn lan, đang thao túng trần đời, đang gieo bao uất ức bất công ư? Các con ơi! Có phải chăng nó cũng là cái quả trưởng thành từ những mầm mống hư hoại trong tâm các con? Nhưng có như vậy mới có dịp cho các con học hỏi; có như vậy mới có dịp cho các Tiểu Hồn của Cha học hỏi tiến hóa, nó cũng cần thiết. Vì sao? Vì phải có bị uất ức, phải có chịu bất công con người mới khao khát đi tìm sự công bằng, con người mới khao khát tìm về chơn lý!

    Các con thương yêu! Suối tình của Cha tuôn bất tận. Biết nghĩ sao cho hết, biết nói sao cho vừa, chỉ khi các con đi đến chỗ vô vi mới thấu hiểu được tình yêu của Cha, mới cảm nhận được sự hiện diện của nó chan hòa, tiềm ẩn bàng bạc khắp nơi trong càn khôn vũ trụ.
    Cho nên, Cha mỏi mòn trông chờ giây phút các con đến được chỗ vô vi. Cha mỏi mòn trông cái giây phút đầy xúc cảm thiêng liêng đẹp đẽ huyền diệu đó. Cái giây phút mà các con thấu hiểu được tình yêu của Cha. Cái giây phút mà các Tiểu Hồn của Cha đạp đổ cái vỏ thấp hèn của nó để hòa tan trong Đại Thể, để cùng so dây nâng phím đàn hòa nhạc khúc Vô Vi cùng Đại Ngã!
    Các con ơi! Các con có nghe gì không? Các con hãy lắng nghe đi! Các con hãy lắng nghe tim Cha đang thổn thức nhớ nhung!
    Các con có nghe gì không? Âm ba của Đại Hồn đang rung lên, đang rung lên thắm thiết trong vũ trụ, đang vang lên réo gọi thiết tha nhắc nhở Tiểu Hồn nhớ nhung nguồn cội xa xưa.

    Trở về đi! Về quê xưa chốn cũ!
    Hỡi các Tiểu Hồn yêu dấu của Ta!...
    Tiểu Hồn ơi! Tiểu Hồn ơi!
    Kìa, hãy lắng nghe đàn Đại Hồn đang tấu khúc Vô Vi!
    Tiểu Hồn ơi! Hãy so dây hòa điệu!

    Thôi, trọn yêu dấu về các con của Cha!
    Cha dừng ở đây nhưng tình yêu của Cha thì vẫn còn tuôn chảy mãi!...

    Ngọc Hoàng Thượng Đế Vô Cực Đại Thiên Tôn
    **********
    Last edited by dienthoai; 12-05-2011 at 12:09 PM.

  13. #13

    Mặc định

    Trích Buổi Đàn Cơ 26/6 Mậu Ngọ (1978)
    Có KIM THÂN CHA Chứng Đàn Lần Đầu Tiên tại Khổng Thánh Miếu

    Đức Thổ Địa Nam Phương:

    Bái mạng Thổ minh Độ thế Trần
    Huyền Khung Ngọc Đế chuyển Long Vân
    Quy tam hiệp nhứt vâng thiên ý
    Thỉnh nguyện an dày chiếu sắc ân

    Thổ Địa Nam Phương lai lâm chào mừng chư huynh đệ thiên mạng, thành tâm nghinh lịnh tiếp Đức Bạch Hạc giáng ngự đưa Thầy lai lâm.

    BẠCH trầm hương tỏa mùi bay
    HẠC nâng cánh ngọc đưa rày hoàng gia
    ĐỒNG tâm nghinh tiếp chương tòa
    TỬ thừa thiên mạng loan xa kề gần
    Kìa kìa thiên điển tới gần
    Phụ Hoàng ân tứ cõi trần thế thiên

    􀁗 THI 􀁘
    (Điển CHA qua xác đồng tử)

    PHƯỚC cả HUYỀN quang NGỌC ánh lòa
    ĐỨC lành KHUNG ngọc HOÀNG truyền ra
    TIÊN nhân THƯỢNG trí THƯỢNG dìu trẻ
    ÔNG đạo ĐẾ mầu ĐẾ chói xa
    KIM nhựt Trời thương bao kẻ thế
    VIẾT rành Ngọc vị chốn Thiên tòa
    CAO nhân tắc hữu cao nhân trị
    ĐÀI rộng rước người tránh bể sa

    Thầy lai lâm chào mừng các con. Bình.

    (Khoán thủ: PHƯỚC ĐỨC TIÊN ÔNG KIM VIẾT CAO ĐÀI − HUYỀN KHUNG THƯỢNG ĐẾ − NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ).

    Thầy là Chúa Tể Càn Khôn, ngự tứ đàn tiền, Âu Châu là Đức Chúa Trời đó vậy. Mừng các con rước được Kim Thân của Thầy đến đây để chung bầu bạn, để cho tròn sắc tứ hoàng ân.
    Tam Giáo Tòa đóng ấn chiếu phê.
    Thầy mấy chục niên rồi, Thầy mượn các chi, các phái, các con chẳng làm tròn sứ mạng, chia bảy xẻ ba, đến hôm nay Thầy chọn Kim Thân rất tốt để tiếp vào hiệp Cơ Quy Nhứt. Vậy giữa đây hôm nay, Thầy nhơn danh là: (điển ký đọc danh hiệu) Phước Đức Tiên Ông Kim Viết Cao Đài − Huyền Khung Thượng Đế − Ngọc Hoàng Thượng Đế.

    Còn thêm đây là:

    ĐỨC tốt tài lành chọn sĩ nhu
    CHÚA Cha thương trẻ lại còn ru
    TRỜI Ông xuống THẾ vì con dại
    CỨU cánh quần sanh thoát cảnh tù.

    (Tiếp − Điển ký bình lại − Khoán thủ: ĐỨC CHÚA TRỜI CỨU THẾ).
    CHA mừng các con đó vậy! Hôm nay hỉ hạ lành thay: Chuyển Kim Thân của CHA về để cho các con hội ngộ tay bắt mặt mừng. Các con ơi!
    Mấy chục niên rồi muốn quy nhứt cũng không được, nay CHA tuyển chọn xác lành để nương vào Kim Thân dìu dắt con dại. Vậy giữa đây Thầy thanh minh rằng các chi phái đều của Thầy tạo lập và hôm nay kỳ cùng tuyển chọn Kim Thân để dạy dỗ các con.
    Vì dùng huyền diệu cơ bút điển quang, các con cho rằng mộng mị. Rồi hôm nay đây, Thầy dùng quyền năng tuyển chọn Kim Thân như thế này để cho tròn Cơ Quy Nhứt. Giao cho các con thì các con chẳng làm được, buộc lòng Thầy phải dùng quyền năng siêu quang tối thượng để cho con thấy con mới trọn tin. Vậy thầy xin nhường, kiếu từ để đàn nầy cho Kim Thân của Cha thuyết đạo.

    Giã từ con dại Nho đường
    Thiên Môn mở cửa rất thương con già
    Hôm nay nhứt hiệp Tam gia
    Con tròn Thiên lịnh Thầy mà mới vui.

    Thăng.

    (Kim Thân Cha thuyết giảng)

    Này các con! Lúc này Cha chưa xuất hiện nhưng khi thấy cần, Cha mượn tạm áo trần gian để đến với các con. Các con nên biết, áo đạo nhưng tâm chẳng biết đạo, thật không ích gì, mặc bộ áo đạo thì hành cho đúng. Các con tu áo nhiều rồi, tu tâm chưa được mấy đứa, cho nên lần này Cha sẽ mượn bộ áo trần gian để hóa độ các con.
    Cha sẽ giống như một người trần gian để dẫn dắt các con. Cha sẽ trần mà thoát trần để dạy các con phá mê phá chấp, trực tiến vào cái tâm mà lo trau dồi sửa chữa cho nó luôn sang đẹp. Các con phần đông tu kiểu hình thức, tu bề ngoài không thôi. Các con chỉ lo dọn cái bàn thờ bên ngoài cho thật nghiêm trang mà quên chăm sóc cái bàn thờ bên trong các con. Đã bao lâu rồi các con để nó hương tàn khói lạnh. Các con ơi! Uy nghi bên ngoài, nhưng phải lo dọn bàn thờ bên trong, bàn thờ bên ngoài không xứng bằng bàn thờ bên trong.

    Trong mỗi các con đều có ngọn đèn lư hương, phải lo cho đèn nến sáng choang luôn luôn thì các con mới mong tiến hóa tới chỗ giải thoát, mới mong có ngày phản bổn hồi nguyên.
    Màn này không tu là đại khổ đại nạn. Cha cho biết đại khái như vậy, đứa nào biết lo tu thì đỡ khổ, đứa nào mê đời chắc sẽ bị khảo đảo ghê gớm.
    Màn này tiêu bảy con ơi, còn ba thôi, rán mà lo tu, hành đạo chơn chánh, lo tu niệm, đừng nghĩ trần nhiều, đảo điên với cuộc thế rồi các con phải bị khảo đảo dữ lắm. Màn này đứa nào cái tâm vọng ngoại thì phải khổ vì ngoại cảnh đảo điên, mà tâm vọng đảo điên thì phải chịu đảo điên. Màn này quay vô trong, đi tìm nguồn an lạc nội tâm, tìm ánh sáng của phần hồn, lo cho phần hồn, xót thương cho trong này, quay lại lo hương đăng bên trong này đi! Cha ngự trong này chứ không có ngoài này đâu! Ngự tất cả mọi nơi, nhưng sở dĩ Cha nói không có ngoài này là vì các con không biết trong này là chưa thể biết được ngoài này. Các con hiểu chưa? Lo cho trong này, dọn cho sạch, bàn thờ uy nghi, sáng luôn luôn trong này thì Cha ngự trong này luôn luôn đó con! Rán lo tu, trau dồi hạnh kiểm, mượn cái khổ để tiến hóa, màn này Cha cho nhồi quả để các con thức giác, để biết trần gian là giả tạm, là bể khổ, không thể có hạnh phúc dưới trần này đâu!
    Mượn cái khổ để dạy các con đó thôi! Nếu các con thức giác được chỗ này thì khi bị nhồi, bị khảo, các con sẽ bình tĩnh hơn, có nhiều can đảm nghị lực hơn để chịu đựng. Các con phải hiểu, nghiệp khảo đảo cũng do tội của mình, nợ nần của mình phải trả vậy thôi. Vậy các con rán lo tu. Màn này là màn nhồi quả để chuyển sang giai đoạn khác, cho nên các con ráng vững tin. Trời lúc nào cũng có ở đây, cũng ở bên các con, nếu các con biết Trời, tin có Trời là Trời ở với các con... Luôn luôn sẵn sàng cứu khổ cứu nạn nếu nó biết Trời và chịu lo tu, trau dồi phước đức, hạnh kiểm. Màn này đứa nào tâm không chơn chánh, bị mê trần, nghiệp quả nặng và không đủ phước đức sẽ phải chịu khảo đảo, rồi có khi tiêu luôn. Tiêu bảy nghe con, rán lên!

    Này các con!
    Cha xuống thế để làm gì? Để cứu khổ chúng sanh, để giúp chúng con quy hiệp trở về. Tất cả những phương tiện cứu khổ Cha đều cho xuống thế để làm việc, để độ trần, tông phái, chi phái này, phái nọ, tôn giáo này, tôn giáo nọ, tất cả đều một gốc mà ra. Mượn phương tiện độ trần, màu sắc tông phái khác nhau để làm gì? Để cho các con nương theo đó, đứa nào hợp với màu sắc nào thì nương theo màu sắc đó để tiến hóa trở về. Cha cho nhiều phương tiện, nhiều điều kiện để các con nương dựa mà về. Không tôn giáo nào là chơn lý, tôn giáo nào cũng là phương tiện của chơn lý mà thôi. Các con chấp các phương tiện, coi cái đó là chơn lý là các con sai.

    􀂓 Thằng đạo Phật nói đạo Phật là chơn lý.
    􀂓 Thằng đạo Khổng nói đạo Khổng là chơn lý.
    􀂓 Thằng đạo Lão nói đạo Lão là chơn lý.
    􀂓 Thằng đạo Thiên Chúa nói đạo Thiên Chúa là chơn lý.
    􀂓 Thằng Cao Đài nói Cao Đài là chơn lý.

    Cha nói sai hết con! Tất cả đều không là chơn lý, chỉ là phương tiện để độ nhân, là màu sắc của chơn lý mà thôi, là chiếc thuyền để các con mượn đó mà về.
    Các con vì chấp ngã, vì ganh tỵ, vì tranh đua đạo này đạo kia, đạo người đạo ta, đạo này cao, đạo kia thấp cho nên rốt cuộc rồi chia rẽ, rồi ghét bỏ, rồi hận thù, rồi giết chóc, rồi tranh đoạt đủ thứ hơn thiệt rồi làm sao mà về hả con? Các con có tâm như vậy rồi làm sao mà về?
    Cho nên Cha xuất hiện, để lo cái gì? Lo sự hòa hợp quy về một mối, quy nguyên về một gốc mà thôi, cũng của Cha cho xuống thế. Nho, Thích, Lão hay các chi phái rồi cũng phải quy về một mà thôi. Các con đừng tranh hơn thiệt, đừng nghĩ thấp cao. Nghĩ như vậy thì có chỗ tâm không hòa. Không hòa thì phải loạn động, không hòa thì tán loạn, tán loạn thì rước trược tới. Cái tâm thanh tịnh thì rước cái thanh, cái nhẹ, mà thanh nhẹ thì mới được về chớ con! Các con tán loạn lo ganh đua, đem cái ta vĩ đại án trước mắt, thằng nào cũng thấy mình là giỏi là hay, lo tranh hơn thiệt, thế nọ thế kia rồi thì chia rẽ, rồi thì bất hòa. Vậy mới sanh đủ thứ chuyện khổ. Thế gian hiện tại đang bị nhồi quả, đau khổ đủ thứ, loạn cảnh vì đâu? Là vì tâm con người bất hòa, loạn động. Do vậy mới sanh mọi việc khốn khổ ở trần gian. Các con muốn ngoài này yên mà tâm bên trong động thì làm sao có, con?
    Cảnh ở ngoài yên, vì tâm các con yên, các con yên trước mới tạo cảnh yên sau. Các con không yên, không hòa, không đồng, bảo sao đừng có chiến tranh, giết chóc, loạn lạc? Tâm các con tán loạn, nghĩa là tâm trong này muốn hơn thiệt rồi bảo làm sao đừng có cảnh hơn thiệt loạn động, chiến tranh, loạn lạc ở ngoài xảy ra? Tâm các con còn đầy dẫy ích kỷ, nhỏ nhen, tham vọng thì biểu sao ngoài này đừng có khổ. Vì có tham vọng, ích kỷ, nhỏ nhen từ trong này mới thoát ra tạo cái cảnh ngoài này. Đấy là do nghiệp lực của chúng sanh thôi con!
    Cha cho các con biết, khối trược đang hoành hành, cho nên các con khổ, cho nên trần gian khổ. Khối trược do đâu mà có! Là do hình tư tưởng các con đó thôi! Nghĩ một điều xấu xa, nghĩ một sự kiện không lành, những tư tưởng này thoát ra, góp lại thành khối trược, mà càng nhiều tư tưởng xấu thì khối trược càng lớn, mà càng lớn nó càng hoành hành dữ, mà càng hoành hành dữ thì đương nhiên các con phải khổ đó thôi, tất cả là do nghiệp quả của chúng sanh. Quá nhiều cái xấu tụ lại hoành hành thì tự nhiên phải khổ. Cho nên màn này khối trược hoành hành là do nghiệp quả chúng sanh thôi con. Rồi đứa nào nợ nần bao nhiêu, màn này cho các con có dịp trả. Nghiệp quả bao nhiêu lúc này cho trả để nhẹ bớt, để bước sang một giai đoạn khác có phước hơn. Màn này là màn tẩy rửa đó con. Đứa nào dơ nhiều thì tự nhiên bị khảo vậy thôi. Các con đừng tưởng, nói, tại sao tôi cũng tu mà tôi bị khảo dữ, còn thằng không tu lại thấy nó nhởn nhơ, nó ăn trên ngồi trước.
    Chưa chắc đó con, cái thằng thức giác biết lo tu niệm, thì nhờ chuyện niệm này nó bớt nghiệp ác, tâm nó thay vì nghĩ điều không lành, nó nghĩ niệm Phật, thì ngay giờ phút đó nó bớt vay thêm chút nữa, bớt vay thì sẽ khỏi phải trả, nhưng rồi cái gì nó đã vay nó sẽ phải trả. Con hiểu vậy chưa?
    Cho nên, các con tu mà còn nghiệp thì cũng còn phải khổ. Vì vậy có sự việc thấy thằng tu bị khảo, nhưng nó còn nghiệp thì đương nhiên nó bị khảo vậy thôi. Nó còn nợ bao nhiêu, Trời phải chuyển cho nó trả để nó sạch sẽ nó về. Không thằng nào trở về mà dơ được con! Trở về phải sạch, phải sáng, phải nhẹ, tánh trần gian phải thanh lọc, còn bợn trần thì còn phải tẩy rửa mà thôi. Những đứa thức giác biết tu, nếu nó chịu tu, thức giác mà tu chơn chánh thì nó đỡ vay thêm nghiệp. Nó đỡ vay thì nó sẽ khỏi phải trả, nhưng rồi những cái nó đã vay thì nó phải trả chớ con, cho nó trả để nó nhẹ cái gánh của nó, nợ của nó phải để nó trả, để nó nhẹ, nó về. Cho nên tu là gì? Là vun bồi, là sửa. Tu là sửa, là vun bồi, vun bồi cái tốt và sửa cái xấu. Khi tụi con sửa cái xấu, vun bồi cái tốt thì tụi con được hưởng phước, đỡ phải chịu khổ, vì đỡ phải trả nợ trần, không vay thì đỡ trả. Nhưng rồi những nợ nần mình đã gieo, mình phải lo trả. Cho nên người tu thấy khổ là bỏ tu. Cái đó sai, tại các con chưa hiểu đó thôi. Mình còn tiền duyên, tiền nghiệp, bao lâu mình mắc nợ, ngày giờ mình thức giác không vay thêm nữa thì được cái phước khỏi vay thêm, khỏi phải trả thêm, thì đỡ khổ thêm. Nhưng cái khổ vì mình đã vay thì mình phải trả. Cho nên màn này, bị cảnh khổ khảo rồi nhiều đứa tu cũng rớt, nhiều đứa tu không vững tinh thần cũng vì chịu khảo đảo mà rớt màn này.
    Cha thương các con đó dữ lắm! Vì nó chưa hiểu nên chưa vững, rồi rớt lên rớt xuống, mà thằng nào rớt là Cha khổ với thằng đó, đứa nào rớt là Cha khổ với nó. Vì linh quang Cha phóng ra để xuống thế, xuống thế để làm gì? Không phải xuống trần chỉ để hưởng đâu con! Xuống trần là để học hỏi, để hiểu, để thâu góp kinh nghiệm rồi trở về chớ con. Xuống đây để học rồi trở về, không phải xuống để rồi hưởng trần con ơi! Hưởng trần ở riết đây rồi biết chừng nào về hả con! Thế nên, cho xuống đây để học hỏi, để tiến hóa trở về!
    Vì vậy đời là bể khổ luôn luôn, xuống đây là phải khổ. Và phải khổ mới có dịp học hỏi tiến hóa. Cho nên con đừng mong xuống đây để sướng. Đời là bể khổ trầm luân, ngụp lặn trong này ắt phải khổ. Cái mà con tưởng vinh rồi sẽ có lúc nhục, là mầm mống cái nhục đó thôi!
    Cho nên màn này Cha cho thấy rất rõ. Vinh bao nhiêu thì nhục bấy nhiêu. Ngày nào làm ông, bây giờ làm thằng để khổ đó con! Vậy có phải cái vinh ngày xưa bây giờ làm mầm mống nhục đó không, và trước kia càng cao bây giờ càng khổ. Cha cho thấy rất rõ. Thằng tỷ phú thì phủi tay không. Thằng ông phải xuống làm thằng. Để cho con thấy cảnh đời điên đảo, giả tạm vậy con, không có gì trường tồn, không có gì bền bỉ, vĩnh cửu ở trần gian này. Còn đó rồi mất đó, có đó rồi không đó con ơi! Cha cho con biết, có rồi không, còn rồi mất, đó là định luật bất di bất dịch của càn khôn vũ trụ này thôi. Các con cứ tưởng lầm giả là chơn nên các con khổ, tưởng cảnh trần này là vĩnh cửu, xuống đây củng cố địa vị, tiền bạc, nhà cửa, móc nối đủ thứ nghiệp quanh mình, rồi tưởng cái cảnh ấy là thiệt cho nên ôm nó rồi khổ với nó thôi, rồi quên đường về con ơi!
    Các con ở trên kia đâu phải ở dưới này.
    Xuống đây mượn cái cảnh trần để học hỏi, để trở về. Xuống đây làm vợ, làm chồng, làm anh, làm em, làm cha, làm mẹ, để học đó thôi, học để tiến bộ, để trở về. Cho nên đứa nào làm vợ thì học cái cảnh của mình, thằng làm chồng, con học cảnh của mình, không biết cho nên mải mê cái vai đó, cái tuồng đó, tưởng nó là thật rồi khổ với nó, rồi ôm cái vai trò đó rồi khổ, rồi mê mải miết thôi con.
    Đó, nhà cửa, tiền bạc, địa vị, cảnh sống, tưởng là thật cho nên khổ mãi thôi! Cái bản than của con cũng giả tạm, nếu nó không giả tạm tại sao nó không bền? Nếu nó thiệt thì nó phải còn đó hoài. Tại sao mới trăm năm là thấy quy rồi, là mất cái bản thể này rồi? Cái xác trần các con giỏi lắm trăm năm phải tan rã, lo mà mất rồi, thì cái bản thể này nó cũng giả tạm. Cái bản thể của chính các con đang mang còn không giữ được huống gì nhà cửa tiền bạc của con, làm sao con giữ nó được? Cho nên đứa nào nghĩ giữ nó, ôm nó, rồi khổ với nó thôi, tưởng nó thiệt rồi sợ mất cái này, mất cái kia cái nọ, cho nên rốt cuộc rồi mất hết thôi. Các con phải biết rằng tất cả phải mất, không có gì bền. Nó phải mất theo đúng với định luật. Nó tới rồi phải đi, hội ngộ rồi phải chịu chia ly, tan rồi phải hợp, hợp rồi phải tan. Đó là định luật của càn khôn vũ trụ, bất di bất dịch không thể thoát được.
    Cho nên các con muốn cái gì nó phải còn hoài. Muốn cái nhà của mình nó còn hoài của mình, muốn đồng tiền, vàng bạc này mình giữ được hoài. Cha cho con biết con giữ cái tâm, cái tinh thần như vậy rồi con sẽ phải khổ với nó thôi, vì chắc chắn không thể giữ được! Có vô phải có ra, có tới phải có đi! Có rồi phải mất. Cho nên thằng nào ôm riết nó rồi phải bị nó khảo, rồi khổ với nó, nó sẽ có lúc mất chắc chắn. Vì vậy, hiểu được chỗ này rồi các con thanh thản tâm trí, hiểu được thì không lấy làm khổ, nó có đến thì đến, nó có đi thì đi, không lấy đó làm khổ thì đỡ bị khảo thôi. Mà Cha cho con biết, mất rồi sẽ có, có rồi mất, nhưng mất rồi có, lại có nữa thôi. Sợ mình không có phước thôi con.
    Cha cho rõ, màn này các con lo bòn phước thôi, đừng lo tiền bạc, nhà cửa, mọi thứ danh lợi hão huyền. Những thứ này rồi sẽ không còn đâu con ơi! Màn này sẽ hao đi bảy, còn lại ba thôi. Không phải riêng ở đất nước này, mà rồi sẽ cùng khắp thế giới. Cha cho biết vậy, phải đi qua giai đoạn này mà Cha coi như thử lửa để biết vàng thau hầu khẳng định giá trị của các con, để cho rõ đứa nào là con hiếu, đứa nào là tôi trung, để coi nó trung tới mức nào, nó trung có tới cuộc không, hay nửa chừng nó bỏ, đoạn đường này nó còn trung chớ qua đoạn đường khác khó khăn hơn nó lại bỏ đi. Đó, để khẳng định giá trị vàng thau, coi đứa nào là vàng thiệt, đứa nào vàng mà pha thau, vàng nhiều mà thau ít, rồi đứa nào thau nhiều mà vàng ít hay đứa nào rặt ròng thau không, hả con? Màn này nhờ vậy để khẳng định vàng thau. Cho sự kiện đủ thứ biến động, cho nhồi quả, cho đảo lộn, cho cuộc thế đảo điên, cho mọi sự kiện đều đảo lộn rồi coi tâm con vững tới đâu. Đứa nào vững nhiều thì được điểm nhiều, đứa nào vững ít thì được điểm ít, hoặc nó ngã luôn thì thôi.
    Cha đã dự trù trước rồi, cho hao đi bảy phần. Cha cũng đã dự trù trước những cảnh đảo điên, rồi Cha cũng dự trù trước phải có rớt, chắc chắn rồi con! Cho nên đứa nào mê trần nhiều, trược nhiều, bị đảo điên với trần mà mất hết linh tánh thì màn này tiêu luôn. Cha cho biết vậy. Cho nên, màn này phải có khổ, khổ để mượn cái đó dạy con. Có lên voi phải có xuống chó, có vui phải có khổ, có lúc trị, ắt có lúc loạn, loạn rồi sẽ có lúc trị hả con, hưng rồi cũng có lúc vong, hưng thịnh rồi có lúc suy bại, nhưng suy bại rồi sẽ tới hưng thịnh đó thôi. Cho nên các con hiểu được điều này rồi thì cứ an vững lo tu tiến.
    Màn này đứa nào thiếu tu, đứa nào mất đức tin ở Trời, đứa nào không nhớ Trời Phật trong cơn khổ nạn của nó, nó phải chịu khảo đảo dữ lắm con ơi! Đứa nào còn nhớ tới Trời Phật, biết tu chơn chánh, chắc chắn phải có cứu khổ cứu nạn. Nếu nó nhớ tới Trời Phật luôn luôn, biết lo tu chơn chánh, thì đến việc nạn khổ của nó, Trời Phật sẽ gánh bớt nạn, cho nó bớt khổ. Màn này mượn cái nghiệp của con khảo con là để giúp con tiến lên. Đây là bài học đó con! Không bài học này làm sao tiến hóa để về con?
    Xuống đây là để học thôi con. Các con nghĩ, xuống đây để hưởng thụ, để vui trần, mang tinh thần này thì chắc chắn các con không sao vừa ý được, mà không vừa ý lại thấy khổ vậy thôi. Nếu các con ý thức được xuống đây là học, và dự trù hết mọi cảnh khổ để tu học, để trui rèn thì chắc chắn các con vững tâm hơn.
    Các con phải biết, cục sắt mà không bỏ vô lửa, nhờ thợ rèn lấy búa mà đập, mà dũa, mà mài thì cục sắt đó cũng vô dụng mà thôi! Cho nên muốn cục sắt biến thành dụng cụ hữu dụng cho trần gian thì tự nhiên phải quăng nó vô lửa, đốt cho nó cháy rồi phải nhờ tay thợ rèn, phải luyện, phải trui, phải rèn, phải đập, phải giũa, phải mài, nó mới trở thành cái dao, cái kéo, cái búa, cái kềm, nó mới trở thành một dụng cụ hữu dụng của trần gian. Cho nên muốn các con trở thành hữu dụng, thành những dụng cụ tốt của Cha, trở về xứng đáng hợp nhất với Cha thì tự nhiên phải có trui rèn.
    Học đủ cảnh, đủ bài, nếm đủ vị chua cay, mặn đắng, học mọi trạng thái, góp nhặt mọi kinh nghiệm ở cõi trần để tiến hóa, để trở về với Cha. Tới khi con nhẹ rồi, con mới quay lại, nhớ lại những truông gian khổ trong chu trình tiến hóa qua nhiều kiếp sống, các con mới biết cảm ơn.
    Nhờ nó các con mới tiến, không có nó thì bài đâu con học để tiến hóa trở về? Linh hồn con có đâu cơ hội để tiếp thu những kinh nghiệm phong phú?
    Cho nên, bữa nay Cha ban ơn cho các con được rước Cha đến đây hầu được hưởng hồng ân thanh điển để các con phấn khởi hơn, mà lo tu tiến. Trời Phật lúc nào cũng ở bên con, tại các con mê muội không biết, nên giải đãi rồi bỏ cuộc đó thôi. Các con ráng lo tu, màn này nhờ tu đỡ khổ, đỡ nạn nhiều lắm. Nạn các con mười phần nhờ biết niệm Phật luôn luôn phải có bớt đi tùy theo sự cố gắng của các con. Các con rán lên, đứa nào không biết tu, thật là một thiệt thòi rất lớn cho nó. Con nào không tu, màn này coi chừng con ơi! Khổ tới đó thôi, sắp tới đây, khổ lắm! Cha cho biết đại khổ đấy thôi. Nếu đứa nào giải đãi mê trần, hoặc cứ buồn khổ lo chuyện trần gian, lo sự nghiệp, lo nhà cửa, cứ ở đó rầu buồn, lo sợ bị khổ nạn mà không lo tu còn khổ hơn nữa.
    Lo mà biết lo, lo sáng suốt, đừng lo mê muội, lo mê muội là sao? Cứ lo buồn rầu, sợ cái này, sợ cái kia, sợ cái nọ là lo mê muội. Các con lo theo kiểu rầu buồn, khiến tâm tán loạn, đã chẳng giải quyết được gì mà còn tạo rắc rối để con khổ thêm. Lo mê muội là rầu buồn vậy. Các con phải biết mỗi khi lo rầu thần phải tán, khí phải hao, điển bị mất chắc chắn. Hễ để điển thanh mất thì hút trược tới, mà trược kéo tới coi như mình rước khổ tới. Vì cái khổ là do trược khí hoành hành, cho nên các con màn này tịnh được càng hay để giữ tâm bớt tán loạn. Niệm Phật luôn luôn, để trụ tư tưởng, các con mới giữ được điển thanh và ngăn bớt trược điển xâm nhập. Màn này khối trược hoành hành, con người dễ động loạn vì ngoại cảnh nên rất dễ bị nhiễm trược, thế nên các con phải cố gắng nhiều. Phải gấp rút ăn chay trường để ngăn bớt trược điển xâm nhập và rán cố trụ được tâm ý.
    Có như vậy mới giữ được chút thanh điển nhờ khi khổ nạn...
    Đầu niên, những đứa tới đảnh lễ Cha, chắc có dịp nghe Cha nói rồi, Cha cho biết màn này khổ dữ lắm, ôm nhà khổ với nhà, ôm tiền khổ với tiền, ôm vàng khổ với vàng. Cha cho biết trước rồi, con nào còn luyến tiếc của trần gian phải bị khảo dữ lắm trong niên này. Đừng thèm nhớ tới nó! Cuộc thế đã đảo điên, lo việc tu để cứu khổ nạn đi, cứ buồn rầu chẳng những không thoát được khổ nạn mà còn đem nạn tới thêm. Cha cho biết vậy, cho các con vài lời để ban ơn và bố điển lành đó. Cha giả ơn cho các con!

    Trễ đò con phải đọa sa
    Từ đây đôi ngã con Cha đoạn lìa
    Bảy ức niên mất tánh linh kia
    Thôi, ngàn thu vĩnh biệt Cha đành mất con.


    Các con ơi! Trễ bận này là bảy ức niên mới có cơ hội tiến hóa, rồi mất hết linh tánh, mà mất hết linh tánh thì coi như vĩnh biệt luôn rồi con!

    Thương Cha, thương Mẹ thì lo mà về,
    Cha khổ dữ lắm nghe con!

    Ngọc Hoàng Thượng Đế Vô Cực Đại Thiên Tôn
    *********

  14. #14

    Mặc định

    Trích “Đàn Cơ Đặc Biệt” dành cho phái tu Vô Vi có KIM THÂN CHA Dự Chứng Đàn(1978) tại Khổng Thánh Miếu (Tân Dân Minh Đức Đàn) có sự hiện diện của Kim Thân Cha và ông Tám (Lương Sĩ Hằng).

    (Ghi chú: Ông Tám vừa đến trước Thiên Bàn, Đức Thổ Địa Nam Phương xuống điển qua xác đồng tử Chơn An tiếp nghinh.)

    Bạch Hoàng Phụ, Tam tòa thọ ký
    LƯƠNG SĨ HẰNG Ngài nghĩ đến đây
    Cám ơn chư vị con Thầy
    Nhận nhìn tôn giáo sum vầy một Cha
    Tình nghĩa này đại hòa, đại hỉ
    Thần Nam Phương suy nghĩ tận tường
    Ngọc kia muôn vạn tình thương
    Tam tòa chiếu lịnh, Địa thì lắng nghe
    Thuở sơ khai lập phe lập đảng
    Nay kỳ cùng có bảng Linh Tiêu
    Ngài ơi! Ngọc Đế chắt chiu
    Cộng Đồng thương mến rất nhiều các con


    Ngài :

    Là đại giác vẫn tròn chiếu chỉ
    Xá Lợi tha Ngài nghĩ đến Thầy
    Ngài thương nhân loại từ đây
    Ngọc Kinh Hoàng Phụ là thầy chúng ta
    Bên Âu thì Chúa Cha tá điển
    Cõi miền Nam lưu điển cứu dân
    Đại căn sum hiệp lần lần
    Tân Dân Minh Đức cõi trần hôm nay
    Phụng mạng Thầy để rày hiệp nhứt
    Cám ơn Ngài chịu cực đến đây
    Ấy là ta hạp lòng Trời
    Xin Ngài hỉ xả những lời Địa dưng
    Chư đệ ơi! Địa mừng hỉ hỉ
    Bấy lâu rồi Thầy chỉ, chẳng làm
    Hôm nay đại hội kỳ tam
    Chúng sanh đang lúc không kham phận mình
    Bởi vì cảnh điêu linh cõi thế
    Lòng chúng sanh gởi để nơi đâu
    Chỉ là quỳ bái khẩn cầu
    Trời Cha Hoàng Phụ lo âu nỗi lòng
    Đến hôm nay cộng đồng Tam giáo
    Hội các chi để thảo từ chương
    Tam tòa còn mến còn thương
    Khai cơ dìu dắt mọi đường hôm nay.


    Bạch Ngài, lời của Thần Thổ Địa Nam Phương trình qua nhờ Ngài phê phán.

    Ông Tám:
    Đường lối vạn mối quy nguyên đã quy định từ Đại Định Giới, chúng ta có cơ duyên sum họp trong chu trình tiến hóa phần Hồn mọi giới, xóa bỏ tất cả mọi sự trần tục do mình tạo, cương quyết tiến thẳng về Nguồn Cội.
    Đấng Tạo Hóa, Ngọc Đế, đã lo cho mọi người, vậy mà mọi người không lo tu để trở về với căn bản, lo về bản thể quá nhiều. Hôm nay chúng ta đến chứng kiến thanh điển ở cõi Hư Không hạ giáng và đó là chúng ta thấy cảnh đời của chúng ta không phải ở cõi tạm. Nhưng chúng ta đến đây, xây dựng tiến lên sự căn bản đời đời hào quang bất diệt. Đó là nơi tiến hóa của mọi người.
    Chúng ta có cơ duyên sum họp, được nghe những lời thanh điển của giới vô hình, người đời nói tạm, nhưng trong cái không có cái có, luôn luôn an bài và dắt phần Hồn tiến hóa.
    Chúng ta có cơ hội tụ họp để hiểu và để xóa bỏ tất cả những cái gì cho là dị biệt, đạo này, đạo kia, đạo nọ. Đạo nào cũng trở về, quy nguyên tôn giáo do sự dày công của mình.
    Hãy cố gắng, bề trên dẫn chúng ta đi rất nhanh, bao nhiêu thế kỷ. Ngày hôm nay, là ngày quý báu nhứt để mỗi người có ý thức, chứng kiến được sự việc ở bề trên, không có sự phân biệt. Tất cả đạo giáo ở thế gian đều quy nguyên về Cội Nguồn...

    Đức Nam Phương: Cảm tạ Đại Đức. Xin lỗi Ngài, sơ giao ngộ Ngài đây, tôi là Trần Thế Độ, Thổ Địa Nam Phương đây, phụng mạng Ngọc Đế dạy đàn em nhỏ, từ thanh mi đến bạch phát, mượn làn Thiên điển giáo hóa đàn em, sơ ngộ
    Ngài.

    MỪNG nguyên nhân dày công tu đức
    SĨ phu hòa chịu cực độ đời
    HẰNG đêm Ngài mảng vui chơi
    Về nơi non ngoại kịp thời lãnh ân
    Đấng Huyền Khung bao lần dạy dỗ
    Thương lòng Ngài đến chỗ ưu tiên
    Từ nay, Ngài lãnh mối giềng
    Dắt đàn con dại, điện tiền nhập cung
    Mối đạo trời trung dung tâm Việt
    Thần Nam Phương phải biết đắn đo
    Hạ Ngươn cố gắng chèo đò
    Chung tay hiệp bạn lần dò mà sang
    Sang sông Vị, an nhàn cực lạc
    Tấm lòng thành cỡi hạc quy đề
    Ngài ôi! Ở cõi trần mê
    Liu chiu, lít chít bộn bề thảm thương
    Ngộ tri kỷ tận tường hiệp nhứt
    Tôi cùng Ngài chịu cực vị tha
    Để quy vưng lịnh Tam tòa
    Không chia, chẳng rẽ ấy là hiền nhân


    − Bạch với Ngài,
    Địa rất mừng thấy Ngài dời gót ngọc đến đây, xả kỷ lợi tha, chung hòa với nhân sĩ.
    Mấy chục niên rồi, Đức Ngọc Đế khai đạo, các chi, các phái chia rẽ đạo này đạo nọ. Hôm nay:

    Phận em út cam đành nhẫn nhục
    Tưởng lại rằng thủ túc thành nguyên
    Xác thân ta phải nối liền
    Cậy trang hiền triết dính liền cùng nhau
    Cảm ơn Ngài đã trao lời ngọc
    Kể từ đây gấm vóc điểm tô
    Ngài ơi! Trong cõi hư vô
    Vị ngôi ngăn nắp đồ tô sẵn dành
    Chờ sĩ tử tâm thanh hồi khứ
    Rồi Ngọc Hoàng ân tứ thưởng ban
    Cám ơn quý vị đạo tràng
    Vô Vi hành pháp vẹn toàn. Địa lui.


    (Ghi chú: 15 phút sau Đức Kim Thân Cha tới)

    Đức Thổ Địa Nam Phương xuống điển nghinh tiếp Đức Kim Thân Ngọc Đế.

    􀂓 Cung nghinh Thượng Đế
    Thần thổ Địa Nam Phương cung nghinh
    Đẳng đẳng nam nữ
    Chúa trời giáng thế
    Cứu độ quần sanh
    Chư đệ thiện thành
    Cung nghinh trọn lễ


    Kim Thân Cha phán:
    Cha giả ơn cho tất cả các con! Hôm nay Cha đến đây để chứng đàn, và đây là một đàn cơ mà Cha đặc biệt hồng ân dành cho phái Vô Vi Huyền Bí Học. Từ trước tới nay, nó chưa hiểu Cha về cơ bút. Đây là một dịp cho nó biết them để rồi nó thấy “Vạn Pháp cũng quy nhứt” mà thôi. Thôi bây giờ các con lo sửa soạn hầu đàn.
    Thổ Địa Nam Phương xin kính chào và có bổn phận tiếp nghinh Ngọc Đế.

    HUỲNH đình tụng niệm phải tiêu tai
    QUANG sáng huyền châu độ sĩ tài
    BỒ niệm chơn tâm nghinh tiếp lịnh
    TÁT lai tác phúc ấy tài trai


    􀂓 Huỳnh Quang Bồ Tát lai lâm, chào mừng Kim Thân Ngọc Đế, và chào mừng tất cả các sĩ tài Đại Đức nguyên căn. Nam nữ nghiêm trang, tề chỉnh nghinh tiếp Đức Bạch Hạc giá ngự giờ này. Bồ Tát xin nhường, kiếu lui.

    BẠCH trầm hương tỏa trước đền
    HẠC chầu phụng múa chuyển rền Bạch Cung
    ĐỒNG tâm huynh đệ tương phùng
    TỬ thừa Thiên mạng chung cùng thế thiên
    Kìa xem long giá gần miền
    Tân Dân Minh Đức, chư hiền tiếp nghinh


    CAO minh PHƯỚC cả NGỌC nào mờ
    ĐÀI rộng ĐỨC lành HOÀNG chuyển cơ
    GIÁO hóa TIÊN chờ THƯỢNG trí thức
    CHỦ tiên ÔNG độ ĐẾ huyền thơ
    CHÚA cha, HUYỀN mặc minh, minh đức
    TRỜI mở KHUNG vàng trẻ nối tơ
    CỨU cánh THƯỢNG tri con có hiểu
    THẾ trần ĐẾ khuyến, dạ trông chờ


    􀂓 Thầy lai lâm chào mừng Kim Thân của ta đây.
    Chào các con nam nữ Vô Vi Đại Pháp, chào nam nữ Hiệp Thiên nguyên căn.
    Này các con ơi! Ngày Thầy khai đạo, tá danh Cao Đài Tiên Ông và danh từ mỗi nơi, hôm nay Thầy xưng danh ra đây để các các con biết rằng, Thầy, Chúa Cha công trình cực nhọc dung huyền diệu cơ bút và tá điển Kim Thân, để dìu dắt các con từ thành thị đến thôn quê và hang cùng ngõ hẻm. Vậy các con nên nhớ rằng, mấy chục niên nay rồi, đâu còn chần chờ nữa được. Các con phải tu tâm sửa tánh, quy nhứt tương đồng. Các con nhìn nhận rằng Đạo nào cũng của Thầy ban ra, cho các con tu hành sửa tánh. Các con nghĩ coi, ngoài chợ đời bán buôn nhiều thứ vật dụng cần dùng. Còn đối với Thầy đây, thì muốn cho các con tu để hồi nguyên trở lại, nên Thầy dùng mọi cách để khuyến độ mấy ức linh căn.
    Các con ơi! Nếu nhân loại như các con hôm nay, dầu các con chưa được toàn thiện toàn mỹ, nhưng các con biết Cội Nguồn để trở về “quy nhứt bổn tán vạn thù”. Thầy rất vui mừng, hôm nay nhờ Kim Thân của Thầy, nên các con mới tới đây hội ngộ. Một lần nữa, Thầy ban ơn lành cho các con. Điển ký con! Bình chữ một bài bát cú, Thầy xưng danh, để Thầy cho bài.

    (Ghi chú: Điển ký đọc bài thi xưng danh của Thầy, Thầy lấy mỗi chữ làm đầu của bài thi sau đây. Khoán thủ sẽ ráp lại thành bài thi xưng danh. )

    CAO Đài liên điện tiền Thầy ngự
    MINH chơn tâm ân tứ con hiền
    PHƯỚC lành sẽ được hồi nguyên
    CẢ kêu tôn giáo nối liền cùng nhau
    NGỌC bạch Kinh Thầy mau trở gót
    NÀO có dè còn sót rất nhiều
    MỜ lu phải chịu đìu hiu
    ĐÀI mây con hỡi, Thầy dìu bước sang
    RỘNG cửa Thiền vai mang áo bã
    ĐỨC càng dày Thầy trả phước lành
    LÀNH thay dìu dắt nguyên sanh
    HOÀNG gia ân tứ cam đành lo tu
    CHUYỂN huyền cơ để ru con dại
    CƠ thiên minh ân tải nguyên vì
    GIÁO dân chi đức tiên tri
    HÓA hoằng đại đạo con thì lo tu
    TIÊN còn chờ bao thu cực nhọc
    CHỜ con đây cố học đạo Trời
    THƯỢNG tri con hỡi dưng lời
    TRÍ tri con gắng tu thời nhập cung
    THỨC tỉnh lòng chung cùng khách tục
    CHỦ Nhân Ông đến lúc độ đời
    TIÊN chờ cựu vị con ơi
    ÔNG đây vẫn độ con thời hiểu chưa
    ĐỘ con hiền muối dưa đăng đẳng
    ĐẾ khuyết dìu dặm thẳng non bồng
    HUYỀN cơ con lập kỳ công
    THƠ ngâm khúc vịnh toại lòng nhân sanh
    CHÚA Trời Cha ân lành tế thế
    CHA dìu con còn để vị ngôi
    HUYỀN cơ con trẻ tịnh ngồi
    MẶC dù cõi tục chưa rồi người tu
    MINH chơn tâm thiên thu bất diệt
    MINH chơn hòa con biết chăng à!
    ĐỨC lành ban rải truyền xa
    TRỜI Cha cứu thế ái hà vớt con
    MỞ Long Vân cho tròn từ ái
    KHUNG thước vàng con phải đo đều
    VÀNG thau lẫn lộn không kêu
    TRẺ thơ ghi nhớ những điều Cha khuyên
    NỐI dây liền, điển Thiên tiếp xuống
    TƠ tầm mang, dù muốn dù không
    CỨU con thoát khỏi trần hồng
    CÁNH chim bằng nọ con hằng ngóng xa
    THƯỢNG trí tri ái hà quyết độ
    TRI nguyên căn đến chỗ đại thừa
    CON ơi! Hai buổi muối dưa
    CÓ Thầy dìu dắt để đưa ngôi vàng
    HIỂU chăng con? Khoa tràng đã mở
    THẾ trần này còn ở mà chi
    TRẦN ai khổ cực đó thì
    ĐẾ mầu Thầy dạy cung nghi khứ hồi
    KHUYẾN con thơ tô bồi thượng đẳng
    DẠ kẻ khờ lẳng lặng đứng nghe
    TRÔNG con Thầy kết thuyền bè
    CHỜ cho nguyên vị xuống ghe Thầy chèo
    Chèo qua bến giác rước con về
    Ở cõi trần đời lắm tái tê
    Con hỡi đại căn quy nhứt bổn
    Dìu nhau đến chốn dặm cương đề
    Thầy ban ân lành cho mỗi con.


    􀁗 THI 􀁘

    Kim Thân cứu thế ân còn dài
    Nghĩa nặng sánh bằng hiệp thới lai
    Non ngoại xây tròn lên thượng đẳng
    Vớt người bể tục mới kỳ tài
    Mới kỳ tài hoằng khai đại đạo
    Chuyển huyền cơ quát tháo độ đời
    Mạnh tay chèo, cố gắng mà bơi
    Sang Bến Giác kịp thời quy vị
    Vị mùi chẳng tục đó con ơi!
    Thầy mở trường Tiên chờ trẻ bồi
    Tân sĩ nhập trường quy chánh đạo
    Thi tài lập đức mới cao ngôi
    Mới cao ngôi trả rồi nợ thế
    Thầy thương con biết để nơi nào
    Thương con hiền, Thầy mãi quặn đau
    Thương nhân loại Thầy dồi dào Thiên điển
    Điển quang Thầy viếng các con hiền
    Cõi tục khổ sầu mãi nhuộm riêng
    Tâm tịnh khứ hồi nơi Bạch Ngọc
    Ở chi trần thế phải đau phiền
    Đau phiền con dại, hiểu chăng à?
    Tu học như là kết gấm hoa
    Chớ có dần dà rồi phải trễ
    Sớm kinh chiều kệ đáo ta bà
    Ta bà con ngự
    Ân tứ Linh Tiêu
    Dành để nhiễu điều
    Cho con hồi khứ
    Thầy mà ướm thử
    Nam nữ con thơ
    Thương trẻ đợi chờ
    Bao giờ mới đáo?


    Thầy hỏi, bạch tấu cho Thầy nghe nào?
    Kim Thân Cha phán: LƯƠNG SĨ HẰNG, con đại diện bạch tấu!

    Ông Tám bạch: Đường lối BI, TRÍ, DŨNG Thầy đã dạy, thì gắn liền với tâm tư mà thực hành.
    Mỗi mỗi chúng ta, ai ở thế gian này cũng mong có ngày được trở về Nguồn Cội, hội ngộ với Thầy. Đó là con đường cứu cánh. Nhưng mà tâm tư mỗi người phải cố gắng lên mới được.
    Hôm nay, chúng ta có duyên lành được Thầy giảng dạy từ ly từ tí. Mỗi tâm hồn đều tự thức giác và trong sự sai lầm của mỗi người phải tự cố gắng sửa để đạt đến mục đích. Vô Vi cứu giải lên trên cho thấy có ngày hội ngộ.
    Hôm nay, chúng ta được nhiều hồng ân rất quý báu của Thầy đã giảng dạy. Tâm tư của mỗi người đều ở trong duyên lành cởi mở tùy theo trình độ tiến hóa của từng con người. Trong khối Vô Vi của chúng ta, mỗi người phải cố gắng thực hành đạt đến phần thanh điển. Hôm nay, có cơ duyên tiến hóa lên một lớp nữa cho tất cả mọi người. Hãy cố gắng hướng về những âm thinh giảng dạy của Cha lành. Cố gắng tu để thâu đoạt phần Hồn.
    Kính bái.

    Này các con.

    Nghe qua lời ngọc phân bày
    Sĩ Hằng con hỡi, râu mày triết nhân
    Thầy giao con độ cõi trần
    Đệ huynh tương ái mười phân vẹn mười
    Con ơi! Vườn thượng hoa tươi
    Ta tìm giống tốt cho người ngắm xem
    Lại thêm bình ngọc con đem
    Chưng vào tiếp khách để xem hoa vàng
    Thầy đây là đấng Phụ Hoàng
    Thương con trần thế lại càng thiết tha
    Nghĩ vậy cho nên:
    Lê thân già la cà cõi tục
    Gậy đầu rồng đến lúc độ đời
    Thầy thương nhân loại trần vơi
    Nhiễm trần phải chịu tả tơi thế này!
    Ai có hiểu lòng Thầy đâu tá
    Chỉ có các con kha khá mới hay!


    Rằng các con nào được Thiên điển của Thầy, mới hiểu được lòng Thầy thôi, phải chăng LƯƠNG SĨ HẰNG con?

    Tình Cha như thể non Đoài
    Nghĩa Mẹ sánh tợ biển rày bao la
    Nhắc đến con Thầy mà đổ lệ
    Mãn ngày đêm khóc kể từng hồi
    Mong con trở lại vị ngôi
    Nghĩ tình cốt nhục chưa rồi phận Cha
    Huyết nhục này ai mà chia xẻ
    Chỉ có con những kẻ bất lương
    Con ngoan hiếu tử mọi đường
    Mới hòa trọn vẹn tình thương Cha lành
    Giữa Đài liên tâm thành Thầy chứng
    Các con ơi! Ẩn nhẫn từ từ
    Thầy đây quyền quản cung Hư
    Chế châm con trẻ, lòng từ Ngọc kinh
    Con nào tu, tốt xinh trở lại
    Con không tu còn phải đọa phàm
    Hôm nay Thầy mở kỳ tam
    Cậy bao Tiên Phật để làm Long Vân
    Chiêng đã đổ bao lần vang dội
    Trên Ngọc kinh thúc hối con về
    Ở chi nơi cõi trần mê
    Mà con đắm lụy tứ bề lao lung
    Phận nhân đạo trung dung duy nhất
    Thì các con tạo đức cho thành
    Mặc dù nơi cõi Tam thanh
    Thầy đều ghi sổ sẵn dành chờ con!


    Thầy ban ân lành một lần nữa, và như thế cũng đủ rồi. Vậy các con nam nữ có mặt nơi đây,
    Thầy đã xưng danh Cao Đài Giáo Chủ, Chúa Trời cứu thế, Huyền Khung Thượng Đế cũng là Thầy. Vậy mong rằng các con lo tu, rồi sẽ quy nhứt bổn, đừng chia rẽ, đừng tị hiềm, và hơn nữa đừng chê rằng đạo người thấp mà đạo mình cao. Đạo nào cũng của Thầy ban tất cả. Lòng các con chánh, gặp đạo tà thì cũng chánh cho. Lòng các con tà, đạo chánh cũng thành tà, đó các con!
    Hơn thế nữa, điểm thứ nhứt người tu hành phải hòa đồng, tương thân tương ái, từ bi bác ái, tam công cho đủ đầy, chứ đừng ganh tỵ, đố kỵ, ngạo mạn cống cao, cho rằng mình hơn người, người lại thua mình. Các con phải hòa đồng, lấy lẽ trung dung mà ở đời, dầu các con không thành Tiên tác Phật, nhưng cũng gọi rằng hiền triết sĩ nhân, gương nêu lại cho đời bia vạn sử. Đạo của Thầy có một mà thôi. Chia cũng tại lòng chúng sanh.
    Vậy Thầy ban ơn lành, nhường cho Kim Thân của Thầy tá điển.

    Giã từ nam nữ mỗi con
    Ngòi son Thầy viết vẫn còn tuổi tên
    Thương con Thầy nhớ nào quên
    Dầu cho vạn dặm không quên con hiền

    􀁗 􀂓 􀁘
    Thần Thổ Địa Nam Phương xin lễ bái, chư hiền đồ nghinh tiếp Tam Giáo Tòa lãnh mạng Ngọc Đế phân minh sự hiện diện của Ngọc Đế tại trần gian.

    THÔNG minh NGƯƠN vị THÁI huyền quang
    THIÊN lịnh THỈ triều THƯỢNG đạo tràng
    GIÁO hóa THIÊN nhân ĐẠO đức lý
    CHỦ ông TÔN lịnh TỔ truyền sang.


    Tam Giáo Tòa lai lâm phụng mạng Ngọc Đế, có đôi lời chào mừng đại nguyên căn hữu vị, chào mừng Kim Thân Chúa Trời.
    Lành thay, Tam Giáo Tòa mong đợi có ngày này để thấy rằng các tôn giáo bạn, nhân loại biết hướng về Ngọc Đế.

    Tam Giáo Tòa hỉ lạc thay, Tam Giáo Tòa ban ân, mời những vị Đại Pháp Vô Vi ngước nhìn xem Thiên Điển.
    Lương Nhân, hiền!

    LƯƠNG nhân mặc khách hiệp hòa chung
    SĨ tử đại nguyên quyết chí cùng
    HẰNG buổi khai tràng quy sĩ tử
    Phụng thừa Thiên mạng lịnh Thiên cung


    Này hiền đồ, sổ bộ của Tam Giáo Tòa biên chép tuổi tên kẻ nào biết hòa đồng tu học, trau sửa lòng thành, nét lành cố tạo.
    Ở cõi trần phải nhờ tam công tứ lượng hiệp đồng hữu chất tới vô vi, để chi? Để cho tròn câu từ bi bác ái. Còn Đạo là vô vi, ta phải dày công tu hành, tạo đức, cởi mở thể xác này sao cho được thông quang cửu khiếu, mắt nhìn xa nghìn dặm, tai nghe thông đồng với cửu thiên đẳng đẵng.

    Đời rất hiếm người được đạt đến siêu quang, chỉ nhờ Đại Đạo, nhờ tu học, nhờ sửa lòng trau nết, mới đạt tới vô vi tối thượng mà thôi. Khi xuống trần, bao nhiêu sĩ tử nơi đây chưa chắc là nguyên vị phục hồi, nguyên bổn nghe chăng? Sổ ta cầm, bút ta ghi, đường tơ kẽ tóc không qua lọt!
    Rất buồn thay cho nhân loại, tu lại không tu, còn những tánh ngạo mạn, háo kỳ, có khi đến xem coi giả chơn. Chi vậy a! Chư hiền đồ? Sao mình không trau sửa lòng mình cho đến chí thiện chí mỹ?

    Thầy phải khai Tân Dân Minh Đức, muốn cho nhân loại hòa đồng với vũ trụ, từ thảo mộc đến thú cầm, mấy ngàn niên rồi luân hồi mãi mãi.
    Mới hơn ba năm mà nhân loại điêu đứng. Luật của ta đó, vì ta phải phụng mạng Ngọc Đế cầm luật mà, chớ nào ta có sát phạt chư hiền đồ.
    Thử hỏi chư hiền chẳng phạm luật, dù ta muốn giữ luật cũng không thể thi hành. Nhân loại phạm luật, luật phải trừng trị, sao lại trách cứ ta?
    Đức Ngọc Đế thường yêu cầu Tam Giáo Tòa giảm khinh cho nhân loại nhờ, nhưng mà nhân loại ơi, sao nhân loại không lập đức bồi công, từ bi bác ái, mà chú chăm vào danh lợi hão huyền, lấy giả làm chơn, tạo những điều oan nghiệt mấy ngàn niên nay rồi, bây giờ cầu xin Tam Giáo Tòa rộng lượng chế châm. Ngài nhọc nhằn hạ phàm, dùng đủ cách cứu rỗi con Ngài. Tuy rằng Ngài ký tên để cho ta hành luật nhưng lắm khi Ngài không nỡ cầm bút chuẩn phê là vì Ngài đau long cho luật của ta hành phạt con Ngài.
    Ngọc Đế đối với nhân loại như vậy, vô lượng vô biên, từ bi bác ái tựa biển bao la, sao chư hiền không thấy? Chư hiền tu chư hiền nhờ!
    Tình Ngọc Đế là tình của Cha, vì nhân loại, tư vị nhân loại mới để nhân loại đến hôm nay đây. Phải chi Ngài dùng luật mấy ngàn niên trước, đừng tư vị thì con Ngài đâu có chịu cảnh như hôm nay, đời cùng mạt hạ, cuối tam ngươn rồi, Tam Giáo Tòa không bao giờ tư vị được, nhưng lắm khi vì nể tình Ngọc Đế, chẳng nỡ ra tay!
    Thấy cảnh của Ngài hạ trần còn phải chịu trăm cay ngàn đắng, thế nhân dị nghị đủ điều, giả chơn nào ai biết. Chỉ có Ngài biết Ngài và ta biết đó thôi. Tội nghiệp thay cho Ngọc Đế. Nếu Ngài không thương chư hiền đồ và nhân loại, Ngài đâu có chịu nhục ở trần gian lắm điều chỉ trích.
    Bởi vậy cho nên, đáng tội cho nhân loại. Cha mà không biết, Mẹ cũng không nhìn, nhân loại đành ngó lơ. Hôm nay đây, phạm luật cũng đành
    cam chuốc tội.

    Kim Thân Đức Chúa Trời, Tam Giáo Tòa tôi xin với Ngài rằng:

    Ở trần thế trược nhơ cặn bã
    Bạch cùng Ngài cao cả yên thân
    Sao Ngài cứ mãi xuống trần
    Chúng sanh phỉ báng nhiều lần buồn hiu
    Ngài cứ ngự Linh Tiêu tọa vị
    Xuống trần chi nó chẳng nghĩ đến Ngài
    Tưởng rằng mở Đạo kỳ khai
    Kiếm vàng kiếm bạc để rày độ thân
    Nào ai hiểu bao lần Ngọc Đế
    Thương chúng sanh như thể thương mình
    Thấy trần chịu cảnh điêu linh
    Nên Ngài chẳng nỡ Thiên Đình ngồi an
    Mãi xuống trần thế gian sỉ nhục
    Thần đau buồn lắm lúc bắt sầu
    Nguyện xin nơi cõi Long Lâu
    Bạch cùng Hoàng Phụ những câu kính nhường
    Ngài xuống thế, trần vương nhiều tội
    Nó không tường nhìn lỗi của mình
    Bạch qua Ngài gọi chớ khinh
    Hôm nay sáng mắt Ngọc Kinh đó Ngài


    “Bạch với Ngọc Đế!”
    “Chi đó con?”
    “Tam giáo Tòa khải tấu nãy giờ, (nhờ điển ký bình lại)”
    “Bạch Ngọc Đế, Tam Thanh chúng tôi thường bạch với Ngài rằng:
    Ngài ở cõi Ngọc Kinh thôi, giao phận sự ấy cho Chư Tiên, chư Phật, đừng xuống thế nữa. Chúng sanh làm tội nhiều lắm. Lắm khi Ngài quở trách chúng tôi, cho rằng chúng tôi nghiêm khắc. Hôm nay, cảnh thế như vầy, bạch Ngài, chúng thần đau buồn.”

    Kim Thân Cha phán: Cha biết rằng Cha phải chịu khổ nhục vì các con của Cha, chịu đựng khổ nhục vì sự ngu muội của nó. Nó ngu muội nên nó không biết Cha nó. Nó không thấy Cha nó, hoặc nó chưa biết cái tầm quan trọng của sự hiện diện của Cha nên nó có nhiều sai sót. Và rồi, Cha phải chịu khổ với nó. Cha giận nó không biết Cha nó, nhưng giận bao nhiêu thương bấy nhiêu.
    Càng giận càng thương, xót xa với nó, đau khổ vì nó ngu muội luôn! Cha đau khổ trong chính nó luôn. Cha luôn luôn gánh vác nó. Biết khổ mà Cha sẵn sàng chịu đựng và gánh vác với nó, mong sao nó nhớ Cội Nguồn lo trở về kịp thời, vì ngày giờ đã cận bên, mà nó quanh quẩn ở bể trần ai, còn mải luyến lưu vướng vít ở bến mê, không chịu xuống đò trở về Bến Giác. Vì vậy, nên Cha không ngồi yên tọa vị mà phải lâm trần chịu đựng trăm cay ngàn đắng, để gánh khổ với nhân loại, chỉ mong sao cho nó thức giác để quay về Cội Nguồn xa xưa.
    Cha gánh khổ cùng nhân loại, gánh khổ với nó, khổ nhục vì nó, chịu đủ thứ khổ ở trần vì nó. Cha chỉ mong sao mang đến cho nó chút niềm tin, chút ánh sáng để nó thức giác, để nó lo nó về. Cho nên Cha chịu đựng hết con!
    Tam Giáo Tòa: Này chư môn đệ! Các vị có nghe Đức Chúa Trời phán chăng? Hiền Sĩ Hằng tâu bạch!

    Ông Tám bạch (giọng xúc động): Thưa con có nghe rõ, Thượng Đế xuống đây là có cơ hội, cho mọi sinh linh trở lại. Đó là lòng từ bi của Thượng Đế ban bố cho mọi người. Tuy rằng cho linh căn sáng suốt xuống thế gian, nhưng mà nó chưa thấu đáo Nguồn Cội, tuy rằng có chư Phật chư Tiên giáo hóa nó, nhưng mà vì sự sống, vì vật chất xa hoa, vật chất ỷ lại, nên chẳng để tâm tiến về Nguồn Cội của nó.
    Ngày nay, có dịp Thượng Đế xuất hiện, xuống thế gian10, để người tu hiền ý thức tùy theo trình độ. Nhưng mà còn nhiều linh căn họ tu nhưng
    không hiểu cái chân lý, ưa thích hạng bàng môn tả đạo, bùa phép huyền hoặc, đó là mê loạn, rồi nó trầm luân mãi mãi. Cái chân lý siêu phàm thế gian chưa có, ít lắm!
    Hôm nay, có cơ hội, một số ít người được nghe, và trong tâm tư đó, cũng tùy theo trình độ hiểu biết. Người tu trong đó cũng bán tín bán nghi, nhưng mà rồi nó sẽ thấy có ánh sáng lần lần đưa đến, đấng Tạo Hóa sẽ dìu dắt chúng sanh mỗi nơi, mỗi giới, nhờ bởi sự kích động và phản động của định luật, sanh, trụ, di, diệt của bầu Trời Càn Khôn Vũ Trụ đã sắp đặt có thứ tự.
    Mọi người, lần lượt hiểu được ta có tánh Cha trên Trời.
    Nói đến đây, tôi rất cảm động, rơi lụy, tiếc cho những phần Hồn còn bơ vơ, những phần Hồn đang ngự nơi đây, phải hiểu rõ rằng chúng ta đang sống trong cơn hỗn loạn đau khổ mà được một ánh sáng từ bi vô cực chiếu vào tâm linh của mọi người. Đó là một luồng điển đánh thức mọi chơn linh để hiểu rõ mình và phải chứng minh nguồn đau khổ đó, rồi chúng ta mới tiến lên được.
    Rất quý báu, hôm nay mọi người đến dự, và tất cả đều là thanh điển để hóa giải tâm hồn đang đắm mê nơi cõi trần...

    (10 Ông Tám có nói: “Tôi xác nhận sự kiện Thượng Đế xuống thế (phân thân điển quang) không riêng cho Việt Nam, mà còn cho toàn thể nhân loại được hưởng”. Ông còn nói: “Ngài là Chủ của những nhà truyền pháp”.)

    Tam Giáo Tòa: Lương Sĩ Hằng hiền, rọi điển xem ta. Cha của các người hiền lắm, từ bi lắm đấy! Còn Tam Giáo Tòa tôi không được vậy đâu nghe!
    Xem đây, Tam vị xuống thế một lần, một lượt để thanh minh trong buổi Hạ Ngươn này.
    Từ đây sắp tới, những vị nào chơn tu thì thôi, tu giả mượn đạo tạo đời thì ma quỷ nhập hết.
    Đừng hòng ỷ thị con Ngọc Đế!
    Đại Hội Quần Tiên cho xuống thế mấy chục niên, nếu các người không tu thì chịu lấy, Tam Giáo Tòa chúng tôi không tư vị nữa. Từ đây tới ba niên... bốn niên để các người thi tuyển.

    Chúng tôi đã rồi phận sự khải tấu.
    **********

  15. #15

    Mặc định

    Huấn Từ của KIM THÂN CHA khi tiếp Bạn Đạo Cần Thơ và Trà Vinh (1978)

    Cha ban ơn cho tất cả các con đã không ngại đường xá xa xôi đến đây đảnh lễ Cha.
    Hôm nay, Cha đã có ý bế cửa và đó là nỗi đau xót thật sự của Cha. Vì được con cái quây quần kề cận đông đúc tới lui thật là niềm vui sướng lớn lao cho Cha. Nhưng con ơi! Chưa phải lúc, chưa tiện buổi để gặp con, nên thôi, Cha phải đành gạt lệ mà bế cửa. Các con ơi! Cha đến với trần gian rồi đây! Cha đến bằng phân thân điển quang, mượn xác tứ đại để đến với chúng con hầu chúng con có thể hình dung ra Thượng Đế. Vì Thượng Đế là một cái gì quá lớn lao vĩ đại mà trí phàm các con không sao hình dung nổi. Đã không hình dung nổi thì phải thấy quá xa xôi, thấy khó thương, khó nhớ!
    Thế nên Cha mượn thân tứ đại để xuống đây nhắc nhở các con, để gợi thương gợi nhớ nơi chúng con hình ảnh sầu thương héo hắt của ông Cha thật đang vò võ tháng ngày trông đợi buổi hồi nguyên đoàn tụ của các con. Con ơi! Ông cha dưới trần của các con chỉ là ông cha giả tạm của một kiếp sống phù du đó thôi! Ông Cha này chỉ chăm lo cho các con nhiều lắm là vài chục niên của đời người, cũng không thể quá trăm năm.
    Thế mà, một đứa con có tâm hồn nào cũng phải thấy ân cao nghĩa dày như núi Thái Sơn, như bể bao la, làm chĩu nặng tâm tư kẻ làm con đối với bậc sinh thành dưỡng dục, huống chi là đối với Thượng Đế! Vì Thượng Đế mới là Ông Cha thật các con đó! Con ơi! Nào con có biết, Ông Cha thật của con nhọc nhằn khổ cực dường bao để săn sóc chúng con từng đứa một, từ lúc con tách Đại Hồn xuống thế học hỏi, trải qua kiếp này sang kiếp khác, cho đến ngày con phản bổn quy nguyên.
    Khi con còn ở cõi hữu vi, thì chăm sóc con theo cõi hữu vi, lúc bỏ xác thân sang cõi vô hình thì lại chăm lo cho con ở cõi vô hình, và cứ miệt mài khổ cực như vậy đối với chúng con, cho tới khi các con hoàn tất cuộc hành hương về chốn cũ mới thôi!
    Nhọc nhằn, khổ cực, vất vả dường bao để trưởng dưỡng chúng con mà nào con có rõ? Tình nghĩa của Cha mẹ Trời đối với chúng con thật vô lượng vô biên nhưng rồi được mấy đứa nhớ tới đó con?
    Có giọt lệ nào tuôn chảy qua mi vì nỗi niềm cảm xúc nhớ thương Nguồn Cội không con?
    Than ôi! Những rung động tinh khiết hướng thượng này Cha thấy chẳng bao nhiêu, Cha chỉ thấy toàn là nước mắt khóc than từ những đau khổ của kiếp người, từ sự không vừa ý của cuộc sống ngụp lặn nặng nề ở cõi trần ai. Những giọt lệ phát xuất từ sự thiếu toại chí dục vọng phàm ngã... thì ôi thôi ngập tràn lênh láng, chôn lấp cả mảnh linh hồn các con đắm đuối trong ngu muội vô minh!
    Con ơi! Con có rõ, Đại Hồn Cha cô đơn lạnh lẽo, khao khát biết bao nhiêu những rung động tưởng nhớ của tiểu hồn con! Khao khát mong đợi bao nhiêu sự thức tỉnh để kịp quay về của linh hồn chúng con! Giờ đây, ngươn này là ngươn chót, màn này là màn ba, kiếp này là mạt kiếp, ngày giờ đã cấp bách lắm rồi, vậy mà những tiểu hồn của Cha mãi còn vui say trong giấc cô miên, mãi lo, đấu tranh ngụp lặn trong bể trần ai, mãi còn gieo bao nghiệp lực và để nghiệp lực cuốn trôi đi biền biệt, càng lúc càng xa nguồn cội, mà chẳng chịu giựt mình chợt tỉnh lo cho số phận linh hồn con để quay về kịp lúc.
    Con ơi! Cha kêu gọi ngày đêm, bằng khuyên nhủ, bằng quở rầy, bằng răn phạt, bằng tha thiết van lơn con mau kịp xuống đò về quê xưa chốn cũ. Âm thinh thổn thức cùng những giọt lệ thảm sầu nức nở của Đại Hồn vẫn chẳng làm rung động tim con...
    Thôi thì hết cách rồi nghe con! Trống Long Hoa giục giã chuông Bạch Ngọc đã khua vang.
    Thuyền Bát Nhã rước linh căn đang từ từ tách bến. Con nào cứ để mình cuốn trôi vào đường trần vạn nẻo, mãi cứ thờ ơ với con đường quy thống mà chẳng chịu xuống đò vượt Bĩ Ngạn hồi nguyên thì chớ khá trách Cha nghe con, linh hồn con rồi bị cô đọng, vùi lấp đắm chìm qua bảy ức niên thăm thẳm, mất hết linh tánh thì thôi, Đại Hồn Cha cũng đành gạt lệ tống biệt linh hồn con vào một cuộc chia ly vĩnh cửu nghe con!
    Thôi thì nhắc nhở linh hồn chúng con chút tưởng nhớ tới Cha, các con về rán lo tu tiến. Cha vừa khơi dậy trong chúng con ánh lửa thiêng mà mỗi con đều có sẵn. Cha đã khơi cho sáng lên thì chúng con phải giữ cho nó sáng mãi đừng để nó lụn tàn theo năm tháng nghe con!

    Cha giã từ các con và ban ơn cho tất cả.
    ***************

    Huấn Từ của KIM THÂN CHA dịp Bạn Đạo Cần Thơ và Trà Vinh Chào Từ Biệt (1978)

    Trước khi các con lên đường, Cha thấy cần có vài lời nhắn nhủ với các con trong cơ cấp bách này.
    Các con ơi! Trần gian đang trải qua cơn đại khổ do khối trược sát phạt nhơn loại. Trược khí ngất trời đang bủa vây các con và cõi hồng trần đang ngập tràn trong bóng tối hỗn loạn. Vì định luật vận hành của vũ trụ, đến lúc mà Cha không thể ban rải nhiều ánh sáng để cho bóng đêm có cơ hội tràn lan. Do đó mà các con phải tự lo thắp đèn tâm cho sáng và lo tu gấp rút để tự rọi đường cho mình vượt qua những chặng đầy gian khổ thử thách do bóng tối hoành hành. Lo làm mình sáng rồi còn phải lo cho người sáng.
    Độ ta rồi độ tha. Đây là lúc mỗi con phải ý thức vai trò làm “chiến sĩ” cho Thượng Đế để cứu khổ chúng sanh. Các con đều là những sĩ tử đang mang ý nguyện tu học để thoát vòng tứ khổ thì, hỡi các con, đang khi cảnh khổ diễn bày, kẻ gọi rằng người tu phải mở rộng lòng từ, dẹp đi vị kỷ, phát tâm cứu độ chúng sanh trong cơn điêu linh thống khổ để gieo nhơn lành, lập công bồi đức, vừa trả bớt nợ trần, giải bớt gai gốc nghiệp chướng trên đường hành hương của mình, vừa vun bồi thêm đức độ để làm hành trang tiến bước. Dân rồi đây sẽ phải chết chóc nhiều vì chịu ảnh hưởng nghiệp sát. Rồi những cảnh đói không cơm ăn, đau không thuốc uống, cảnh binh đao chết chóc hỗn loạn đảo điên sẽ diễn bày để khảo đảo trần gian trong cơn cộng nghiệp. Trong cơn khổ nạn này, các con phải làm gì? Đây là cẩm nang cấp cứu mà các con phải rán thực hành bằng mọi giá để vượt qua cơn thử thách sắp đến:

    􀂓 THỨ I: Phải cấp bách ăn chay trường để giải bớt nghiệp sát vì cơ chết chóc sẽ rất lớn.
    Con ơi! Đừng sát sinh hại vật thêm nữa, lo mà lập hạnh phóng sanh bằng cách ăn chay để tạo chút phước đức sanh tồn. Vả chăng, màn này trược khí dẫy đầy, các con đều vốn dĩ bị nhiễm trược vì những loạn cảnh bên ngoài thì rồi phải lo tống bớt trược đi chớ đừng rước trược vào thêm bằng cách đem trược điển của thú vật vào bản thể.
    Cha cho rõ, màn nầy độc khí trong cá thịt, trong các thức ăn động vật rất nhiều, nếu các con đem chúng vào bản thể thì rồi có lúc các con sẽ bị khảo đảo rất dữ vì trược khí, vì độc khí, vì nghiệp sát. Vậy các con nào chưa ăn chay thì phải gấp rút lo ăn, con nào ăn rồi thì phải rán giữ hạnh trường chay. Cha cũng hiểu có những con chưa quen cách ăn thanh đạm nên thấy khó ăn, nhưng con ơi, đây không còn là lúc mà các con giữ tinh thần chấp nê ngon dở. Cảnh đại khổ đang và sắp diễn bày. Đây thực không phải lúc để ăn cho thích khẩu, mà các con phải lo ăn để sống qua ngày. Hãy tập cơ thể quen với những nhu cầu đạm bạc, đơn giản để nó đỡ khảo đảo và đòi hỏi chúng con trong cơn đói khổ. Giảm bớt nhu cầu cũng là một cách làm cho mình bớt khổ đó thôi.

    􀂓 THỨ II: Phải nhớ trụ điển lại tức là trụ tâm, trụ ý hay là trụ tư tưởng của con cũng vậy. Thường thì tư tưởng các con rất dễ bị phân tán vì những loạn động ngoại cảnh. Bên ngoài hỗn loạn đảo điên khiến chúng con rất dễ bị xao xuyến, hoang mang, buồn rầu, lo âu, phiền não, cho nên Cha khuyên các con một cách để trụ tư tưởng lại hầu nó đỡ tán loạn. Đó là cách trì mật niệm danh hiệu Cha, tức: “Nam Mô Ngọc Hoàng Thượng Đế Vô Cực Đại Thiên Tôn”, chưa quen niệm danh Cha thì niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, hoặc “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát” cũng được. Các con phải nhớ suốt ngày đêm trì niệm trong tâm, tưởng trên đầu để tư tưởng nhờ trụ vào câu niệm mà đỡ tán loạn vì những động cảnh bên ngoài. Màn này con nào ổn định được nội tâm trụ được tư tưởng thì sẽ giữ được điển, nhờ giữ được điển mà đỡ bị nhiễm trược, do đó tự hóa giải bớt nhiều khổ nạn do khối trược kéo tới khảo đảo.

    􀂓 THỨ III: Ngoài ra con nào biết thiền định thì phải siêng thiền hơn. Có thì giờ rảnh nhớ hành Pháp Luân Thường Chuyển (Pháp thở bụng) càng nhiều càng tốt trong ngày để giải bớt trược điển ô nhiễm. Màn này trược khí rất dày nên các con thiền gặp khó khăn hơn trước. Vậy nên không thể giữ đà như trước mà phải cố gắng bội phần mới giữ được điển và giải bớt trược cho bản thể các con.
    Cha vừa khuyên các con nhiều điều cần thiết và cấp bách để cấp cứu các con trong cơn khổ nạn này. Những điều nêu trên để chúng con thực hành không ngoài mục đích giúp chúng con bớt trược. Ăn chay trường cũng để bớt trược, trì mật niệm để trụ điển, nhờ đó mà các con cũng đỡ nhiễm trược, siêng hành thiền để các con trụ tâm, do vậy cũng để đỡ nhiễm trược đó thôi. Con có đỡ trược thì con mới đỡ khổ, vì con nào trược nhiều chừng nào phải khổ nhiều chừng ấy!
    Trần gian sở dĩ đang điêu linh thống khổ vì quá nhiều trược khí do những sái quấy của con người tạo ra, và khối trược ngất trời này đang hoành hành để sát phạt lại theo đúng nghiệp lực của nhơn loại. Cho nên biết giữ cho mình ít trược tức là tự giữ cho mình ít khổ đó thôi. Nếu chúng con thực hành được rốt ráo những gì Cha khuyên nhủ trên đây (ít nhứt điều I và điều thứ II) ắt chúng con mới hy vọng vượt qua cơn thử thách lớn này.

    Thôi Cha ban ơn cho tất cả các con, nhớ ghi trong lòng những gì Cha nhắn nhủ.
    Cha giã từ tất cả các con.
    Ngọc Hoàng Thượng Đế Vô Cực Đại Thiên Tôn
    ******************

    Huấn Từ của KIM THÂN CHA
    tại Tư Thất Bà T. T. N. (1978)


    Cha giả ơn tất cả các con.
    Cha phải lâm trần chịu trăm cay ngàn đắng để thức giác chúng sanh quay về Nguồn Cội.
    Nó từ đâu tới? Từ Nguồn Cội nó ra đi, rồi phải có ngày trở lại. Nhưng nó mê trần, nhiễm trần, trải qua biết bao nhiêu niên kỷ, biết bao kiếp sống trong chu trình tiến hóa của nó, rồi ô nhiễm, quên Nguồn Cội, rồi tạo nghiệp lực, để nghiệp lực lôi cuốn trong bể trầm luân. Cha kêu gọi biết bao nhiêu. Âm ba của Đại Hồn réo gọi các Tiểu Hồn quy nguyên, nhưng các con của Cha mải miết theo tiếng gọi trần gian, không nghe tiếng gọi của Cha, mải mê, không chịu xuống đò sang Bến Giác. Cha xót xa nên không đành ngồi yên tọa vị, phải lâm phàm để kêu gọi các con. Vì âm thanh thiên điển nó vẫn chưa chịu nghe, nên Cha đành phải mượn thân tứ đại để kêu gọi các con. Vì nó thấy Cha quá xa xôi với nó, ý niệm về Cha quá vô cùng tận, quá vĩ đại, nên nó không hình dung ra Cha nó, để nhớ Cha nó. Siêu điển vô vi vẫn chưa đủ để nhắc nhở nó, Cha đành mượn hữu vi để kêu gọi nó về. Cha đã dùng biết bao nhiêu phương tiện để dẫn dắt nó.
    Đến ngày nay, Ngươn Mạt Kiếp mà đứa mê còn quá nhiều, đứa tỉnh quá ít. Lần này không về kịp thì phải chờ bảy ức niên sau mới có cơ hội tiến hóa, cho nên, Cha phải lâm phàm để vớt nó, kêu gọi con trở về với Cha thật của nó.
    Trần gian dâu bể đổi thay, nhưng nhìn những dâu bể đổi thay này, nó vẫn chưa thức giác. Khi làm ông tướng, khi làm thằng tù, khi làm ông tỉ phú, lúc làm thằng khốn khổ, tay không. Trần gian đó! Giả tạm đó! Mà con của Cha vẫn chưa thức giác. Cái hạnh phúc trần gian mà các con tha thiết bám víu, đó chỉ là mầm mống của đau khổ, là giả tạm thôi con! Cái vinh bao nhiêu là nhục bấy nhiêu! Vinh của ông tướng là nhục của thằng tù. Vinh của ông tỉ phú là nhục của thằng khổ, thằng tay không, hôm nay. Tất cả những thứ đó để dạy cho nó thức giác, để thấy trần gian là giả tạm, để tu để trở về.
    Nhưng có mấy đứa thức giác?
    Nó vẫn còn sợ vàng nó mất, nhà nó mất, của nó mất mà không lo tu. Cha bảo lo tu, bòn phước đức, đừng bòn vàng, bòn cái gì người ta không lấy được, nó không nghe chỉ lo bòn những thứ mà người ta lấy được, thì có lúc vẫn phải phủi tay.
    Tất cả hạnh phúc trần gian đều là mầm mống đau khổ!
    Phải tìm về hạnh phúc thật, tức là siêu nhiên, để vượt thoát cái bể trầm luân mà chúng sanh đang ngụp lặn.
    Trước đây, các con mải mê cầu danh, cầu lợi. Kêu xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo, mấy đứa nghe? Nó không đủ hùng tâm để làm việc đó, nên màn này Cha xả dùm nó. Nó nói mắc bận làm ăn, bận lo việc nọ việc kia, không có giờ tu, nên màn này, Cha cho mọi việc đều bế tắc.
    Muốn cầu danh cũng không được, cầu lợi cũng không được, để nó lo cầu đạo.
    Màn này đứa nào nhìn thấy cảnh cồn dâu hóa bể mà thức giác lo tu, là linh tánh nó còn.
    Đứa nào nhìn cảnh này mà ủ rũ rầu buồn, chỉ biết ngồi sợ mất của, chỉ biết lo tiếc của, còn oán trách Trời Đất mà chưa chịu thức giác lo tu, để giải bớt nghiệp chướng, giải bớt khổ nạn là linh tánh đứa đó đã mờ!
    Rồi đây, của cải hao hớt, dân nghèo đi, là dịp để dân thức giác lo tu tiến. Nó đã có dịp thấy ôm vàng khổ với vàng, ôm nhà khổ với nhà, ôm tiền khổ với tiền, vậy mà vẫn chưa bừng tỉnh. Nếu nó còn mê, lo mất của, thì sẽ có lúc thấy chính sinh mạng của nó cũng không giữ được, chứ đừng nói của cải của nó!
    Thật vậy, rồi đây cơ chết chóc sẽ rất lớn, để các con thấy thân mạng của chính mình còn giữ chưa được, đừng nói của cải thế gian!
    Giờ đây, biết bao nhiêu người đang đói khổ lầm than, đang chịu cảnh lụt lội, đói khổ, không nơi nương tựa vì thiên tai địa ách, vì loạn lạc, chiến tranh. Điều này, Cha đã nói trước một, hai niên nay, Cha đã kêu gọi các con chớ bám víu, chớ thiết tha của cải vật chất thế gian, phải gấp rút lo tu để giải bớt khổ nạn.
    Thử hỏi trong cơn nước lửa, lúc đối diện với nguy cơ sống chết, các con chắc gì giữ được nhà cửa, của cải nữa không? Tới lúc nào đó, thân mình còn chưa cứu được, đừng nói của cải của mình!
    Cha đã bảo hãy lo tu, ăn chay trường, giải bớt nghiệp sát để bớt khổ! Cơ chết chóc nhiều là vì nghiệp sát sẽ khảo đảo rất lớn. Vậy các con rán ăn chay trường để giải bớt nạn. Màn này các con chỉ trốn trong phước đức mà thôi. Trốn đâu không khỏi đối đầu thiên cơ! Cả thế giới rồi đây cũng sẽ bị nhồi nghiệp. Tìm ghe, tìm tàu trốn đi nơi khác, làm gì con? Vì nghiệp bao nhiêu phải trả bấy nhiêu. Nghiệp chết đói vẫn chết đói, nghiệp chết vì bịnh vẫn chết vì bịnh!
    Nếu đi mà khỏi, thì đâu có những thằng chết vì bịnh, vì đói trên tàu! Đi đâu cũng vậy thôi! Ở đây mà biết tu, thì vẫn sống được, mặc dù chịu khảo đảo vì nghiệp của nó, Trời không bỏ những đứa nào biết tu. Phải tẩy rửa để nghiệp nhẹ bớt. Vì tẩy rửa, nên đương nhiên phải có khổ. Rồi đây không riêng Việt Nam, mà thế giới phải trải qua cơ chịu khảo đảo, chịu nhồi quả, sẽ khổ ghê gớm, chết chóc rất nhiều! Việt Nam rồi đến thế giới! Việt Nam là đất Phật, là Thánh Địa khai hội Long Hoa, là vùng đất tối linh của hoàn cầu. Cha tiếc cho những con nào bỏ Việt Nam ra đi tìm đất mới. Đại phúc đức mới là dân Việt Nam. Nếu biết là Phúc, không biết là Nghiệp. Ở đây, có cơ hội để giải bớt nghiệp chướng.
    Con nên biết màn này là cơ hội để các con tẩy rửa cho được thanh sạch hơn. Cơ khảo đảo này để quét cho sạch rác rưới. Rồi bất cứ ở đâu trên thế giới cũng sẽ chịu tẩy rửa theo đúng thiên cơ để sang một chu kỳ mới!
    Phải lo gấp rút tu tiến! Giải đãi, bê trễ, ù lì, không kịp nữa đâu! Thay vì lo tu, ngồi đó rầu buồn không giải quyết gì đâu. Mỗi lần bị khối trược sát phạt, phải dùng điển thanh để hóa giải, điển thanh của các con vì vậy phải được giữ gìn và vun bồi nhờ sự phấn đấu lo tu tiến, giữ trai giới, giữ sự thanh tịnh nội tâm trong cơn loạn động. Đấy mới giúp các con giải quyết một cách sáng suốt mọi bài toán khó trong cơ khổ hiện tại. Rầu buồn hoặc tìm cách lánh khổ, sợ khổ, kiếm ghe tàu trốn đi, không giải quyết được gì! Cha e rằng đi dễ, nhưng tới lúc về không tiện được nữa rồi! Đứa nào thức giác, không cần trốn đi đâu, chỉ cần trốn trong phước đức của mình thôi!
    Rồi đây chết chóc khắp nơi, không phải chỉ chết ngoài sa trường mà hậu phương cũng chết, ở đâu cũng chết. Cơ này phải nhờ phước đức!
    Con nào rán vun trồng phước đức thì qua cơn! Rồi thế giới cũng phải vậy, mà còn khổ hơn Việt Nam nữa! Việt Nam chịu nhồi quả trước, rồi tới thế giới. Không chỗ nào khỏi! Đừng tưởng qua đó rồi hưởng! Nghiệp nặng thì ở đâu cũng khổ!
    Phải thức giác lo tu, ăn chay trường, niệm Phật ngày đêm, tạo thanh điển và giữ thanh điển! Việc này hữu ích, cần thiết và cấp cứu đó!
    Càng khổ càng niệm Phật! Các con rán nhớ lời Cha dạy và lo tu.

    Cha ban ơn cho tất cả các con...
    ************************

  16. #16

    Mặc định

    KIM THÂN CHA Giảng về chữ “LỄ” (1978)

    Cha thấy trong chúng con, có nhiều con chưa biết lễ đã đòi bỏ lễ, chưa hiểu lễ đã vội chê nghi lễ là chấp nê, là hình tướng. Song nó chưa hiểu rằng, muốn phá lễ phải thuộc lễ trước đã! Nhiều con Cha thấy, đến Khổng Thánh Miếu, nhìn cung cách lễ bái rồi chê bai “là còn trình độ thấp, là còn hình tướng, còn chấp, tụi này tu vô vi cao hơn, không cần bày đặt lễ bái v.v...” Các con ơi, các con nên coi chừng, đừng ngộ nhận tinh thần vô vi với bản tánh cống cao ngã mạn. Các con đã hiểu thế nào là tinh thần vô vi chưa?

    Tinh thần Vô Vi là tinh thần “Hòa”, phải hòa hết con! Tới lớn hòa lớn, tới nhỏ hòa nhỏ, tới đâu hòa đó, phải Hòa với tất cả và học nơi tất cả. Đến chỗ nghi lễ mình cũng hòa vào nghi lễ mà trong lòng không nghe phiền bực. Còn phiền bực thì chính mình đang chấp ngã, đấy cũng là một thứ tỵ hiềm chấp ngã đó thôi! Các con đừng tưởng trên các cõi vô vi không còn có nghi lễ và phá bỏ hết nghi lễ.
    Trên ấy, nghi lễ gấp vạn lần dưới này. Phật mà không thuộc lễ thì đâu về tới Niết Bàn. Trên ấy, Tiên, Thánh, Phật đều tự động giữ nghi lễ thật nghiêm minh. Có điều, nghi lễ này thể hiện một cách thành thực tự nhiên vì sự kính trọng và yêu thương lẫn nhau phát lộ ra hình sắc điển quang trong cung cách tiếp xúc với nhau mà không màu mè, gượng ép, hình tướng bề ngoài như ở cõi hồng trần. Ở đây, Cha cũng muốn nhắn nhủ thêm với những con còn quan niệm “Lễ” một cách hẹp hòi, chỉ thấy chữ lễ qua cung cách lễ bái, qua hình sắc áo mão trang nghiêm, qua cung cách cư xử bề ngoài.
    Chỉ nghĩ “Lễ” bề ngoài là chưa biết “Lễ”. Những con này lại quá câu nệ vào hữu vi sắc tướng bên ngoài mà chưa hiểu “Lễ” cốt từ trong thể hiện ra ngoài mới thật “Lễ”. Cung cách phải từ “vô vi” thể hiện ra “hữu vi“. Cung kính phải từ trong tâm tỏ lộ ra ngoài, chớ không cốt chú trọng màu mè, hình tướng bề ngoài đâu con, cái đó mới có giá trị.
    Vậy, không phải học cung cách, hình thức “Lễ nghi” theo bề ngoài là đủ, lễ như vậy là chưa biết lễ nghe con! Vả chăng chữ “Lễ” các con đừng khinh thường nó. Muốn giữ đạo làm người, tức nhơn đạo, các con phải dùng “Lễ“ làm đầu. Một xã hội mà con người biết kính trọng lẫn nhau thì xã hội này phải tốt đẹp thăng hoa. Một đất nước mà con người biết kính trọng lẫn nhau thì đất nước phải được văn minh cường thịnh.
    Một thế giới mà con người biết kính trọng lẫn nhau thì thế giới này phải được thái bình an lạc, không còn đau khổ giết chóc, chiến tranh tàn hại lẫn nhau đến chỗ ngập tràn máu lệ. Thế giới này là một thứ Niết Bàn tại thế, là một thế giới đại đồng được xây dựng bằng sự tôn trọng nhân bản thật sự giữa nhân loại. Con người tôn trọng nhân bản bằng học thuyết, bằng lý luận, bằng ngôn từ đã quá nhiều mà chưa thực thi được bao nhiêu! Đấy là nguyên nhân của mọi thảm kịch bi đát đang diễn ra trên thế giới.
    Con ơi, tôn trọng nhân bản là chữ “Lễ” của Nhơn Đạo đó con! Và rồi Cha giải sâu thêm nữa đây, các con đừng khinh chữ “Lễ”, vì nguồn gốc sâu xa của chữ “Lễ” Nhơn Đạo chính là long Từ Bi Bác Ái của Thiên Đạo đó con. Con chưa kính được người vì chưa thực sự biết yêu người.
    Con đã thực sự biết yêu thương người thì tự động sẽ biết kính người, tự động không nỡ làm điều gì gây cho người đau khổ. Con biết yêu người, tự động con sẽ thấy phải cư xử tốt đẹp với người trong lời nói, cử chỉ, hành động khi tiếp xúc với tha nhân. Đây phải chăng là cái “Lễ” tự nhiên phát xuất từ lòng yêu thương của các con?
    Cho nên con ơi, phải học “Lễ” nghe con! Đừng khinh thường nó. Vì chữ “Lễ” của Nhơn Đạo mà nhiều con chưa hiểu nên con không thèm chú trọng, vì cho rằng còn thấp, chữ “Lễ” ấy là thể hiện lòng từ bi của Thiên Đạo, là một đức hạnh cần thiết đi vào Thiên Đạo vậy.
    Các con học từ bi là phải học chữ “Lễ” của Nhơn Đạo đó con! Phải học yêu thương kính trọng lẫn nhau. Chưa biết “Lễ”, chưa thuộc chữ “Lễ” thì chưa thể gọi rằng từ bi nghe con!

    Thôi, nhơn dịp đề cập đến cung cách nghi lễ, Cha cũng dạy cho các con về chữ “Lễ” để mở trí mà học hỏi. Nội chữ “Lễ” không, Cha có thể triển khai để giảng giải đến vô cùng tận. Nhưng thôi, Cha tạm giải thích, các con hiểu được bao nhiêu đó mà sống với nó, chứng nghiệm nó cũng đủ để tu cả đời người, cũng đủ để trở về nguồn cội, phản bổn quy nguyên.

    Con ơi, biết “Lễ” thực sự tức là con sẽ đạt BI, đạt được BI tức là đạt TRÍ DŨNG đó thôi!
    Vậy các con khá hiểu.
    *********************

    KIM THÂN CHA Giảng về Cách Phục Sức của Người Tu (1978)

    Người tu có gì mặc nấy, không nhất thiết phải cạo đầu, mặc áo già hoặc trang phục theo kiểu tu sĩ, hay ăn mặc khổ hạnh mới là tu. Trong bộ áo nào tu cũng được, không nên câu nệ chấp nê vào hình tướng, và y phục bên ngoài. Người tu mặc gì cũng được, áo đạo cũng như áo đời, vì bộ áo và sắc tướng bề ngoài chỉ là phương tiện cho con người mượn nó để sống thích nghi dưới cõi hồng trần, hầu học hỏi tiến hóa. Tiện áo đạo thì mặc áo đạo, tiện áo đời thì mặc áo đời. Cha cho rõ, lúc cần mặc áo xấu thì dung áo xấu, lúc tiện mặc áo đẹp thì dùng áo đẹp, khư khư ôm áo xấu mà chấp nê áo đẹp, hoặc khư khư ôm áo đạo mà chấp nê áo đời: ấy cũng là mê chấp hình tướng đó thôi.
    Mặc y phục trần gian đẹp mắt cũng không sai Chơn Lý, vì trong Chơn Lý có: Chân, Thiện Mỹ.
    Ăn mặc thanh lịch, trang nhã, hợp thẩm mỹ, cũng nằm trong Chơn Lý mà thôi. Có điều, lo đẹp bên ngoài phải nhớ chăm sóc cái đẹp bên trong. Nếu chỉ lo ăn diện chăm lo trau sửa sắc tướng bên ngoài, mà thờ ơ phế bỏ việc chăm sóc tâm linh bên trong cho sáng đẹp, cho thanh nhã, thì con người không thể đi đến chỗ văn minh thật sự và không thể tiến hóa lên cao được. Vì con người nếu chỉ mải mê lo phần vật chất hữu vi nặng nề giả tạm, mà quên lo chăm sóc chơn ngã của nó, thì linh hồn sẽ cứ chìm đắm, hoặc chịu trì trệ trong cõi nặng trược, mà không tiến lên được cõi siêu nhẹ.
    Do đó có việc kêu gọi con người không nên thiết tha đến vật chất, không nên se sua, ăn diện, trau sửa bề ngoài, mà phải lo chăm sóc trau sửa phần Hồn bên trong của mình. Nhưng khi con người đã giác ngộ rồi, ắt sẽ phải hiểu rằng phải lo cái đẹp bên trong trước − bên trong đẹp rồi thì tự nhiên thể hiện ra sắc tướng bên ngoài.

    Trong, ngoài, phải cùng đều đẹp: Vô Vi, Hữu Vi một lượt, đấy mới là Chơn Lý.

    ***********************

  17. #17

    Mặc định

    Buổi Hội Ngộ tại TÂN DÂN ĐÀN
    Qua Điển Quang Giáng Xuống của KIM THÂN NGỌC ĐẾ và QUÁN ÂM NAM HẢI
    (1978)


    Dưới đây là trích ra một phần trong cuốn băng ghi âm cuộc hội kiến giữa Đức Quán Âm Nam Hải (điển quang qua xác thể nữ nhơn C.)
    và Kim Thân Cha tại Khổng Thánh Miếu.


    ĐIỂN QUÁN ÂM (qua nữ nhơn C): Quán Thế Âm nay dẫn con đến đảnh lễ cùng Ngài. Mô Phật!

    Tạm thời Quán Thế Âm xuất ra, cho con trẻ đến đảnh lễ với NGỌC HOÀNG, Quán Thế Âm sẽ dạy cho con trẻ nghi lễ của Thiên Triều.
    (Tiếp đó Quán Âm chuyển điển điều khiển hai chị em nữ nhơn C. ra đảnh lễ Kim Thân Cha − lúc đó đang ngồi trước Thiên Bàn tại Khổng Thánh Miếu − Hai cô cung, múa uyển chuyển làm lễ theo Thiên Triều, coi rất đẹp mắt, trông như hai tiên nữ).

    THỔ ĐỊA NAM PHƯƠNG (Vị Kim Tiên tá danh), (tiếp điển qua đồng tử CH. A.): Xin kính chào quý hữu! Có hiền nương Quán Thế Âm đến đây và Thần để cho chư đệ thấy rằng, đệ nói có sai không? Đảnh lễ THƯỢNG HOÀNG đâu phải như ở thế gian này chư đệ! Lạy cái móc vầy, lạy cái móc vầy, còn sợ mỏi lưng mỏi gối, lạy vậy nửa chừng kêu bằng “demi” có Thiêng Liêng lễ NGỌC ĐẾ cho các Ngài thấy (... )

    QUÁN ÂM: Mô Phật! Con trẻ đã đảnh lễ Ngài, nay Quán Thế Âm đa tạ.

    THỔ ĐỊA NAM PHƯƠNG: Chào hiền nương!

    QUÁN ÂM: Mô Phật! Hôm nay có Chư Thần đủ mặt! Có Chư Phật mười phương chứng kiến! Mô Phật! Nay đã hội ngộ với NGỌC ĐẾ, Quán Thế
    Âm vô cùng hoan hỉ. Mô Phật!

    KIM THÂN CHA: NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ cũng vui mừng gặp lại điển Quán Âm dưới trần.

    QUÁN ÂM: Mô Phật! Thế gian bấy lâu nay ô trược lắm rồi. Mô Phật! Bạch cùng NGỌC ĐẾ.
    Nay Quán Thế Âm đã lâm phàm xuống thế gian.
    Nguyện Chư Phật mười phương, nay đứng giữa đây xin chứng kiến ta nguyện trải thân ra cứu độ chúng sanh, để dẫn dắt con của Ngài trở lại Cung của NGỌC ĐẾ đây.

    Mô Phật! Nếu NGỌC ĐẾ đã chứng y, ai ai lâm nạn xin đến Quán Thế Âm này. Mô Phật! Nguyện chẳng từ nan.

    KIM THÂN CHA: Quán Thế Âm lãnh lịnh của Cha, tiếp điển cứu Trần, giải bớt nghiệp nạn của chúng sanh, gánh bớt gánh nặng cho Trần để trần gian được tiến hóa. Trần gian có nhẹ bớt khổ, để dễ đi, đó con! Đó là hồng ân của NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ bố rải cho trần gian. Vậy các con phải rán ghi nhớ, tội lỗi của mình đã gieo rắc bao nhiêu, để giờ đây cô đọng lại thành ra một khối trược vĩ đại dưới cõi hồng trần sát phạt lại chính chúng con đó thôi! Vì đâu có khổ?
    Vì đâu có nạn? Vì đâu có Cơ Sát Phạt? Có phải chăng vì nhơn loại tội lỗi, thiếu tu, thiếu chịu thực thi hạnh làm người đó con! Thực thi thú tánh quá nhiều tạo bao ác nghiệp, để giờ đây tạo thành một khối trược vĩ đại, cô đọng dưới cõi hồng trần sát phạt lại chúng sanh.

    QUÁN ÂM: Mô Phật! Bạch cùng NGỌC ĐẾ. Nay đã diện kiến với Ngài, xin Ngài cho Quán Thế Âm bày tỏ đôi lời.

    KIM THÂN CHA: Được!

    QUÁN ÂM: Mô Phật! Chúng sanh thì NGỌC ĐẾ nắm giữ trong tay quyền sanh sát do Ngài. Mô Phật! Nay Quán Thế Âm khi gặp kẻ lâm nạn, chướng tai ương quá nặng bởi tiền căn tiền kiếp.
    Mô Phật! Nếu Quán Thế Âm xin tội cho người, liệu NGỌC ĐẾ có giảm tha không?

    KIM THÂN CHA: Quán Thế Âm có biết luật Trời nghiêm minh, nhơn quả phải đủ đầy, có nhân mới có quả. Vì đâu có khổ? Tại nhân gieo không lành, nhân không lành ắt quả không thể ngọt, cho nên rồi ngày nay có khổ đó thôi! Quán Âm có biết Cha đây, Ngọc Đế Chúa Tể Càn Khôn cầm quyền sanh sát trong tay nhưng rồi con ơi!
    Các con có rõ cầm quyền sanh sát nhưng cũng Đại Từ Bi, hiểu thấu rõ nỗi đau khổ của chúng sanh vì sự lỗi lầm, vì sự ngu muội vô minh của chúng nó, cũng hiểu chứ! Nhưng rồi khối trược đó từ đâu? Từ đâu có sát phạt? Khối trược đó từ hình tư tưởng của chúng sanh, từ hành động sái quấy của chúng sanh mà tạo thành. Đức Thượng Đế đã thương xót, chịu gánh, chịu khổ với chúng sanh, nhưng rồi cũng phải có Cơ Sát Phạt để quét rửa thanh lọc con cái của THƯỢNG ĐẾ.
    Cho nên, Cơ Sát Phạt là định luật của Càn Khôn và định luật này để hỗ trợ cho sự tiến hóa của các Tiểu Hồn, và sự tiến hóa của Càn Khôn Vũ Trụ. Cơ Sát Phạt cần thiết cho sự tiến hóa nhưng Cha cũng luôn luôn giảm tội, luôn luôn ban ơn thêm. Nếu xử tội nhơn loại đúng theo tội của nó thì giờ đây nó đâu còn! Qua bao nhiêu kiếp, qua bao nhiêu niên kỷ, chúng nó gieo biết bao tội ác. Cha cho ơn nhiều hơn là sát phạt.
    Giờ đây màn ba đã cận kề mà trược trần ngất trời xanh, bảo sao không có tẩy rửa, bảo sao đừng có thanh lọc? Nếu không thanh lọc, nếu không quét rửa thì con cái làm sao về? Nó nặng nề quá làm sao về? Phải lọc, phải tẩy, phải rửa, phải quét. Sát phạt nạn tai dưới trần là một phen tẩy rửa trần đó thôi! Không tẩy rửa thì lấy đâu cho nó nhẹ hơn, nó thanh hơn, nó sáng hơn, nó bớt nghiệp hơn, để rồi nó nhẹ nhàng nó về với Thượng Đế, nó về với Cha của nó. Nó nặng nề quá thì nó còn ở mãi ở dưới cõi này thôi! Quán Âm có rõ vậy chăng?

    QUÁN ÂM: Mô Phật! Quán Thế Âm cùng Chư Phật đã thoát ra ngoài vòng Càn Khôn của NGỌC ĐẾ, tuy nhiên cũng tình thương ban phát.
    Mô Phật! Quán Thế Âm sẽ dùng phép nhiệm mầu giúp NGỌC ĐẾ tẩy rửa cho con trẻ được thanh, trong sạch hơn, để trở lại với Cha, liệu NGỌC ĐẾ có ưng thuận không?

    KIM THÂN CHA: Chắc chắn rồi! Vì đã ưng thuận mới cho Quán Âm tiếp điển xuống thế là theo lịnh của NGỌC ĐẾ đó thôi! Đã ưng thuận mới cho Quán Âm xuống thế làm việc, để cứu độ quần sanh đó, hồng ân của THƯỢNG ĐẾ đó! Mặc dù tội của nó ngập trần, trược khí ngất trời xanh, chúng sanh tội lỗi dẫy đầy, chịu tạo tội ác hơn chịu tu sửa để tiến hóa. Nhưng rồi, THƯỢNG ĐẾ không đành để cho các con của Cha rơi rớt, rớt rơi, Cha không đành nhìn thấy các nguyên căn của Cha rơi rớt, dẫy đầy, chết vì ngu muội vô minh, và màn này là màn chót rồi, nếu không về kịp thì không còn cơ hội nữa.
    Cho nên, dù có Cơ Sát Phạt, dù nạn khổ do trần đời đã gieo rắc để bây giờ phải chịu khảo đảo, nhưng Cha vì thương chúng nó, thấy nghiệp của chúng nó kéo chúng nó đi không nổi, phải lê lết trên con đường hành hương trở lại quê cũ vì nghiệp, vì nạn, vì khổ do chính chúng nó đã gieo rắc. Do gieo nhân không lành nên quả phải đắng cay, và rồi phải đi, phải giẫm trên gai góc để trở lại quê xưa, vì nghiệp quá nặng. Cho nên Cha cũng phải ra tay cứu vớt tế độ và lòng từ bi của THƯỢNG ĐẾ thể hiện qua hồng ân cho Quán Âm xuống thế tế độ quần sanh đó thôi! Cha cũng xót thương nhân loại chịu khảo đảo, đi không nổi, cho nên, mặc dù tội của nó nó phải trả, nhưng cũng cho các chiến sĩ xuống thế, để mà cứu, để mà gánh vác, để mà vớt thêm nhân loại, vớt thêm nguyên căn, cho kịp kỳ ứng thí dự Hội Long Hoa đó thôi!
    Cha cho bao nhiêu chiến sĩ lãnh lịnh xuống thế làm việc tế độ quần sanh đó con! Nếu Thượng Đế không xót thương nhơn loại, thì Ngài phó mặc, cho chúng nó chịu khảo đảo trong Cơ Sát Phạt, để cho chúng nó rớt rơi.
    Ngài cứ việc luật mà thi hành, cho Tam Giáo Tòa cứ việc lãnh lịnh làm Cơ Sát Phạt đúng theo tội phúc của nhơn loại, thì thử hỏi còn lại mấy đứa? Chắc rằng không còn bao nhiêu đâu con!
    Chính vì vậy nên phải rán vớt chúng nó, kéo chúng nó, ban ơn nhiều hơn là hành phạt, cho Cơ Sát Phạt nhưng cũng cho cứu thế tế độ, cho lãnh bớt khổ và chính Cha, Cha cũng gánh bớt khổ cho nhơn loại đó thôi! Nhơn loại, theo đúng nhân quả của nó, nó phải tội nặng hơn, chịu nạn, chịu khổ nhiều hơn, nhưng đã cho bớt nạn, bớt khổ cho nó, thì rồi thử hỏi cái nhân quả đó ai gánh? Ông Trời phải gánh dùm đó thôi! Cha phải dang tay ra mà tế độ, phải vớt bớt nạn khổ, Cha phải gánh bớt nạn của chúng con đó! Vì luật nhân quả phải thể hiện theo đúng định luật của Càn Khôn Vũ Trụ, luật nhân quả phải xoay chuyển đúng với công lý của Càn Khôn, để Càn Khôn Vũ Trụ được tiến hóa theo định luật.
    Cho nên, khi muốn ân giảm thì sái luật rồi, mà muốn không sái luật thì Cha phải đứng ra gánh chỗ này, gánh bớt cho chúng sanh, các con có rõ chăng? Đó, khi Cha đã bảo ban ơn cho bớt nạn bớt khổ, thì Cha phải gánh, can thiệp với Tam Giáo Tòa để gánh bớt nạn khổ của nhơn loại, để nhơn loại được bớt nghiệp nạn, các con rõ vậy chưa?
    Đừng nghĩ THƯỢNG ĐẾ không yêu thương các con mới phạt các con nghe con! Đó! Trời khổ vì chúng con nhiều dữ lắm đó thôi!!!

    QUÁN ÂM: Mô Phật! Nay đã xong Quán Thế Âm xin cáo biệt!
    *****************

  18. #18

    Mặc định

    Huấn Từ của KIM THÂN CHA Dịp Mồng 1 Tết Xuân Kỷ Mùi
    Tại Tân Dân Đàn (1979)


    Hôm nay Cha cho các con được phép đến đây đảnh lễ Cha nhân dịp đầu xuân. Đây là một hồng ân hiếm có vì đang lúc Cha ẩn dạng, chưa phải lúc Cha làm việc, chưa phải giờ Cha hành động, nhưng vì yêu thương, các con đang quá khổ, cho nên Cha cũng hé cửa một chút để các con đến đây nghe một vài lời giảng dạy của Cha cùng hưởng được chút hồng ân thanh điển, mà phấn khởi thêm để vượt qua cơn thử thách.
    Này các con, một mùa Xuân lại đến, một niên mới đang bắt đầu. Vạn vật một lần nữa đổi thay màu sắc theo luật chuyển hóa của càn khôn vũ trụ. Trong giờ phút trang nghiêm này, Cha muốn các con hãy buông thả hết mọi tư tưởng vướng bận trần ai, hãy buông bỏ tất cả những sinh hoạt náo nhiệt của cõi hồng trần. Các con, phút giây này, hãy để cho tâm hồn êm vắng hơn, lắng đọng lại, nhờ đó mà lục căn bớt tác loạn, hạ trí bớt hoành hành nhường chỗ cho thượng trí bừng dậy, tiếp xúc với linh hồn. Phần Hồn các con, Chủ Nhơn Ông của bản thể, sau những phút giây nặng nề, loạn động, tăm tối đảo điên vì bị khống chế bởi lục căn, phút giây này, sẽ có cơ hội dịu lại để lắng nghe hơn âm thinh chơn chính của càn khôn vũ trụ, và tiểu hồn con sẽ được dịp lắng nghe tiếng nói đầy yêu thương thắm thiết của Đại Hồn Cha.
    Các con ơi, các con có biết rằng Cha đang sầu khổ với các con hay không? Cha đang gánh khổ với các con đây. Hồn Cha đang rung động nức nở cùng với cơn nức nở thảm sầu của trần gian. Cha đang gánh chịu với các con đây con.
    Cha đang gánh chịu cùng với các con trong chính Tiểu Hồn của các con, đang chịu khảo đảo đó thôi, Cha đang gánh chịu cùng với các con qua thần lực vô vi của Cha, đang chịu nặng nề trọng trược vì trược khí ngất Trời của trần gian.
    Cha đang gánh chịu thật sự với chúng con qua thể xác tứ đại của Cha đây, hay tức là Đức Kim Thân hay Đức Huệ Mạng Kim Cang Ngọc Đế, vì phần Hồn của Ngài đã được Cha chứng quả đắc đạo, và xác thể Ngài được Cha xem như kim thân thật sự của Cha, thay thế Cha chăm lo trần gian, gánh vác dưới trần và để dìu dắt nhơn sinh dưới cõi hồng trần. Cho nên, Thượng Đế dù đang ở trên kia, từ trung tâm sinh lực của càn khôn vũ trụ nhưng thật tình Thượng Đế cũng đã xuống thế rồi đây con ơi! Cha đã xuống thế rồi đây, để cùng gánh khổ nhục với chúng con, cùng ngụp lặn trong bể trầm luân với các con qua xác thể tứ đại của Cha, đang chịu sống hẩm hút, nhục nhằn, đang lăn lốc giữa cõi trần với chúng con đây.
    Các con thấy Cha yêu thương các con đến chừng nào. Đại Hồn Cha sầu thảm nức nở, khổ cực với chúng con biết bao nhiêu! Cho nên, các con cũng thấy Cha khổ sở khi nhìn trọng trược ngất trời dưới trần gian, và lửa vô minh đang thiêu đốt trần đời, đang đốt rụi con cái của Cha.
    Căn nhà trần gian đang cháy bùng đỏ lửa mà con cái của Cha còn kẹt trong đó quá nhiều vì thiếu hùng tâm dũng chí, vì ù lì bê trễ, vì ngu muội vô minh. Cha nhìn thấy cơn hấp hối của trần gian, các con thì còn quá khổ vì u minh ngu muội, cho nên Cha không đành ngồi yên tọa vị để nhìn tiểu hồn của Cha rơi rớt, rớt rơi. Cha không đành an nhiên nhìn các con của Cha đang giãy chết vì sự ngu muội của chúng nó, cho nên Cha phải xuống thế đây con.
    Dù chưa đến giờ Cha làm việc, chưa đến giờ Cha diễn tuồng, chưa đến lúc Cha phải hành động. Nhưng vì quá yêu con, vì quá nóng ruột, Cha phải quyết định đến với chúng con thôi. Cha phải xuống thế trước giờ ấn định vì quá yêu các con. Và, vì trước ngày giờ, cho nên Cha phải xuống thế một cách âm thầm, Cha ra đi lặng lẽ. Ông Vua Trời ra đi âm thầm, lặng lẽ, không ngọc ấn, không cẩm bào, không chiêng, không trống, không binh tướng thị oai.
    Ông Vua Trời giờ đây đang hiện diện giữa chúng con như vậy đó con. Thiếu nghi vệ cần thiết, cho nên con cái của Cha, chưa đủ trình độ để phán xét, có khi nó không nhìn ra Cha, nó không biết Cha, nó sỉ nhục Cha, nó khinh thường Cha đó con. Cho nên, ông Vua Trời ngày giờ này cũng phải chịu trăm cay ngàn đắng đủ thứ tủi nhục dưới trần đấy con. Đứa biết Cha cũng có, thì phước đức cho nó, nhưng rồi Cha cũng đau lòng vì con cái của Cha cũng có đứa chưa biết Cha, chưa hiểu Cha, trình độ chưa thấu rõ được Thượng Đế như thế nào, phán xét Cha qua cái phàm tâm của chúng nó, cho nên không nhìn Cha cũng có, và rồi sỉ nhục Cha, khinh thường Cha cũng có.
    Nhưng con ơi con, ông Vua Trời phải hẩm hiu, lặng lẽ sống âm thầm tủi nhục giữa chúng con đây. Nhưng Cha có đây để gánh bớt khổ nhục với chúng con, rồi có lúc các con phải biết Thượng Đế thôi con. Khi Cha tỏa rạng ánh sang của Cha, khi Cha sử dụng oai Trời thì ắt các con phải biết đó thôi. Có đứa nhận định một cách sai lầm rằng: “Ờ, ông Vua Trời đã đến đây! Nếu là Thượng Đế thì tại sao Ngài không tỏ cái quyền năng thưởng phạt của Ngài. Ngài không tỏ một vài sự kiện huyền linh của Ngài để tỏ cho thấy rằng Ngài là Đấng Toàn Năng, Toàn Giác, Toàn Tri đang hiện diện giữa chúng sanh đây, đang thể hiện dưới cõi hồng trần này cho chúng sanh biết Ngài là Thượng Đế.“
    Nhưng con ơi! Tại các con chưa hiểu đó thôi. Các con chưa đủ trình độ để hiểu cái cực cao siêu của Thượng Đế. Các con không thể dùng cái hạ trí phàm tâm, dùng cái khoa học hữu hạn, hữu hình để phán xét được cái quyền năng, cái toàn năng, toàn giác, và cái ánh sáng vô cực của Thượng Đế đâu con! Tại các con chưa hiểu luật Trời, các con chưa nắm được định luật của càn khôn vũ trụ, các con chưa hiểu, chưa biết được cái cơ tiến hóa, cái định luật vận chuyển của guồng máy âm dương ngũ hành của càn khôn, của Thượng Đế, các con chưa biết đó thôi.
    Các con chưa hiểu thế nào là toàn năng, toàn giác, toàn tri và cái toàn năng, toàn giác, toàn tri của Thượng Đế thể hiện cách nào, theo định luật nào, vào chu kỳ nào, và trong lúc nào. Các con chưa hiểu nổi, vì cái toàn năng, toàn giác, toàn tri của Cha thể hiện luôn luôn, vận hành trong càn khôn, nhưng các con phải nhớ rằng thể hiện theo định luật, theo cơ tiến hóa, theo sự chuyển động của guồng máy âm dương, theo sự chuyển động của định luật tiến hóa của càn khôn vũ trụ.
    Cái toàn năng, toàn giác, toàn tri của Cha thể hiện theo chu kỳ, Thượng Ngươn khác, Trung Ngươn khác, Hạ Ngươn khác. Khi cần sáng, khi cần tối, khi cần ẩn, khi cần hiện, khi thì cần ánh sáng phải chói lòa, khi thì cần bóng tối phải tràn lan. Cũng chính vì vậy mà Thượng Đế có đây, nhưng rồi ẩn mình trong bóng tối. Tại sao Thượng Đế không thể hiện cái chói sáng của Ngài để cho chúng sanh nhận định Ngài? Có chứ con, nhưng chưa phải lúc con. Chưa phải lúc để ánh sáng ló dạng, chưa phải lúc để bóng đêm rút mình. Lúc cần bóng đêm tràn ngập, thì ánh sáng phải che đi. Lúc bóng tối phải chuyển động thì ánh sáng phải ẩn dạng. Khi bóng tối cần làm việc, tràn lan thì tự nhiên phải che đi ánh sáng con. Cho nên cũng vì vậy, Cha xuống thế trước ngày giờ. Cha phải ẩn dạng. Cha phải che đi ánh sáng của Cha thôi. Cha không thể uy nghi rực rỡ đúng với cung cách của Ngọc Đế. Quân tử chưa tới lúc thì phải làm như kẻ dại, ông Trời khi chưa đến giờ thì phải làm như một thằng trần gian thôi con. Chính vì vậy con nào dùng cái phàm tâm hạ trí của nó để nhận định Thượng Đế, để phê phán Thượng đế, để xét hượng Đế, e rằng các con này vội vã phán xét nông nỗi, rồi phải sái quấy, thất lễ, phạm thượng với Thượng Đế thôi con.
    Cha cho các con rõ, Thượng Đế đây, thể hiện qua Đức Kim Thân và hành vi tư cách của Đức Kim Thân tức là hành vi tư cách của Thượng Đế. Con nào dùng phàm tâm hạ trí để phê phán tư cách của Thượng Đế vì trình độ chưa hiểu biết thì rồi có lúc phải chịu quả báo bởi luật Trời! Vì sao? Vì nó ngu muội, chưa hiểu, nó phán xét, sái quấy cho nên luật Trời đương nhiên phải tác động để dạy phần hồn nó học hỏi để biết hơn thôi con.
    Phán xét sái quấy cho một người cũng là tội, vì sao? Vì suy nghĩ điều sái quấy cho người: ý nghiệp! Khi mình chưa rõ sự kiện thế nào mà vội phán xét, trình độ hiểu biết chưa minh, chưa đủ để phán đoán có khi sái quấy, mà lỡ sái quấy thì mang ý nghiệp. Ý nghiệp thể hiện qua lời nói trở thành khẩu nghiệp. Ý nghiệp qua hành động trở thành thân nghiệp.
    Và nếu cái ý nghiệp này lan tràn ra, bộc phát ra, gây một tầm ảnh hưởng lớn rộng thì nghiệp càng dày, càng sâu, rồi quả báo càng lớn, rồi phải chịu tác động bởi luật trời, bởi luật nhân quả để dạy cho phần hồn học hỏi tiến hóa mà thôi. Cho nên, cho các con rõ để các con hiểu thêm, để các con biết được thêm một khía cạnh khác của chơn lý. Cha mở ra một khía cạnh khác để cho chúng con hiểu được Thượng Đế hơn, để thấy Ngài hơn, để rõ Ngài hơn. Đừng nghĩ rằng lúc Ngài có đây mà tại sao hỗn loạn đảo điên dưới trần gian Ngài không can thiệp. Nhưng con ơi, Cha phải làm việc theo định luật con. Phải để cho khối trược hoành hành, phải để cho khối trược sát phạt theo định luật tiến hóa của càn khôn luôn. Lúc này Cha can thiệp một cách yếu ớt và giới hạn thôi, cho những con nào thành tâm, thiện chí, chơn tu, Cha phải lo lắng cho nó, và đương nhiên luật Trời phải lo lắng che chở cho nó theo nhân quả của nó. Nhưng rồi nó cần phải trau dồi, cần học hỏi, cần được tẩy rửa, cần được thanh lọc, thì đương nhiên phải có nghiệp lực khảo đảo nó.
    Nghiệp khảo thì nó khóc la, nhưng rồi phần hồn nó phải học chỗ này, nhờ chỗ này để nó tiến hóa, để phấn đấu vươn lên, để phần hồn nó phong phú hơn, được có cơ hội học hỏi hơn, để có lúc hiểu hơn, tiến hơn, rồi có ngày nó còn trở về với Cha nữa chớ con. Cho nên, cho khối trược sát phạt, cho khối trược lộng hành cũng là để hỗ trợ cho cơ tiến hóa của càn khôn vũ trụ vậy, cũng là nằm trong định luật công bình của Trời Đất, là luật Trời đó thôi. Cho nên, khối trược lộng hành sát phạt cũng là theo định luật của càn khôn để hỗ trợ cho thiên cơ vận chuyển và tiến hóa.
    Các con phải thấy chỗ cần học hỏi trong cơn khổ, và phần hồn mình tiến hóa nhờ gian khổ nữa, phần hồn trưởng thành nhờ phấn đấu trong thử thách gai chông. Không có cái này thì phần hồn không có gì để học hỏi. Các con xuống đây để làm gì? Từ trên thanh nhẹ tiểu hồn của Cha tách rời Đại Khối Linh Quang để xuống đây học hỏi, từ trên cõi nhẹ xuống cõi nặng nề, xuống cõi nặng nề để học cái nặng nề, học khổ, học chua cay, mặn đắng, ngọt, bùi, tất cả những khổ nhục trọng trược, nặng nề dưới trần cho đến lúc các con hiểu được, rồi biết hơn, để phấn đấu mà trở về. Phấn đấu từ trong cái trược để tìm về cái thanh, từ trong cái nặng để tìm về cái nhẹ, từ trong ngu muội để tìm về hiểu biết. Đó, phần hồn các con phải trải qua những giai đoạn này, học nặng nề, trược, rồi học nhẹ nhàng, thanh, để trở về Cha chứ các con!
    Cho nên xuống đây là đương nhiên phải có khổ, phải học khổ, phải ngụp lặn trong bể trầm luân để biết khổ để hiểu khổ và rồi phấn đấu trong gian khổ, để thoát khổ luôn, để siêu thoát luôn con. Ngụp lặn trong cái bể trầm luân này để nếm đủ mùi, đủ vị để phần hồn phấn đấu học Bi, Trí, Dũng. Bi, Trí, Dũng các con nhờ đâu? Phải chăng nhờ gian khổ, nhờ thử thách chông gai mới học được không con?
    Chớ con tưởng con xuống đây học bài ở đâu? Học chỗ nào? Nếu rằng cuộc hành trình của các con suôn sẻ chẳng có gì để học? Làm sao học Dũng, làm sao học Bi, Trí? Các con nhớ, nhờ trong gian khổ mà phần hồn học nhẫn nhục, học phấn đấu, học trau luyện ý chí, học trau dồi đức hạnh để rèn luyện. Như cục sắt muốn trở thành một dụng cụ thì phải dùi mài, phải bỏ vào lửa, phải trui rèn để trở thành một dụng cụ hữu dụng của trần gian, thì các con cũng vậy.
    Cho nên các con ơi, phải học luôn luôn và nhờ những thử thách cam go dưới cõi hồng trần này để các con học hỏi tiến hóa, con nào thức giác chỗ này, thì gặp khổ đỡ khổ, gặp thử thách cảm thấy nghị lực hơn, can đảm hơn để vươn lên học hỏi, các con học Bi, Trí, Dũng trong những bài học khảo đảo đó con. Nhờ nghiệp lực khảo đảo các con mới có cơ hội học Bi, Trí, Dũng, cho nên đừng than buồn, đừng phiền não vì phiền não tức bồ đề, có phiền não các con mới có cơ hội tiến hóa.
    Nếu không thì các con mê mải dưới cõi trần nầy, biết ngày nào mới chán cảnh giả tạm mà trở về với Cha? Cho nên, nếu con thức giác chỗ này thì trong cơn thử thách sẽ thấy tự tại hơn, cam long phấn đấu qua những cam go để cho phần hồn tiến bộ.
    Con ơi, xuống đây để học, học rồi, biết rồi để trở về. Không phải xuống đây để hưởng rồi ở luôn đây con! Học cái nặng, biết cái nặng, khổ vì nặng, thì rồi phải phấn đấu vươn lên để tìm về cái nhẹ, để trở về nguồn cội thôi con. Các con quên căn, quên cội, quên nguồn mà giờ đây ngày đã cận kề rồi con, ngươn này là ngươn chót, kiếp này là mạt kiếp con ơi, còn chần chờ gì nữa? Đò đã đưa đẩy tới, phải xuống mà đi, lo mà về, lo mài gươm trí huệ để phấn đấu, để chặt bỏ sự ngu muội vô minh, để trở về với nguồn sang con.
    Các con ơi, Cha cho rõ, cận kề rồi đây thôi. Cơ Sát Phạt sẽ hoành hành, khối trược sẽ lộng dữ lắm để gây cho trần gian điên đảo, hỗn loạn. Đấy cũng là để khảo thí nhân loại đó thôi, Cơ Khảo Sát đó con! Coi con nào mài gươm trí huệ bén đến đâu để chọn lọc rồi đem nó vào Long Hoa chớ con. Đó, Cơ Sát Phạt rất dữ, các con phải lo mài gươm trí huệ, gìn giữ phần hồn cũng là giúp cho các con hóa giải bớt nhiều khổ nạn sẽ đến trong cơ khảo đảo thử thách này.
    Cho nên, phải cố gắng lên! Cận kề rồi đấy thôi! Phải gắng phấn đấu thêm trong cơn thử thách!
    Hôm nay đầu năm mới, Cha cũng mong rằng các con sẽ vươn lên, sáng hơn, thanh hơn, nhẹ hơn, để rồi lo mau mà về với Cha, và Cha cũng muốn cho các con biết rằng: Hãy vơi đi buồn khổ, hãy tận dụng những cơn thử thách đó để cho phần hồn thăng tiến và phong phú hơn. Các con nhớ rằng không có đêm nào là đêm bất tận, không có mùa đông nào là mùa đông vĩnh cửu. Mùa đông vĩnh cửu và đêm dài bất tận chỉ có trong trí tưởng tượng của con người mà thôi.
    Mùa đông nào cũng phải chấm dứt để qua xuân, đêm nào rồi cũng phải lui đi để cho ánh sáng ló dạng. Đã tới lúc bình minh thì đêm có muốn kéo dài thêm nữa, đêm cũng không làm gì được để nhường chỗ cho vừng thái dương xuất hiện.
    Cho nên, các con ơi, đêm rồi phải chấm dứt, mùa đông phải ra đi để nhường lại cái ấm áp của mùa xuân ló dạng.
    Cha muốn dạy cho các con những điều này để các con luôn luôn giữ niềm tin, hy vọng, vì định luật của càn khôn là vậy. Có hưng phải có vong, có thịnh phải có suy, có tối phải có sáng, nhưng sáng rồi lại tối, tối rồi lại sáng, hưng rồi vong, vong rồi hưng, thịnh rồi suy, suy rồi thịnh.
    Đó là định luật bất di bất dịch của càn khôn vũ trụ. Cái ấm áp của mùa xuân không thể kéo dài, tất nhiên phải sang cái nóng bức của mùa hạ, rồi nóng bức của mùa hạ phải nhường cho cái mát mẻ của mùa thu, mùa thu tới lúc phải ra đi để nhường chỗ cho lạnh lẽo của mùa đông, rồi mùa đông cũng phải có lúc chấm dứt để nhường chỗ cho chúa xuân về.

    Cho nên các con ơi hãy phấn khởi lên, hy vọng hơn, niềm tin vững chắc hơn, vì tin chắc ở định luật vận hành của càn khôn vũ trụ, phải có điều này và cũng cận kề rồi đây thôi, cho nên các con phải tin tưởng, phấn đấu trong thử thách, vươn lên trong chông gai hầu có được chút niềm tin mà sống, mà học hỏi, mà tiến hóa để rồi lo trở về nguồn cội con ơi! Các con ơi, ngày giờ cận kề, đò Long Hoa đã tách bến rồi con. Các con còn trù trì, còn ù lì, còn bê trễ, còn mãi lưu luyến ở bến mê thì rồi không kịp nữa đâu con! Cha cho các con rõ, phải rán lên, rán lên nữa. Lo gìn giữ thanh điển trong cơn sát phạt này. Phải rán sống đạo đức, giữ thanh điển con!
    Mài gươm trí huệ để phấn đấu! Cha không bỏ con nào quyết tâm lo tu chơn chánh và tưởng nhớ Thượng Đế luôn luôn. Cha không bỏ nó đâu. Thử thách, khảo đảo để thanh lọc nó, để cho nó sạch hơn, rồi cũng phải dẫn dắt nó về chớ con! Cho nên, con nào chơn chánh tu, tưởng nhớ Thượng Đế, giữ mình cho thanh nhẹ, Cha không bỏ nó đâu con, nếu có sự phấn đấu của chính nó, Cha không bỏ nó đâu.
    Các con rán nhớ chỗ này. Lo mà ăn chay trường đi nghe con. Cơ Sát Phạt rất dữ, Cơ Chết Chóc rất lớn. Đừng gieo thêm nghiệp sát, đừng rước trược vào thêm.
    Nhớ chỗ này Cha nhắn nhủ! Cần thiết Cha mới nói, quan trọng Cha mới nói đó con!
    Thôi được rồi, Cha ban vài lời nhơn dịp đầu năm cho hồng ân thanh điển xuống với các con để các con an tịnh hơn, nhẹ nhàng hơn mà tiếp tục dấn bước.

    ********************

  19. #19

    Mặc định

    Huấn Từ Của KIM THÂN CHA Nhân Tân Dân Đàn Làm Lễ Tiễn Đi Quy Ẩn
    23/2/1979 (27/1 Âm Lịch)


    Hôm nay các con tổ chức buổi lễ tiễn chân Cha rời Tân Dân đi quy ẩn. Trước khi Cha ra đi, Cha có đôi lời tạm biệt với Tân Dân Đàn và tất cả các con, vì đã đến lúc bóng tối phải tràn lan, chuyển động, hoành hành và ánh sáng phải che đi, ẩn dạng. Cơ quy ẩn này, Cha quyết định từ lâu, nhưng rồi vì thương chúng con quá khổ, Cha cũng còn cố gắng có đây để nâng niu dìu dắt. Dù rằng ẩn dạng, nhưng cũng hé chút cửa để ban ân cho những con nào thành tâm thiện ý, tưởng nhớ đến Thượng Đế, tưởng nhớ đến Trời, khao khát và biết đây là Trời, để đến mà nghe một vài lời giảng dạy hầu nương theo đó mà tiến hóa. Nhưng rồi đã đến lúc Cha phải quyết định ra đi ẩn dạng.
    Nhớ lại cách đây mấy ngoạt (11), Cha quyết định giáng ngự đến Tân Dân Đàn. Giáng ngự đến đây để làm gì? Tâm Cha, ý Cha cũng muốn trợ lực thêm cho Tân Dân Đàn làm việc. Cha muốn hỗ trợ thêm phần sinh khí, cổ võ cho Tân Dân Đàn thêm phấn khởi để lo Cơ Quy Nhứt. Vì Tân Dân Đàn lãnh sứ mạng lo Cơ Quy Nhứt, lo cái cơ trọng đại của Cha, nên Cha cũng thấy chỗ khổ khó, chỗ nhọc nhằn, chỗ quá lớn lao đại sự của Cha.

    (11 Ngoạt (Nguyệt): Tháng.Mấy ngoạt: mấy tháng.)

    Vì vậy Cha thấy cần giúp thêm chút sinh lực, giúp thêm chút phấn khởi cho Tân Dân có cơ hội làm việc tốt đẹp hơn. Cha hỗ trợ thêm cho Tân Dân phần tinh thần, phần uy tín để Tân Dân lo cơ cho Cha, lo Cơ Quy Nhứt, vì Cơ Quy Nhứt là coi như đại cuộc của Đất Trời, đại cuộc của Thượng Đế. Phải quy nhứt mới trở về được con! Các con muốn phản bổn quy nguyên thì phải thực hiện cho được Cơ Quy Nhứt! Muốn trở về Nguồn Cội, phải quy nhứt mới về. Vì “QUY” là về. Nếu không quy không thể về được các con! Cho nên các con, lòng dạ chia năm xẻ bảy, từ đời tới đạo. Cơ đạo ngửa nghiêng hỗn loạn, vì sao? Vì đố kỵ, tỵ hiềm, chấp ta ngã mạn. Các tôn giáo, các chi phái thì chia năm xẻ bảy, cống cao ngã mạn, người thua ta được, ta hơn người kém, mãi còn chấp nê, không thực tâm hòa đồng, không thực thi hòa ái, rồi chia rẽ khắp nơi, đố kỵ, tỵ hiềm, cho nên ngày nay khối trược mới có hội hoành hành! Trong đạo mà còn vậy thì trách chi ngoài đời. Cũng chính vì vậy mà cơ đạo ngửa nghiêng. Mà đạo ngửa nghiêng thì đời phải hỗn loạn. Thế nên phải thực thi cho được Cơ Quy Nhứt của Cha, tức là Tam Giáo phải quy nguyên, ngũ chi hiệp nhứt. Tam Giáo quy nguyên, ngũ chi hiệp nhứt là gì? Là Nho, Thích, Lão tức Đạo Nho, Đạo Thích, Đạo Lão phải quy về một mối. Ngũ chi hiệp nhất là Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo cũng phải quy về một gốc mà thôi. Tất cả tôn giáo ở thế gian, dù dưới mọi hình thức chi phái đều không ra ngoài ngũ chi này. Nay đã tới ngày lo mà quy nhứt, gom về Nguồn Cội, gom về một Chơn Lý để phản bổn quy nguyên mà thôi!
    Cho nên các con phải hiểu đây là Đại Cuộc quan trọng của Càn Khôn và cũng là Đại Cuộc tối quan trọng của linh hồn các con đó. Nếu các con không biết đại cuộc này, nếu các con không chăm lo chỗ này, thì Cha e rằng các con không trở về được đâu, vì tấm lòng còn chấp ta ngã mạn, đố kỵ, tỵ hiềm, ích kỷ, ganh tỵ, nhỏ mọn, thì rồi các con đầy dẫy tật xấu, đầy dẫy nặng trược, làm sao các con đi lên cao được? Vì vậy phải thực hiện cho được hòa ái yêu thương, xóa bỏ tỵ hiềm, xóa bỏ chia rẽ, đi tới chỗ huynh đệ đại đồng, thì các con mới có cơ hội trở về, mới có cơ hội vào Long Hoa! Tuyển lựa sĩ tử thì cũng tuyển lựa tiêu chuẩn này. Sĩ tử nào có tinh thần hòa ái, không vị kỷ, biết ái tha, ái chúng, tâm hồn hướng thượng, thực thi lý tưởng huynh đệ đại đồng, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, đẳng cấp, chủng tộc, biên giới, quốc gia, đất nước, thì rồi các con mới có cơ hội để đi vào Long Hoa Đại Hội. Vì Long Hoa Đại Hội khai mở chọn những sĩ tử vào ThượngNgươn Thánh Đức.
    Thượng Ngươn Thánh Đức dành cho những con nào? Dành cho những con biết thực thi tình huynh đệ đại đồng, vì xã hội Thượng Ngươn Thánh Đức là xã hội của tình thương, xã hội đại đồng! Xã hội đại đồng thì phải được xây dựng bằng tình huynh đệ đại đồng, bằng yêu thương thôi con!
    Con nào tỵ hiềm, chia rẽ, ích kỷ, nhỏ nhen, chấp ta ngã mạn thì rồi phải lọt khỏi sổ, phải bị xóa tên, không được vào Thượng Ngươn Thánh Đức. Cho nên Cha cho biết rõ Cơ Quy Nhứt cũng là cơ quan trọng và tối hậu cho phần hồn. Các con phải lo thực hiện cho kỳ được!
    Tân Dân Đàn có sứ mạng lãnh Cơ Quy Nhứt, thì phải rán lo, chăm sóc ngày đêm, đem tất cả tinh thần, tất cả thành tâm, thiện ý, để phục vụ, để lo cho trọn cơ mà Thầy Mẹ đã giao cho chúng con. Các con phải rán nhớ, phải lo dẹp bỏ mọi tỵ hiềm, chia rẽ, dẹp bỏ mọi tinh thần nhỏ nhen và học hùng tâm, dũng chí hơn nữa, các con! Cha thấy các con Tân Dân cũng nghĩ và cũng có thiện chí lo Cơ Quy Nhứt, nhưng xét kỹ, thì còn thiếu hùng tâm dũng chí! Còn sót chỗ nầy con! Nên con phải rán hơn nữa, hùng tâm hơn nữa, thực thi cho kỳ được, cho tròn sứ mạng mà Thầy Mẹ giao cho, dẫu nát thân cũng cam lòng! Con phải lập tâm nguyện như vậy mới tiến hóa được con.
    Lo cho cơ của Thầy Mẹ cũng là lo cho cơ trọng đại của linh hồn mình, cũng để lo cho linh hồn tiến hóa. Thầy Mẹ giao bài cho chúng con để chấm điểm đó thôi! Thì rán làm để kiếm điểm con! Kiếm điểm để được vào Thượng Ngươn Thánh Đức, kiếm điểm để trở về phản bổn quy nguyên! Các con cũng phải cần công việc luôn!
    Người cần việc mà việc cũng cần người. Cho nên việc cần người, người phải hiểu rằng cần việc. Cần có việc mình mới có cơ hội tiến hóa, để lập công bồi đức, để thực thi công quả, để trả nợ thế gian và rồi có cơ hội trở về, phản bổn quy nguyên. Cho nên các con rán nhớ, rán lo cho tròn. Cha đến đây để vun bồi thêm cho giống tốt. Hạt giống quy nhứt đã có đó, nhưng rồi chẳng có người bón phân con ơi! Nhơn sự thì thiếu, thiện chí thì còn quá thiếu con! Người lo chăm sóc còn thiếu. Ít người nghĩ tới việc vun phân tưới nước để cho hạt giống quy nhứt đâm chồi nẩy lộc, sinh hoa kết trái. Cho nên các con ơi! Hãy rán nhớ vun phân tưới nước chăm bón nó đi! Cha đến đây cũng để vun thêm chút phân bón cho hạt giống quy nhứt. Nó đã bị lãng quên. Nó muốn cằn cỗi vì sự thiếu thành tâm của chúng con đó thôi! Cho nên Cha đến đây vun chút phân tốt, tưới thêm chút nước để cho hạt giống này có thêm chút sinh lực nẩy mầm. Cha cũng với ý này để giá ngự đến đây.
    Ngày giờ thì chưa phải lúc để hành động thật sự, chưa phải lúc cơ đạo hoát khai12 một cách rộng rãi, nhưng rồi Cha cũng muốn vun thêm chút nước, bón thêm chút phân để chờ tiết mùa con. Khi tiết mùa đã thuận tiện, thì rồi với hạt giống, sẵn chút sinh lực, cũng còn mầm tốt đây, nó sẽ đâm chồi nẩy lộc đơm bông kết trái, sinh hoa kết quả, để cho con cái của Thầy Mẹ, để cho chim chóc muôn phương quy tụ trở về núp dưới bóng mát của cội quy nhất đó con!
    Các con rán nhớ lo cho Cha, và tất cả các con ở đây, không phải riêng Tân Dân, mà các chi các phái, mọi tôn giáo, Cha kêu gọi các con phải lo Cơ Quy Nhứt, vì trong tinh thần còn tỵ hiềm chia rẽ tôn giáo, chia rẽ chi phái, thì nội cái chia rẽ này nó cũng đủ làm trì trệ sự tiến bộ của linh hồn con, và ngăn con trở về quy nguyên hườn bổn đó thôi.
    Cho nên con nào thực hiện được tình huynh đệ đại đồng hỗ trợ thêm cho mầm mống quy nhứt được sinh hoa kết quả thì con này đương nhiên sẽ được trở về theo nhơn quả phước đức của nó.
    Cha nhắn nhủ với tất cả các con ở đây, nhớ xóa bỏ tỵ hiềm, chấp ta ngã mạn, tôn giáo mình cao, tôn giáo người thấp, đạo mình cao, chi phái mình hay hơn chi phái người. Nên nhớ, muốn phản bổn hườn nguyên thì phải hòa! Muốn trở về vô vi thì phải nhớ tinh thần Vô Vi là tinh thần hòa ái.
    (12 Hoát khai: Mở rộng lớn.)
    Tới lớn hòa lớn, tới nhỏ hòa nhỏ, tới đâu hòa đó là tinh thần vô vi. Cha cho các con rõ. Vậy các con phải nhớ thực thi cho kỳ được, xóa bỏ mọi tỵ hiềm, vì khối trược rất sợ hãi Cơ Quy Nhứt. Nó phải phá cho kỳ được Cơ Quy Nhứt. Nó không muốn ai đoàn kết lẫn nhau. Nó luôn luôn gieo tinh thần chia rẽ tỵ hiềm. Cho nên, con nào trong các con mà tinh thần còn cống cao ngã mạn, còn ganh tỵ, đố kỵ, chấp nê, phân biệt chia rẽ, thì rồi khối trược vô hình sẽ tá vào để phá Cơ Quy Nhứt, thực hiện cái chương trình phá hoại sự đoàn kết, phá hoại sự xây dựng tinh thần đại đồng, phá hoại cái tinh thần thực thi xã hội đại đồng, tình huynh đệ đại đồng đó thôi. Cho nên các con nhớ cho kỹ. Sau khi Cha đi là đến lúc ma quỷ sẽ lộng hành dữ lắm con. Rồi đây nó sẽ mượn hữu vi để thực hiện cái ý nguyện của nó.
    Nó sẽ xen vào để lũng đoạn các con, lũng đoạn nhân tâm, lũng đoạn tinh thần các con, để làm cho các con nản chí, buồn phiền, giận hờn, sân si, đố kỵ, chia rẽ, chấp ta ngã mạn, để rồi các con rã rời ly tán không muốn nhìn nhau, chẳng còn muốn thương yêu nhau, và quên đi cái lý tưởng đại đồng, quên đi cái lý tưởng trở về Nguồn Cội. Các con phải nhớ giữ gìn, phải thận trọng và các con Tân Dân ở đây cũng vậy, phải hùng tâm dũng chí! Nếu các con hèn yếu, nếu các con quá sợ sệt, thì rồi đó cũng là dịp để cho khối trược len vô để phá hoại đó thôi. Cha mong sao các con phải dũng hơn nữa, hùng tâm hơn nữa, để dấn bước, chớ rồi muốn tới mà thiếu hùng tâm muốn đi đến nơi mà thiếu dũng chí thì các con phải rớt rơi trên đường đi đó thôi, phải bỏ cuộc trên con đường phản bổn quy nguyên mà thôi! Cho nên nhớ cho Cha! Phải hùng tâm hơn nũa! Tân Dân Đàn phải cố gắng hơn! Thiện chí cũng có nhưng thiếu hùng tâm nghe con. Cha nhắc chỗ này các con rán nhớ! Sẵn đây Cha cũng nhắc nhở đến các con mặt thiêng liêng, những đứa đã lãnh lịnh Cha để hỗ trợ cho Tân Dân Đàn. Các vị thiêng liêng này có bổn phận giúp Cha, lo cho cơ quy thống. Các con rán giúp Cha và chịu cực hơn.
    Công việc Cha giao thật nặng nề, trọng trách Cha giao thật rằng quá lớn, nhưng các con cũng nên vì Cha, thương xót chúng sanh hơn nữa, chịu cực hơn nữa, hy sinh hơn nữa, cam khổ hơn nữa! Hãy nhìn gương Thượng Đế, hãy nhìn gương của Cha đây để con thấy: xuống thế chịu cực trăm cay ngàn đắng với chúng sanh, bị khảo đảo vì con cái ngu muội, vô minh nên khảo đảo Cha của nó, và rồi Cha đây cũng phải gánh đủ thứ trọng trược, gánh mọi đắng cay dưới cõi hồng trần. Chịu cực, chịu khổ chịu nhọc đủ thứ!
    Cho nên các con thiêng liêng hãy nhìn gương này rồi rán lo cho Cha hơn nữa, dẫn dắt em dại, dẫn dắt học trò ngu muội, còn quá yếu ớt, dẫn dắt nó đi, hỗ trợ cho nó tiến bộ và lo cho tròn phận sự!
    Các đứa thiêng liêng có mặt ở đây, Cha cũng nhắn nhủ các con, rồi sẵn dành phần thưởng hậu hĩ chờ đợi các con vào ngày chung cuộc. Cha có ít lời, các con rán ghi nhớ!
    Còn những ngày Kim Thân Cha ẩn ở đây, vui buồn chia xẻ, ngọt, bùi, đắng, cay, Cha con cùng hưởng, thì rồi Cha cũng ghi lòng tạc dạ. Cha ra đi, nhưng còn ở đây đó thôi. Phần hữu vi tách rời, nhưng phần vô vi thì vẫn bang bạc ở đây với chúng con, và vẫn hằng ban ơn cũng như hỗ trợ cho chúng con làm việc. Nếu chúng con chịu làm việc, nếu chúng con thiện chí thành tâm, quyết chí lo cho Thầy Mẹ thì Thầy Mẹ vẫn ở đây! Cha vẫn ở đây để hỗ trợ bàng bạc trong chúng con, bàng bạc ở Tân Dân Đàn, qua thần lực vô vi để tiếp tay với chúng con. Giao cho các con gánh vác, nhưng Thầy Mẹ vẫn gánh với chúng con đó thôi! Giao cho các con gánh để có cơ hội lập công bồi đức, thực thi công quả để trở về, nhưng rồi Thầy Mẹ cũng cùng chung vai gánh vác với chúng con đó thôi.
    Vậy chúng con hãy nhớ chỗ này! Yên tâm mà dấn bước, dũng chí hơn, phấn khởi để lo đi, con!
    Phần hữu vi của Cha, Đức Kim Thân, ngài rời Tân Dân Đàn, nhưng rồi Cha vẫn ở đây, ngài vẫn ở đây bằng vô vi với chúng con. Cho nên các con cứ yên tâm thực thi cái tinh thần Cha dạy và tiếp tục chăm lo công việc như thường, con! Cha đã gieo sinh khí rồi, Cha đã đem chút uy tín cho Tân Dân Đàn, hỗ trợ thêm chút điều kiện tốt đẹp cho Tân Dân Đàn dễ dàng làm việc, thì Tân Dân Đàn nên tận dụng cơ hội đó để tiếp tục hành sự! ...
    Thôi, trước khi Cha ra đi, Cha có đôi lời nhắn nhủ với các con. Các con rán tạc dạ ghi lòng. Này các con:

    Giấc cô miên vùi say chưa tỉnh
    Trễ đò rồi mau tỉnh bớ con
    Lòng Cha quặn thắt héo hon
    Lo con say ngủ chẳng còn nhớ quê
    Con ơi phải kịp quay về
    Mau lo tách khỏi bến mê kịp kỳ
    Vượt qua Bỉ Ngạn con đi
    Bên kia bờ Giác Cha thì chờ trông
    Con ơi hãy cố nhủ lòng
    Vườn xưa cảnh cũ, Mẹ mong, Cha chờ
    Ngày đêm thương nhớ con thơ
    Lo con về chẳng kịp giờ đó con
    Con ơi nước chảy đá mòn
    Lệ Cha tuôn chảy (sao) tim con chẳng sờn
    Con ơi rán cố gắng hơn
    Nhớ về Nguồn Cội chánh chơn vẹn gìn
    Hồn con trau sửa cho minh
    Siêng năng tu học đáp tình Mẹ Cha
    Danh đề bảng hổ kỳ ba
    Là con sưởi ấm lòng Già đó con.


    NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ

    ************************

  20. #20

    Mặc định

    Huấn Từ Của KIM THÂN CHA
    Nhân Phái Tu Vô Vi Làm Lễ Tiễn Đi Quy Ẩn 25/2/1979 (29/1 Âm Lịch)


    Mấy hôm nay, Cha cũng cảm kích vì thấy việc Cha ra đi, việc Cha sắp sửa lui vào Cơ Quy Ẩn, khiến cho các con cũng nghĩ đến Cha, và rồi cũng tìm mọi cách lên đến đây gặp Cha, đảnh lễ Cha, và hiến dâng một chút tâm thành, thiện ý trước ngày Cha ra đi quy ẩn.
    Đó là điều khiến Cha cảm xúc. Các con gởi đến Cha tất cả tấm lòng kính trọng và sự luyến lưu trước khi Cha lên đường. Thật tình rằng con ơi, Cha yêu thương các con vô vàn! Cha vẫn muốn các con có những cơ hội, những phút giây đến với Cha, quây quần bên Cha để nghe một vài lời chơn chánh, để mở thêm trí, để khai them tâm, để được tiến bộ, để phần hồn có cơ hội phong phú thêm, để rồi phấn khởi dấn bước trên con đường hành hương về chốn cũ. Cha cũng khát khao được các con yêu thương. Cha cũng khát khao có những cảnh đông đúc, vui vầy, quây quần bên Cha, để rồi thể hiện cái tình cha con, thể hiện sự thân mật ưu ái giữa Cha với con để nhắc nhở các con tưởng nhớ Cội Nguồn.
    Vì Cha ở trên kia, từ trung tâm của vũ trụ,
    Cha là khối hào quang chói lòa vô cực vô biên, không hình không tướng, là một khối đại linh quang tỏa sáng khắp càn khôn vũ trụ! Cha thật của con đó! Thượng Đế đó! Không hình không tướng, là Đại Hồn bàng bạc khắp càn khôn bao la! Và rồi Đại Hồn tách rời ra Tiểu Hồn, Đại Ngã tách ra Tiểu Ngã để xuống thế học hỏi. Tiểu Hồn Cha ra đi xuống thế để học hỏi. Rồi học trược, nhiễm trược, mê trược. Trải qua bao nhiêu kiếp sống nó trở nên quên căn, quên cội, quên nguồn, quên nguyên lai bổn tánh. Nó quên rằng nó vốn dĩ là Đại Hồn của vũ trụ. Nó vốn dĩ không khác gì Đại Hồn của vũ trụ. Nó chính là Thượng Đế đó thôi!
    Và nó quên đi cái bản chất Thượng Đế của nó! Xuống cõi hồng trần, Tiểu Hồn Cha ngụp lặn trong bể trầm luân, xuống dưới nặng, học nặng, rồi mải miết đắm chìm trong cái nặng, nên nó không còn thấy nó là Thượng Đế nữa. Và đối với nó, Thượng Đế là một cái gì quá xa xôi, quá mơ hồ. Thượng Đế là cái gì quá vĩ đại, xa cách linh hồn nó quá đi thôi!
    Cho nên con ơi, Cha cảm thấy cô đơn vô cùng tận, vì các Tiểu Hồn của Cha không thấy được Cha của nó, không hiểu được nó là Cha nó, Cha nó là nó. Cái tình của nó đối với Cha nó, bỗng hóa ra xa cách, lạt lẽo, khiến cho Cha nó cô đơn, khiến cho Cha nó sầu tủi, và rồi ngày trở về của Tiểu Hồn thật không còn có hẹn! Cho nó ra đi, rồi không thấy trở về.
    Cho nên các con ơi, Cha khao khát các con tưởng đến Cha biết chừng nào! Cha khao khát các con nghĩ tới Thượng Đế bao nhiêu! Nghĩ tới Thượng Đế, hướng về Thượng Đế, nhớ về nguồn cội, để rồi phăng dần dần ra nguồn cội của mình, thấy lại được nguyên lai bổn tánh, rồi cuối cùng hợp nhất với Thượng Đế, hợp nhất là một với Thượng Đế, và thấy các con là Thượng Đế đó thôi! Cha mong sao các con hiểu được chỗ này.
    Nhưng các con ơi, phần đông các con đều còn kẹt trong vô minh, và thấy sự cách xa vạn dặm giữa các con đối với Thượng Đế. Cho nên, Cha thực xót thương, thật tủi buồn và thật cô đơn, khát khao tình yêu của các con đối với Cha không kể xiết. Ý niệm về Cha đối với các con thật quá vô cùng tận, cũng chính vì vậy mà rồi nếu ở trong Vô Vi thì các con khó mà nhận định Cha, khó mà hình dung ra Cha để tưởng nhớ Cha, cho nên Cha đã mượn phần hữu vi, hữu thể, tượng trưng Thượng Đế để cho các con hình dung ra được chút hình ảnh của Thượng Đế. Các con không thấy được Thượng Đế thì rồi Cha mượn phương tiện, Cha mượn phần hữu thể để cho các con hình dung ra được chút hình ảnh của Thượng Đế, để rồi tập cho các con tưởng nhớ tới Thượng Đế, hướng về Thượng Đế, và tưởng nhớ nguồn cội, rồi dần dần phăng ra đường về, cảm nhận lần lần, phăng dò, nhận thức lần lần cái nguyên lai bổn tánh của các con, để biết các con là ai? Từ đâu tới đây? Và rồi phải trở về đâu?
    Cho nên các con ơi, Cha khát khao biết bao nhiêu sự quây quần, tề tựu của các con ở quanh Cha, khi Cha xuất hiện ở cõi trần. Vì Cha trên kia, mặt Điển Quang Vô Vi thì các con không thấy. Cho nên, Cha xuất hiện và mượn cái hình dung hữu vi, hữu thể, để các con thấy được Cha gần với con, các con thấy rằng Thượng Đế có đây ở tại cõi hồng trần này, gần bên con đó, chia sớt ngọt bùi, lăn lóc với chúng con, ngụp lặn cùng với các con ở cõi trần này đó thôi! Cho các con thấy Thượng Đế gần với chúng con hơn, để gợi cho các con biết nghĩ tới tình Cha hơn nữa, yêu Cha hơn, nhớ Cha hơn, tưởng tới Cha hơn, để rồi lo mà trở về con ơi! Lo thức giác để quay về đó con!
    Nhưng rồi tại sao màn này Cha đóng cửa?
    Tại sao màn này, có nhiều con đến với Cha, muốn được vào một chút để diện kiến Cha, tâm thành khao khát được gặp Cha mà có khi không được duyên phước gặp. Con ơi con! Vì các con phải biết, màn này là màn Cha để khối trược làm việc, loạn động hoành hành. Cũng vì vậy, chưa phải màn Cha lộ diện, chưa phải lúc để các con gặp Cha. Cho nên nhiều khi xót xa đau long mà bế cửa. Có nhiều con từ các nơi đổ về, từ miền tây, miền trung, miền đông, các tỉnh, các nơi xa xôi, không ngại đường sá, không ngại nhọc nhằn, cũng đến với Cha, mong được diện kiến Cha, nhưng rồi Cha phải bế cửa, không cho các con này tiếp xúc, vì sao? Không phải không chứng tâm nó, không phải không hiểu lòng nó.
    Vì nó nguyện nó đến với Cha, Cha đã chứng rồi; chứng tâm nó và đến với nó bằng Vô Vi. Nhưng rồi, phần hữu vi của Cha thì phải hữu hạn và cũng có sự cách ngăn con. Cha chưa tiện, nên không thể cho gặp, vì cho con này gặp, thì phải cho con khác, rồi làn sóng khắp nơi càng lúc càng đổ tràn về. Màn này phương tiện hiếm hoi, các con đi cực khổ, nhọc nhằn, xa xôi, cách trở, đủ mọi khó nhọc, đủ mọi gian lao. Có nhiều con tận Cà Mau, phải di chuyển một cách hết sức là cực khổ, gian lao để lên được đến đây. Nhưng rồi, nếu Cha cho các con này gặp, thì cả trăm các con ở Cà Mau sẽ tràn lên nữa! Cho nên, cũng thấy chỗ nhọc nhằn này, vả chăng cũng chưa phải màn để cho Cha xuất hiện nhiều, nên Cha đành phải bế cửa, chưa cho gặp đó thôi. Nhưng lòng Cha rung động, cảm xúc, có khi các con bên ngoài nguyện với Cha, nói “Cha ơi! Cha cho con vô gặp Cha một chút.“ Lời nguyện này Cha bắt được luồng điển, nhưng rồi Cha không thể cho vô được. Cha trong này Cha cũng khóc! Để nó ra về trong này Cha cũng khóc thôi!
    Khát khao chúng nó đến với mình, mà mình không tiếp được nó bằng mặt hữu vi dưới cõi hồng trần, Cha cũng thấy lòng đau khổ. Nhưng rồi con ơi, vì chưa tiện nên các con cũng phải hiểu chỗ này.
    Nhiều con cũng buồn thấy mình chưa duyên phước, nghĩ rằng chắc Cha chưa chứng tâm, nhưng không phải vậy đâu con! Con nào tâm thành ý thiện, thực tình khát khao được gặp cha thì ắt Cha phải chứng tức khắc rồi, mặc dù không cho nó gặp, nhưng Cha cũng gặp nó bằng vô vi, Cha đến với nó bằng vô vi và ban cho nó chút ơn phước bằng vô vi. Nhưng vô vi thì nó không thấy, nó muốn thấy hiện thể bằng hữu vi, cho nó được nhìn, được nghe, thỏa mãn tấm lòng khát khao của nó. Cha cũng biết chứ con, nhưng vì chưa tiện đó thôi. Nên các con đừng nghĩ Cha không chứng mà buồn.
    Nói là nói vậy, nhưng vẫn có những con được chút may mắn duyên phước len vào gặp Cha. Cha nói bế nhưng cũng có đôi khi hé chút cửa, con nào có chút duyên lành hội ngộ trước ngày giờ cũng được diện kiến, hưởng chút hồng ân thanh điển, nghe một vài lời giảng dạy. Đấy, vừa qua Cha cũng còn hé một chút, nhưng nay đã đến lúc mà Cha phải bế chặt rồi. Vì như Cha đã nói, đã đến lúc ánh sáng phải ẩn dạng hoàn toàn, để cho bóng tối tràn lan thao túng và Cha phải đi vào Cơ Quy Ẩn thôi con!
    Cơ Quy Ẩn này Cha cũng quyết định từ lâu nhưng Cha dần dà một chút để ban phước cho chúng con đó thôi. Nhưng nay đã đến lúc Cơ Sát Phạt dữ, Quỷ Ma khối trược sẽ lộng hành, để khảo đảo trần gian. Cho nên, Cha lui vào Cơ Quy Ẩn để thể hiện sự công bằng theo định luật tiến hóa của càn khôn, vì đến lúc nó phải chuyển hóa như vậy. Cha đi theo Thiên Cơ, Cha đi vì đây là Thiên Ý. Các con phải hiểu chỗ này. Nhưng con ơi! Cha ra đi không có nghĩa là Cha không có đó với các con. Cha vẫn còn đó, bàng bạc trong không gian, bàng bạc ở khắp nơi, Thượng Đế ở đâu cũng có con!
    Phần hữu vi Cha vắng bóng, nhưng mặt vô vi Cha vẫn có bất cứ đâu. Cha vẫn ngự trong lòng chúng con, nếu chúng con muốn rước Cha, Cha vẫn đến với chúng con, nếu chúng con muốn nhớ Cha, Cha vẫn thăm viếng chúng con, an ủi chúng con khi chúng con khát khao mong chờ hồng ân Cha, mong chờ sự hiện diện của Cha để hóa giải và an ủi chúng con đó thôi. Cha ra đi đây, không có nghĩa là không còn Cha nữa. Cha ra đi đây, không có nghĩa trên con đường hành hương của chúng con, trên con đường phản bổn hồi nguyên không có Cha bên cạnh với chúng con. Cha vẫn bên cạnh chúng con để dìu dắt, âm thầm, lặng lẽ, không âm thinh, không tiếng nói bằng tai trần chúng con có thể nghe được, nhưng Cha nói nho nhỏ trong linh hồn chúng con. Cha nói nho nhỏ trong tâm chúng con với những con nào chịu tiếp xúc, chuyện trò, tâm sự với Thượng Đế, thì Cha vẫn cùng với các con tâm sự. Cha vẫn hằng hữu trong tâm các con đó!

    Âm thinh của Đại Hồn vẫn bàng bạc, vẫn chiếu rọi và vang lên lặng lẽ trong các con đó thôi! Cha vẫn cùng đi với chúng con nếu chúng con tưởng nhớ Cha, vẫn hiện diện bên cạnh và ngay trong con nữa. Trên con đường hành hương, nếu con nào quyết tâm đi và tưởng nhớ Thượng Đế, ắt phải có Cha cùng đi với nó thôi con! Cha là người bạn đường trung thành, thủy chung, trọn vẹn và trọn đạo với các con.
    Cha trung thành với các con từ thuở các con từ trên kia xuống dưới này, tiếp tục trung thành và thủy chung cho đến ngày con trở về thôi con!
    Không có bạn đường nào thủy chung hơn nữa! Không có bạn đường nào trung thành và trọn đạo hơn nữa. Cha đó con! Cha thật đó con!
    Cha trần gian của các con thì giỏi lắm chăm sóc và thương yêu các con vài mươi niên thôi, cùng lắm là trăm năm cũng hết, qua kiếp khác rồi thôi! Nhưng Cha đây con, Cha thật của các con thì tận tụy yêu thương chăm sóc các con từng giây phút, từ thuở các con xuống thế cho đến ngày về, hết kiếp này sang kiếp khác, ở cõi hữu hình cũng như cõi vô hình. Ở cõi hữu hình thì chăm lo theo cõi hữu hình. Khi con bỏ xác thân qua cõi vô hình lại tiếp tục chăm sóc linh hồn con ở cõi vô hình, và rồi tiếp tục như vậy hết kiếp này sang kiếp khác, từ ngày xuống thế cho đến lúc trở về đó thôi!
    Là người Cha hết sức tận tụy. Cha mà Mẹ luôn đó, vì chịu cực khổ, chịu
    khó nhọc, chăm sóc chúng con từng chút đó con, Cha Mẹ mà là bạn đường luôn nữa, bạn này trung thành luôn luôn, dẫn dắt luôn luôn và cùng đi với chúng con luôn luôn đó thôi!
    Cha đi cùng với chúng con trong định luật. Cha đi cùng với chúng con trong sự khảo đảo nghiệp chướng trần gian. Khi các con chịu sự khảo đảo của định luật nhân quả, Cha cùng đi đó thôi! Cho chúng con chịu trả quả, nhồi quả, sát phạt cũng là đi đó thôi, cũng là thể hiện tình yêu của Thượng Đế, vì linh hồn các con cần thiết chỗ này để tiến bộ, để thăng hoa, để hiểu biết, để được phong phú hơn, rồi có ngày trở về với Cha, việc nầy cần thiết để các con tiến hóa, để dẫn dắt con đi. Nếu không có những thứ này linh hồn các con không thể nào tiến bộ được!
    Cho con học hỏi, chăm sóc con, trui rèn con, huấn luyện giáo dục con để càng lúc càng hiểu, càng lúc càng mở trí, cho đến khi con trở về làm một với Cha, hợp nhứt với Cha, trở về là Cha đó thôi. Phản bổn quy nguyên, trở về nguồn cội.
    Cho nên các con ơi, hãy nhớ về Cha thật của mình. Và rồi luân lý ở đời dạy con phải tròn hiếu đạo với song thân ở cõi thế gian là để con có cơ hội học tưởng nhớ nguồn cội. Dạy con phải tưởng nhớ:

    “Công Cha như núi Thái Sơn
    Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra
    Một lòng thờ Mẹ kính Cha
    Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

    Thì những đứa trẻ nho nhỏ này được học những bài học giáo khoa thấp thỏi, cũng là dạy nó chữ hiếu đối với cha mẹ song đường. Để làm gì con? Để huấn luyện linh hồn nó tưởng nhớ tới cha mẹ trước mặt mình ở tại cõi hồng trần này, rồi từ từ nó dần dần hiểu biết, phăng ra nguồn cội, cho ra Cha mẹ thật, để biết tưởng nhớ công Cha nghĩa Mẹ trên kia mà lo trở về. Con ơi, rán nhớ rằng mình từ nguồn cội ra đi và phải trở về đó. Hãy biết Thượng Đế là Cha thật, luôn tưởng đến Thượng Đế, rước Thượng Đế đến với con, để rồi tâm thức luôn hiệp làm một với Thượng Đế.
    Cho nên, màn này Cha khuyên các con nên trì niệm “Nam Mô Ngọc Hoàng Thượng Đế Vô Cực Đại Thiên Tôn”. Niệm câu này để bảo hộ các con, nhưng nếu con chỉ nghĩ niệm câu này để được Thượng Đế hộ trì là con chưa hiểu nhiều, trí chưa mở lên cao được. Nên nhớ khi niệm câu nầy phải thức giác được nguyên lai bổn tánh, thấy được bản chất Thượng Đế của mình, thấy được mình là Tiểu Hồn của Thượng Đế xuống đây để học hỏi. Tên thật của mình là Ngọc Hoàng Thượng Đế. Chính danh của linh hồn con là Ngọc Hoàng Thượng Đế đó thôi. Nên khi con niệm câu này phải nghĩ điển của mình hòa với càn khôn vũ trụ, là một với Thượng Đế. Hiểu được chỗ này trí con sẽ mở nhiều hơn, linh hồn con chóng tiến bộ hơn vì điển của con ắt sáng hơn là khi con chỉ nghĩ niệm để được Thượng Đế phò hộ. Và nếu con hiểu được chỗ nầy, thì dù không cầu, không vọng, không muốn, con vẫn có sự hộ trì thôi. Vì điển con thanh hơn, sáng hơn thì bớt trược hơn, bớt trược là tự nhiên bớt khổ.
    Được bớt khổ có nghĩa là con đang được phò trợ, đang tự hộ trì mình nhờ con biết hợp nhất với Thượng Đế.
    Vậy khi niệm “Nam Mô Ngọc Hoàng Thượng Đế Vô Cực Đại Thiên Tôn” con nên nghĩ điển con hòa với điển của càn khôn, hợp nhứt với đại hồn vũ trụ. Rán nhớ chỗ đó dùm Cha đi! Con ơi, màn này là màn đại khổ, khổ nạn ở khắp nơi, ở bất cứ đâu, bất cứ giờ phút nào. Cho nên, con phải hợp nhất với Thượng Đế bất cứ đâu, bất cứ phút nào, nhờ đó điển được sáng hơn hầu giải bớt trược của mình, giải bớt chút khổ nạn cho mình đó thôi. Con rõ chưa? Ngoài ra màn này, trong cơn khổ nạn, chúng con rán giữ mình cho thanh, giữ được sự ổn định nội tâm, tức giữ trụ điển. Con ơi! Màn này khối trược hoành hành sát phạt, điển của chúng con dễ bị dao động, hỗn loạn, tư tưởng phân tán và điển dễ bị mất.
    Mất điển thì trược điển thế vào, con tức khắc bị nhiễm trược hơn, vậy là con tự động hút khối trược tới khảo đảo mình đó thôi. Con nào trược nhiều chừng nào khổ nhiều chừng nấy! Cho nên màn này phải rán giữ điển bằng cách, giữ sự ổn định nội tâm, tránh bớt những vọng động vô ích, các con nên quay vào trong, sống với nội tâm của mình, bớt vọng ra ngoại cảnh, vì vọng ra ngoại cảnh ắt bị đảo điên vì ngoại cảnh.
    Giờ đây bên ngoài hỗn loạn đảo điên, nếu hướng tâm nhiều bên ngoài con dễ bị dao động lo sợ, buồn rầu, phiền não. Con ơi, lúc nầy lo lắng, phiền não cũng không giải bớt khổ nạn cho mình đâu. Vì Khi con vọng động lo lắng đủ thứ chuyện khổ, con chỉ làm cho thần tán loạn, điển lực suy mất. Điều nầy đã chẳng những không giúp ích con giải bớt nạn khổ do nghiệp lực mà còn làm con thêm khổ nữa. Nên con ơi, màn này hãy vững tin ở sức mạnh thiêng liêng, vững tin ở Trời, hợp nhứt với Thượng Đế, tưởng nhớ Thượng Đế và rồi Ngài sẽ cùng gánh khổ, cùng chúng con lướt dặm qua những chông gai khó khăn thử thách hiểm nghèo. Nếu con nhớ Thượng Đế luôn luôn thì ngài sẽ cùng sinh hoạt với con ở bất cứ đâu và bất cứ giây phút nào.
    Ngoài ra nhớ tập ăn chay trường đi con. Con nào chưa ăn được gấp rút lo ăn đi! Con nào ăn rồi rán giữ hạnh trường chay. Điều nầy quan trọng và cần thiết lắm Cha mới nhắc nhở kêu gọi. Cơ chết chóc, khảo đảo trần gian, khối trược sẽ sát phạt rất dữ, con nào còn rước trược điển loài thú vô bản thể có lúc sẽ bị khảo đảo nhiều lắm nghe con! Màn nầy trược khí ngất trời, chúng con vốn dĩ phải ít nhiều bị ô nhiểm, thì con ơi! Đã chẳng những không tống bớt trược ra mà còn rước thêm trược điển vào làm gì nữa con! Đó có phải chăng các con tự khảo mình, tự đem cái khổ thêm cho mình, và tự làm mình nặng nề thêm đó thôi con! Nhiều con trong phái Vô Vi hay ỷ lại vào Pháp Luân có thể tống bớt trược, cũng có, nhưng Cha cho biết, hành Pháp Luân màn này không hữu hiệu bao nhiêu! Vì trược khí quá dày, âm khí quá nhiều, các con mỗi lần Pháp Luân Thường Chuyển hít vào không được bao nhiêu dương đâu, âm nhiều lắm con! Âm khí, trược khí nhiều, đem cái thanh vô rất ít. Cho nên màn này Cha khuyên các con nên siêng năng vận Pháp Luân, là để được dương nhiều một chút mà nhờ trong cơn khổ nạn này đó con! Phần đông dạo nầy con Công Phu thấy nặng nề hơn trước nhiều lắm. Cha biết, màn nầy con thiền thấy khó hơn, thấy nặng, thấy động nhiều hơn. Cho nên phần Công Phu các con phải cố gắng mười lần hơn trước. Siêng năng vận Pháp Luân Thường Chuyển cho nhiều để giải bớt trược.
    Đấy, con vận dụng mọi phương tiện, mọi cách thức giải bớt trược để bớt khổ, thì con ơi, có đâu con lại đem điển các loài thú vô bản thể làm gì nữa? Trược nhiều thì khổ nạn nhiều, đem điển trược thú vô rồi có lúc chúng khảo con đó thôi. Nay mai các con sẽ thấy tràn lan những cảnh bị xâm nhập. Nếu con không biết giữ mình, để mình tán loạn, mất điển, trược nhiều, thì sẽ có nhiều đứa trong chúng con bị xâm nhập, có thể bị phần điển của các vong linh hoặc những phần hồn thú xâm nhập khảo đảo.
    Màn nầy con nào thiếu tu, thiếu phước có nghiệp nợ với chúng nó, luật Trời sẽ cho chúng nó tự do lộng hành, khảo đảo các con theo nhân quả.
    Những phần xâm nhập nầy sẽ sát phạt, quấy phá, khảo hành các con bệnh hoạn tinh thần lẫn xác thể hay bị gánh chịu những xui xẻo khổ nạn không chừng. Vì điển con trược nhiều hơn, phần hồn suy yếu sẽ là mục tiêu mời gọi những phần trược điển ở cõi vô hình tá vào, xâm chiếm, xúi dục con hành động theo ý của chúng nó. Nó sẽ phá điển, lấn áp phần hồn con để có thể tá vào hành động theo ý chí của chúng nó và sát phạt trần gian. Cha cho biết như vậy, vì màn này chúng nó rất cần phần hữu vi để Khối Trược Vô Vi làm việc. Cho nên con nào trược nhiều, nặng nề nhiều, hạp điển với chúng nó, cũng trược như chúng nó, chúng nó sẽ tá vào để sử dụng các con. Cho nên rồi đây các con sẽ thấy đủ mọi hiện tượng hỗn loạn đảo điên, đủ thứ những cảnh như vậy ở trần gian. Rồi bị xâm nhập điên lên thiếu gì con! Bị tà xâm, bị bệnh hoạn, đủ thứ nạn khổ. Con nào thiếu tu, thiếu phước, có duyên nghiệp với nó bị nó chiếm làm việc cho nó, ắt có khi sẽ chịu nghiệp lực kéo đi luôn.
    Khối trược sẽ kéo đi với chúng, rồi có khi văng luôn trong màn này. Cha cho biết như vậy.
    Cho nên gấp rút ăn chay trường đi con, cần lắm con ơi! Cha khuyên và nhấn mạnh chỗ này. Rồi đây sẽ có khổ nạn chết chóc dữ lắm. Màn này các con chỉ còn trốn trong phước đức. Giải bớt nghiệp sát càng nhiều càng hay. Trước đây mình vay quá nhiều, giờ đây giải nó bớt đi con!
    Ăn chay trường con ơi! Con nào khó ăn, rán chút đi con! Cha biết, ăn chưa quen, Cha hiểu, Cha cảm thông những cái khó khăn của chúng con. Nhưng đây không phải là lúc để chê ngon dở, không còn là lúc để các con quá chú trọng đến thích khẩu nữa rồi! Đây là lúc ăn để sống, sống cho qua ngày đoạn tháng. Con nên tập cơ thể quen với thảo mộc, quen với những thức ăn đạm bạc đơn giản. Đó là một cách để tránh cho con bớt khổ. Mình đã tập cái xác thể này nó quen đòi hỏi với quá nhiều nhu cầu cho nó, thì rồi có lúc con sẽ phải khổ vì chuyện nầy. Có lúc nó sẽ trở thành sự khảo đảo các con khi nó không còn điều kiện để vừa ý nữa. Cho nên tốt hơn con tập cho nó quen dần theo ý mình, theo ý chí của linh hồn mình. Đấy có nghĩa là các con tự giải cho mình bớt khổ trong màn nầy đó thôi.
    Và còn điều tối quan trọng Cha muốn nhấn mạnh trước giờ Cha ra đi là bằng mọi giá các con phải rán giữ sự ổn định nội tâm, rán giữ điển, tránh hoang mang dao động. Vì, cảnh khổ ắt phải có, con đã có ý niệm về việc nầy thì cứ bình tĩnh tiến bước qua những truông khổ nạn với bộ áo giáp. Áo giáp gì? Áo giáp phước đức của chúng con đó, và chỉ có cái áo giáp này là hữu hiệu thôi con! Không có cái áo giáp nào che chở được cho con ngoài cái áo giáp phước đức trong lúc này! Có cái áo giáp này, cho dù chúng con ở bất cứ đâu, trong tên bay đạn lạc, trong hiểm nguy, trong khổ nạn, các con cũng có thể qua được đó thôi. Vì màn này tiền không cứu được con, vàng không cứu con, cửa nhà còn hại con nữa. Nhà cao cửa rộng giờ đây khiến con nơm nớp lo bị mất. Vàng nhiều thì sợ bị lấy đi.
    Của cải nhiều thì sợ bị tịch thu. Con thấy chưa con! Những cái này nó khảo đảo chúng con đó thôi!
    Cho nên con ơi! Không có gì cứu được con, chỉ có phước đức giúp chúng con tự cứu đó thôi. Vậy chỉ còn cách vun trồng cội phước, chỉ có khoác cho mình cái áo giáp phước đức và trốn trong phước đức là hữu hiệu mà thôi. Chớ rồi không phải nghe nói khổ nạn là đi vô trong hang mà trốn. Cũng không phải nghe nói hiểm nghèo rồi kiếm ghe tàu mà đi. Con ơi con! Vì hiểm họa nó ở bất cứ đâu, khổ nạn ở bất cứ chỗ nào. Nếu các con bị sát phạt, chịu khảo đảo, khổ nạn, do nghiệp lực của mình, thì con ở đâu cũng vậy thôi! Cho nên chỉ trốn trong áo giáp phước đức thôi con. Con ơi, màn này không tu là một thiệt thòi rất lớn. Phải tu con! Giữ sự ổn định, đừng quá hoang mang, đừng vọng động ngoại cảnh. Màn này khối trược sẽ tung đủ thứ chuyện để gây cho con dao động. Nên Cha cho rõ, cái gì làm cho ổn định là làm việc cho khối thanh, cái gì làm cho hoang mang dao động là phần việc của khối trược. Cho nên màn này con rán giữ mình ổn định và giúp người ổn định. Ai dao động hoang mang, tán loạn nhiều thì mình nên nâng đỡ tinh thần người ta bằng một vài lời khuyên nhủ, khuyến khích và giúp người được yên hơn. Ai giúp người khác được yên, được ổn định là làm việc của khối thanh. Ai làm cho người hoang mang dao động để thoái bộ tâm linh là làm việc của khối trược. Làm việc cho khối thanh là công quả, làm việc cho khối trược thành nghiệp quả.
    Các con nên chọn công quả mà làm, đừng gieo nghiệp quả để gánh. Cha khuyên nhủ các con chỗ này, rán nhớ đừng gây hoang mang, dao động. Nên giữ nội tâm ổn định và đồng thời phổ hóa sự ổn định này ra chung quanh, cho nó tràn lan để những người chung quanh mình được ổn định. Đó mới là tu! Người tu phải thực hiện được chỗ này. Tránh gieo rắc những loạn động vô ích. Gần đây, có những luồng dư luận gây hoang mang trong quần chúng, nói về Cha, phê phán Kim Thân Cha, gây dao động trong cơ đạo. Cha khuyên nhủ các con, nên nhớ giữ sự ổn định.
    Nếu ý niệm về Cha, hoặc những câu nói, hành vi, hình ảnh của Cha mà giúp các con ổn định, giúp con mở trí, hướng thượng thì con nên giữ đó để tiến hóa, mượn đó làm phương tiện tốt lành giúp mình tu học tiến bước. Còn cái gì khiến con nghe mà hoang mang, thôi thì con cứ gạt nó sang một bên. Mình không biết rằng chuyện này có hay không, nghe nói Cha thế nọ thế kia, hay không chơn chánh, hay cái gì đó mà làm mình dao động hoang mang, các con gạt sang một bên cho Cha đi, gạt Cha sang một bên để các con ổn định. Vì Cha cho biết, đối với Cha, sự ổn định của chúng con mới là điều tối hậu và khẩn thiết cho lúc này.
    Nếu vì Cha mà hoang mang thì hãy gạt Cha sang một bên để giữ con được ổn định, lo tu chơn chánh và giúp kẻ khác ổn định, đó con!
    Cha cho rõ, Cha không cần gì uy danh Cha, Cha cần sự ổn định của chúng con. Vì hôm nay chưa biết Cha, ngày mai sẽ biết Cha. Chuyện đó là chuyện dĩ nhiên. Thấy tối đây, ngày mai sẽ sáng. Thấy nhục đây, ngày mai sẽ vinh. Các con ơi, tụi con chưa đủ trình độ để hiểu được Thượng Đế.
    Cho nên, Cha khuyên các con đừng dao động, cũng không phán đoán. Màn này đừng phê phán ai, ngay cả giữa chúng con với nhau, giữa con người với con người, Cha không nói giữa chúng con với Cha mà Cha nói, thí dụ, giữa con người với con người. Giữa một người với một người thì sự sái quấy của người khác mình cũng không nên tỏ thói lắm điều phê phán làm gì. Mình nên quay lại lo phê phán mình trước đã, lo quét cái đống rác của mình, lo thấy cái dơ của mình để quét nó ra, để mình được tiến bộ. Mình chỉ thấy cái đống rác của người, mà không thấy cái đống rác của mình, mình sẽ thoái bộ, con thấy chưa?
    Cho nên, người thực tâm tu phải biết quay vào trong kiểm soát mình, tống rác rưởi của mình để mình được sạch thêm. Đống rác người ta mình thấy, đống rác của mình thì mình quên đi, cá nhân này không thể nào tiến bộ được con! Ai làm sái quấy có luật Trời.
    Luật Trời biết lo cho nó hơn con, thấy và xét nó rõ hơn con. Thượng Đế thấy và biết nó hơn con. Cho nên, các con khỏi lo, và rồi dù Cha đây có sái quấy thế nào cũng có luật Trời! Các con lo gì chỗ này, có luật Trời hành xử và tác động luôn luôn. Vậy các con lo gì?
    Cho nên, nếu con hoang mang, không biết những gì mình nghe nói về Cha có đúng hay không, Hoặc mình nghe nói rồi đâm ra buồn ý thất vọng nản chí, Cha khuyên con nên gạt sang một bên. Nhiều con nghe rồi đang tu bỏ tu, đang ăn chay bỏ đi ăn mặn. Nhiều con quyết định ở đây tu, giờ đây nghe Cha thế nọ thế kia đâm nản, quyết định kiếm ghe tàu vượt biên cho rồi.
    Con ơi! Con nên nhớ con tu con nhờ, con tu để con trở về, con tu cho con. Con nào trở về Cha cũng sung sướng lắm, nhưng con phải thức giác để hiểu rằng con tu cho con nhờ, con tu cho phần hồn con. Cho nên con phải rán lo cho con chớ con! Vì Cha rồi bỏ tu hay sao! Chưa biết sự việc thế nào, chơn giả ra sao, rồi nghe, rồi phán đoán nọ kia, rồi dao động, nản chí, hoang mang. Cha khuyên các con, giữ sự ổn định cho Cha đi. Cái này cần thiết lắm để cứu các con trong màn này. Cha nói thật, Cha chưa cần con nào tin Cha, Cha chưa cần con nào biết Cha. Con nào biết đây là Cha, tin đây là Cha thì phước cho nó, mừng cho linh hồn nó, vì nó được hưởng sớm hơn bao đứa khác. Nhưng rồi, nếu nó chưa biết đây là Cha, nếu nó chưa đặt niềm tin đây là Cha. Cha cũng chưa cần nó tin! Cha chưa cần ai tin Cha: Nếu cần các con tin Cha đã mở cửa tiếp khách rồi. Nhưng con thấy Cha đóng cửa không tiếp khách. Cha cũng chưa hề kêu con nào tới đây để tin Cha! Các con nên nhớ, Cha vẫn thường nói trong những buổi tiếp xúc với một vài đứa nào có duyên phước gặp Cha: “Này con, các con ở nhà, con tưởng đến Cha ắt có Cha rồi, không nhất thiết đến đây mới có Cha, vì Cha ở khắp nơi, không phải chỉ ở đây mới có Cha!“
    Cha vẫn nói điều này. Và Cha cũng thường nói “Con ơi! Cha cũng chưa cần con tin Cha. Tin mà không tu, không bằng không tin mà tu.“
    Cha nói câu này thường lắm và hôm nay Cha cũng lặp lại. Vì không tin mà chịu đi thì cuối đường kia nó phải thấy Cha và lúc đó tự nhiên nó phải biết Cha thôi. Tin mà không tu tức là con không chịu đi, mà không đi thì làm sao tới, làm sao có lúc thấy Cha thật sự. Thì cái tin này chỉ là một thứ mê tín mà thôi. Cha không khuyên các con mê tín, Cha muốn các con chánh tín vì chánh tín mới về đến chân lý còn mê tín không thể nào về được tới đó. Các con phải chánh tín, rằng tin nơi Thượng Đế, tin nơi chơn lý hằng hữu, nhưng rồi trong chánh tin. Cha không khuyên con nào tin Cha. Cha cũng không mở cửa đón con nào đảnh lễ Cha. Cha không kêu con nào tới để Cha tiếp khách đảnh lễ. Các con nghe rõ chưa?
    Các con vẫn thường nghe Cha bế cửa không tiếp khách. Cha cũng không rước khách đảnh lễ. Cha cũng không kêu “Ờ, các con ơi, tới đây để tin Cha.” Để rồi có cái phong trào ở bên ngoài bây giờ kêu gọi đừng ai tin Cha! Cha đâu có kêu ai tin Cha. Lo ở nhà tu cho Cha đi, giữ sự ổn định nội tâm. Cái này chơn chánh và cần thiết để cứu độ chúng con đó thôi. Còn phần Cha thế nào rồi thời gian sẽ chứng minh sự kiện. Thời gian sẽ chứng minh, lịch sử sẽ phê phán đó thôi. Dòng lịch sử lúc trầm, lúc thăng, lúc vinh, lúc nhục. Rồi từ từ, những sự kiện của lịch sử sẽ thể hiện để chứng minh theo dòng thời gian biến hiện cho sự thật mà thôi. Cái gì không phải là sự thật thì nó phải bị đào thải! Cái gì không chơn chánh rồi phải bị đào thải bởi luật Trời. Cho nên, các con nhớ chỗ này, hiểu được chỗ này, rồi yên ổn lo tu, đừng hoang mang, đừng vọng động.
    Sự thật bao giờ cũng là sự thật. Không có cái gì khỏa lấp được sự thật! Sự thật có bị che đi vì sự ngu muội thế gian, nhưng cuối cùng rồi có lúc nó phải lộ diện mà thôi. Vầng trăng có lúc mây che ám, nhưng phải có lúc gió thổi mây tan. Bóng nguyệt vẫn làu làu tỏa sáng chiếu diệu cho thế gian đó thôi. Các con nên hiểu chỗ này để giữ ổn định nội tâm đừng hoang mang. Thật tình, Cha cũng không khuyên con nào tin Cha. Nếu nó biết đây là điển Trời thì phước cho nó!
    Cha nói thẳng, nếu con biết đây là điển của Thượng Đế đang ngồi nói chuyện với chúng con thì tâm thức chúng con sẵn sàng mở ra hơn để đón nhận, nhờ vậy mà con được tiếp điển và hưởng ân điển nhiều hơn. Những con nào có tâm cố chấp nghi ngờ tỵ hiềm, dĩ nhiên nó phải hưởng ít hơn vì nó đã tự đóng lại với ân điển ban cho nó. Sự kiện đó thực sự diễn ra như vậy. Tuy nhiên, nếu con nào nghi ngờ thì nó có quyền nghi, vì đây là quyền của nó và trình độ của nó.
    Nhưng rồi các con nên nhớ, không tin, không biết phải hay không, mình cũng không nên xúc phạm. Cha cho biết, xúc phạm khinh thường cũng là một hành động sái quấy, một biểu hiện thiếu đức từ bi là hạnh cần thiết tiến lên của người tu. Người tu không lấn áp ai, không xúc phạm ai, không khinh thường ai, hạnh bác ái của người tu đó con. Giữa con người với con người, nếu là người biết tu, vì đức bác ái mình sẽ không xúc phạm ai, không khinh thường ai. Chớ rồi, huống chi đây là một vị mà mình không biết thế nào. Cha khuyên các con, không cần tin Cha nhưng rồi hãy nghe Cha nói và nhận xét nếu thấy là lời chơn chánh, là phải lý, nếu làm cho nội tâm con được cởi mở thăng hoa, nghe mà được mở trí, tư tưởng được hướng thượng ổn định hơn, thì các con hãy ghi nhận để làm phương tiện tiến bộ cho linh hồn. Nếu thấy rằng không phải là chơn chánh, không hợp lý, thì các con cứ gạt một bên, không cần phải giữ trong trí để hoang mang vô ích. Vậy thôi con! Nếu không tin đây là luồng điển quang của Thượng Đế thì chỉ cần nghĩ rằng đây là một con người, và con người này nếu giúp cho mình được một vài câu để cho mình mở trí thì là thầy của mình trong lúc đó, thầy của mình trong câu nói đó. Và rồi giữ chút lễ độ đối với vị đó đủ rồi.
    Cha nói thật, việc các con dao động, hoang mang, nghi ngờ vì nghe những luồng dư luận để rồi nản chí, ngã lòng, tinh thần rã rời, rồi thoái bộ, bỏ đạo hạnh, bỏ tu. Việc này thật tình làm Cha đau khổ biết bao nhiêu! Cha không khổ vì uy danh sứt mẻ, vì chơn lý lúc nào cũng là chơn lý, làu làu tỏa sáng. Bữa nay không biết Cha, ngày mai cũng sẽ biết mà thôi. Nhưng có điều con cái của Cha vì những cái này mà thoái bộ, động loạn, hoang mang, thiền không được, điển bị trược đi, nặng nề hơn, trược nhiều hơn, vì vậy mà chịu khảo đảo nhiều hơn. Việc nầy khiến Cha đau lòng quá đi! Đang tu rồi bỏ tu. Con ơi con! Con phải tu để con nhờ chớ con! Linh hồn con cần phải tiến bộ luôn luôn, con nhớ điều thiết yếu đó dùm Cha đi. Đó là mục tiêu tối hậu mà con không được quên hay thờ ơ với nó!
    Cha chỉ là phương tiện phục vụ chơn lý, nếu con xét thấy không phù hợp thì gạt sang một bên. Các con có thể không cần tin Cha, không sao, nhưng nếu các con bỏ tu thì bao giờ mới về tới nơi con! Việc nầy khiến Cha đau xót biết bao nhiêu, khóc nhiều cho những con bị thoái bộ rớt rơi! Các con ơi, thôi thì cũng đừng phán đoán Cha. Bây giờ con nên quay vào trong, lo quét sạch cái rác rưởi của mình. Cứ nghĩ rằng vị đó sái quấy đã có luật Trời phân xử. Vị đó phải có trách nhiệm trả lời trước luật Trời và gánh chịu quả báo. Còn mình, mình nên lo cho mình, lo cái định luật tác động lên linh hồn mình đây.
    Mình phải đi, mình phải tiến, mình phải giữ ổn định trong lúc này bằng mọi giá! Màn này mà để hoang mang, để trược nhiều, ắt phải rước nạn tới khổ tới khảo đảo chúng con. Rồi con của Cha bị rơi rớt, rớt rơi mà thôi!
    Con ơi, đây là cơ khảo thí, là Cơ Sát Phạt, con nào không giữ mình sẽ bị rơi rớt trên con đường hành hương đó thôi. Thôi thì nếu chưa nghĩ rằng đây là Cha thì cũng tưởng Cha trên kia, nhớ Thượng Đế trên kia. Chưa thấy được Cha ngồi đây, vì thực tình chỉ những đứa có huệ nhãn, có trình độ mới thấy Cha ngồi đây, thì phải biết là Cha đây con!
    Nhưng rồi tụi con ngu muội vô minh, nhìn Cha cũng chỉ thấy phần hữu thể của Cha và nghe Cha nói thôi. Thôi thì con cứ nhớ Thượng Đế trên kia để lo tu mà về. Vả chăng con không tưởng nhớ Thượng Đế thì cũng nghĩ thương linh hồn mình đi, đừng để nó nặng nề trọng trược.
    Các con đã giam nhốt nó nhiều rồi, giam nó vào cái ngục tù bản thể của chúng con biết bao nhiêu kiếp rồi. Phải giải phóng nó đi con, phải mở cho nó ra, tháo bỏ xích xiềng, giải bớt trọng trược, cho nó thăng hoa để nó đi về chớ con! Đem nó đi lên đi con. Nên thương xót nó một chút bằng cách lo tu, chớ đừng làm linh hồn con quá khổ đó con!
    Thôi thì hôm nay Cha có vài lời khuyên các con hãy giữ sự ổn định, rán lo tu, rán tạo cái áo giáp phước đức để mặc nhờ cái thân, hầu vượt qua được những chặng gian lao khổ nạn trên con đường hành hương về chốn cũ. Thử thách ắt phải có, vì có thử thách mới có trui rèn. Có trui rèn phần hồn mới có tiến bộ. Các con nhớ chỗ nầy để phấn đấu vươn lên tiếp tục dấn bước, giữ vững niềm tin và hy vọng. Nếu ai hoang mang trong huynh đệ, con nên khuyên những gì Cha nói, cố nâng đỡ tinh thần và giúp người ta ổn định trong lúc nầy, đây là công việc cứu khổ của khối thanh và là công quả đó!

    Thôi, thì cũng tạm đủ cho những giây phút ngắn ngủi của buổi chia tay. Các con rán ghi lòng tạc dạ.
    Cha ban ơn cho tất cả các con.
    ****************************

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. TRuyện về bùa lỗ ban(sưu tầm)
    By nghichngom85 in forum Thế Giới Bùa Ngải
    Trả lời: 14
    Bài mới gởi: 08-01-2012, 05:49 PM
  2. BÍ MẬT THÚ VỊ VỀ LINH HỒN LUYỆN NGỤC
    By satyaa in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 7
    Bài mới gởi: 28-04-2011, 10:26 PM
  3. AI hiểu biết về kiếm thuật TQ cho em làm quen.
    By silksword in forum Hỏi Đáp, Tư Vấn
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 25-03-2011, 02:09 PM
  4. Tìm về kinh đô bị chôn vùi 400 năm trước
    By KhangThien in forum Truyền thuyết - Giai thoại - Lịch sử VIỆT NAM
    Trả lời: 6
    Bài mới gởi: 09-02-2011, 10:32 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •