kết quả từ 1 tới 3 trên 3

Ðề tài: Sơ lược tiểu sử nabi muhammad (saw)

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định Sơ lược tiểu sử nabi muhammad (saw)

    Sơ lược tiểu sử Nabi Muhammad (Saw) » được chia ra làm ba phần, đây chỉ là sự tóm lược tiểu sử của Người (saw). Insha-Allah, Chanlyislam.net sẽ phát hành quyển sách « Tiểu sử Nabi Muhammad (saw) » trọn bộ dày khoảng 300 trang, do Mohamad HOSEN chuyển ngữ. Insha-Allah khi nào xong chúng tôi sẽ giới thiệu đến tất cả độc giả, mong quí vị nhớ đón xem.


    مختصر عن حياة الرسول الله صلى الله عليه وسلم.








    Islam là tôn giáo của Allah truyền xuống nhân gian từ thời khai thiên lập địa, do tổ tiên của nhân loại là Nabi Adam (A) truyền đạt. Islam được những Thiên Sứ sau đó truyền lại với hình thức khác nhau về giáo lí hay luật lệ để áp dụng nhưng cùng một chủ thuyết là chỉ tôn thờ ở Allah duy nhất và không thờ phụng ai khác bên cạnh Ngài. Đó cũng là nhiệm vụ đầu tiên của mỗi vị Thiên Sứ (Sứ Giả của Allah) trên trái đất này. Sứ mạng kêu gọi nhân loại trở về tôn thờ nơi Allah duy nhất xuất phát mạnh mẽ nhất từ thời của Nabi Noah (Alaihissalam) vì con người bắt đầu sai lầm, đưa nhân tạo lên để tôn thờ chung hay đồng đẳng với Allah.








    Trong thiên kinh Al Qur’an, Allah chỉ nhắc đến hai mươi lăm danh của Sứ Giả. Nhưng thực tế, Allah đã gửi xuống trên trái đất này vô số Sứ Giả. Những vị Sứ Giả vô danh khác của Ngài mà chúng ta không biết được. Vị Thiên Sứ cuối cùng của Islam là Nabi Muhammad (saw) được Allah truyền xuống cho toàn nhân gian như ý nghĩa Allah đã phán trong Qur’an :








    قال تعالى: ( ومآ ارسلناك إلا كآفة للناس بشيرا ونذيرا ولكن اكثر الناس لا يعلمون ). سبأ :28








    « Ta chỉ phái ngươi (Muhammad) xuống để truyền tin mừng và để cảnh cáo nhân loại nhưng đa số con người không biết điều đó ». S. 34 / A. 28








    Alhamdulillah, xin chân thành ca ngợi và tạ ơn Allah đã tạo ra chúng ta trong gia đình Islam và trở thành môn đệ của Thiên Sứ Muhammad (saw). Tiếc thay, trước kia chúng ta không có nhiều điều kiện thuận tiện để tìm hiểu sâu sắc về tiểu sử của Rasul Muhammad (saw). Ngày hôm nay, thật hãnh diện biết bao, chúng ta đã có rất nhiều phương tiện để học hỏi về lịch sử Islam, tiểu sử của Thiên Sứ (Saw) cũng như tiểu sử của những vị sohabah (bạn đồng tâm) của Người đã chịu đựng bao khổ cực và hi sinh cả cuộc đời để gây dựng và phát triển đạo giáo đến ngày hôm nay. Chúng ta là những người mang danh môn đệ của họ nên phải học hỏi từ họ để lấy đó làm gương và phương châm để áp dụng vào cuộc sống hàng ngày. Vì nhu cầu cần thiết này, hôm nay, chúng tôi xin trình bày về tiểu sử của Nabi Muhammad (Cầu sự bình an cho Người) để cùng nhau học hỏi về cuộc đời của Người với mục đích hiểu biết thêm về thực chất của Islam.








    Vài dòng sơ lược về bán đảo Arab.








    Bán đảo Arab nằm về phía tây của Châu Á, bắc giáp Syria và Palestine, nam giáp vịnh Adan (nam Yemen) và biển Ấn Độ Dương, đông giáp vịnh Ba Tư và vịnh Umman, tây giáp vịnh Kholij (Kuwait, Bahrien) cửa Mandub và biển Đỏ. Diện tích của bán đảo khoảng một triệu dặm vuông, dài một ngàn bốn trăm dặm, dân số khoảng bảy triệu. Bán đảo Arab gồm các xứ Yemen, Al Hijaz, Tihama, Nad, Yamamah và Bahrien. Điều phỏng định này được viết trước khi vương quốc Saudi thành lập.








    Bán đảo Arab được chia ra thành nhiều tiểu vương nhỏ khác nhau, lệ thuộc vào những bộ lạc xa xưa đã sinh sống tại đấy. Allah đã chọn đa số những Sứ Giả của Ngài từ những dân tộc này để truyền bá đạo giáo nhưng phần đông dân chúng khước từ theo đạo nên đã bị những hình phạt tàn khốc đến mức bị xóa tên trên bản đồ. Nhiều vùng, Allah đã lật ngược mảnh đất lại như thời của Sứ Giả Load (A) qua những hành động ngược lại sự thiên tạo của Allah. Họ đã mắc phải những căn bệnh của dục vọng cá nhân mà ngày nay lịch sử thế giới lặp lại. Đó là loại bệnh ghê gớm nhất mà Islam lên án khắt khe : bệnh đồng tính luyến ái. Ngoài ra, còn có câu chuyện của Saba’a, câu chuyện của Nabi Salomon đều xảy ra trong bán đảo Arab.








    Ngày xưa, người Arab Yemen đã biết xây đập dẫn thủy, cày cấy, biết xây cất nhà cửa, nhà lầu trong hang núi rất khang trang. Họ biết tổ chức những đoàn kị binh với hàng loạt con voi dẫn đầu, lập những đoàn quân bộ binh và huấn luyện tinh nhuệ với kỉ luật rất khắt khe và chiến lược tinh vi.








    Bên cạnh đó, còn có câu chuyện mà người Muslim không một ai lại không biết. Đó là câu chuyện của Nabi Ibrahim (A) với vợ là bà Hajaroh và đứa con là Nabi Ismael (A). Từ đó, mới có giếng nước zamzam, kurban (tế lễ) Nabi Ismael (A) và xây cất Ka’bah mà người muslim đều hướng về đó khi hành lễ và đi hành hương. Nhờ có giếng nước zamzam, bộ lạc Arab Al Khohton mới đến thung lũng Mecca hiểm nghèo này sinh sống. Nabi Ismael (A) lớn lên, lập gia đình với con gái của bộ lạc này. Sau này, Nabi Ibrahim (A) được lệnh của Allah cùng với Nabi Ismael (A) xây cất đền Ka’bah để làm trung tâm điểm của người Muslim để cầu xin Allah. Từ đó, cuộc sống ở Mecca bắt đầu trở nên phồn thịnh. Hàng năm, có cả triệu triệu người Muslim đến thi hành nghĩa vụ thứ năm trong Islam là hadj (hành hương) như ngày hôm nay chúng ta đã được biết và có dịp đi đến đền ka’bah và sự thi hành của chúng ta ngày hôm nay cũng phát nguồn từ đó.








    Đoàn binh voi tinh nhuệ.








    Một sự thể quan trọng khác xảy ra trong lịch sử của Arab đó là vào năm 570 Tây lịch, đoàn voi hộ tống đoàn binh của Abroh xứ Yemen đem quân sang tàn phá đền Ka’bah. Đây cũng là năm mà Nabi Muhammad (saw) ra đời. Câu chuyện xảy ra sau khi hoàng đế As Sobah Asram nắm quyền ở Yemen. Ông ta ra lệnh cho xây cất một nhà thờ ở Qulais lớn nhất bán đảo. Nhà thờ được dựng lên với những tảng đá kiên cố, quý giá, cây cối thật chắc, có viền vàng, viền bạc nhằm quy tụ những thương buôn và những người dân ở bán đảo đến hành hương. Họ muốn tất cả đều tụ tập tại đó nhằm bỏ rơi Mecca có đền Ka’bah mà người Arab đã chiêm ngưỡng từ xưa và mục đích quan trọng của vua Abroh là kêu gọi người Arab vào đạo Thiên Chúa vì lúc đó Abroh được sự bảo hộ của vua Habashi (Ethopia). Đây là trung tâm lớn nhất của đạo Thiên Chúa ở Phi Châu vào thời đó.








    Khi những tin tức và sự thể được loan truyền khắp nơi trên bán đảo, những người Arab thuộc bộ lạc An Nasa’ah phá lệ, động quân và chém giết nhau vào những ngày tháng cấm. Họ đem quân đến Yemen phá việc xây cất nhà thờ này. Vua Abroh nổi giận và thề là sẽ đem quân tàn phá Ka’bah không để cho một ai chiêm ngưỡng nữa, rồi họ đã thi hành. Họ dẫn theo 13 con voi với đoàn quân tinh nhuệ để tàn phá Mecca và để người Arab không còn có nơi thờ phụng nữa mà quay về Yemen.








    Đoàn quân dựng binh ở gần Ta-if, cách xa Mecca sáu, bảy chục cây số. Abroh sai một vị tướng tên là Al Aswad ibnu Mahsud đến cướp phá của cải dân chúng Mecca và bắt đi một trăm con lạc đà của ông Abdul Muttalib (lúc đó, ông là lãnh tụ của dân Mecca). Sau đó, ông Abdul Muttalib (ông nội của Rasul) được Abroh mời đến để điều đình về những việc xảy ra. Khi hai người gặp nhau, với bản lĩnh và tính tình cao thượng của ông Abdul Muttalib, vua Abroh đã mời ông ngồi ngang hàng với ông ta. Ông Abroh hỏi ông Abdul Muttalib muốn gì. Ông Abdul Muttalib trả lời : « Tôi là chủ nhân của một trăm con lạc đà mà quân sĩ của ông đã cướp lấy. Tôi muốn nói chuyện về việc này. Còn Ka’bah thì có chủ của nó. Chủ nhân của nó sẽ bảo vệ nó (ý nói của Allah thì Allah sẽ bảo vệ) ». Sau khi nghe qua, Abroh ra lệnh trả lại lạc đà của ông Abdul Muttalib. Khi trở về, ông liền đến cầu xin Allah che chở Ka’bah và kêu gọi quần chúng bỏ Mecca để khỏi phải đổ máu vì lực lượng của Abroh quá hùng hậu, không thể chống cự được.








    Abroh sai quân tiến vào Mecca. Khi gần đến Mecca, bổng nhiên đoàn voi dẫn đầu không chịu tiến nữa. Chúng cứ quay mặt đi hướng khác. Mặc dù bị đánh đập nhưng chúng vẫn không chịu tiến vào. Lúc đó, Allah sai những con chim Aba-bil từ biển đến. Mỗi con mang ba cục đá nhỏ tựa như hạt đậu, một viên thì ngậm, hai viên bấu ở hai chân. Chúng đến thả trên đầu đoàn quân và bầy voi. Những con voi hay đoàn quân nào bị trúng đá đều cháy tan ra tro. Còn ai không bị trúng thì cũng hoảng sợ và kinh hãi mà chết. Mặt khác, Allah cho nước biển dâng tràn lên làm cho một số quân lính của họ bị nước cuốn đi, còn những ai sống sót dù có chạy về đến Yemen thì cũng ngã ra chết. Còn Vua Abroh thấy quân lính thất trận nên gắp rút chạy về đến hoàng cung, nhưng chưa kịp cởi áo trận ra thì cũng ngã xuống mà chết một cách hãi hùng.








    Câu chuyện về đoàn binh voi đã được Allah thuật lại trong kinh Qur’an với ý nghĩa như sau:








    قال تعالى: (الم تركيف فعل ربك باصحاب الفيل * الم يجعل كيدهم في تضليل *وارسل عليهم طيرا ابابيل * ترميهم بحجارة من سجيل * فجعلهم كعصف ماكول ) سورة الفيل 105.








    « Ngươi chẳng thấy cách Chúa đối phó với đoàn binh cưỡi voi ra sao chăng? Không phải Ngài đã làm hỏng âm mưu của chúng hay sao? Ngài đã khiến từng đàn chim bay trên đầu chúng. Và ném đá gạch vào người chúng. Làm chúng như cọng rơm bị ăn mòn ». Chương 105 (Al-Fil)








    Kết quả trận chiến trả thù và muốn biến bán đảo Arab thành thiên chúa giáo đã thất bại. Đó cũng là nguyện vọng của quần chúng Mecca và sự bảo tồn ngôi đền thiêng liêng của Allah như ông Abdul Muttalib đã cầu nguyện. Ngôi đền sẽ tồn tại mãi mãi cho đến Ngày tận thế. Vật gì của con người có thể tàn, còn của Allah thì tồn tại và bất diệt mãi mãi.








    Vài hàng về thị trấn Mecca.








    Ngày xưa, Mecca là một thị trấn phồn thịnh, sầm uất nhất của bán đảo Arab. Đây là trung tâm điểm của những thương buôn tứ xứ tập trung ghé lại để trao đổi hàng hóa và hưởng lạc cảnh giàu sang phú quý. Mecca cũng là nơi dân chúng ghé qua tấp nập và là nơi tập trung những thi hào lỗi lạc. Ở đó, có chợ Sukul Ukaz, là nơi để các thi hào trổ tài làm thơ và nói chuyện trước công chúng. Họ có thể nói thao thao bất tuyệt cả tiếng đồng hồ, cũng như đọc lên một lúc cả trăm câu thơ.








    Đặt biệt nhất, Mecca là vùng đất thánh, nơi thiêng liêng thầm kín của sự thờ phụng trang nghiêm, bên cạnh Ka’bah có đến 360 tượng thần để quần chúng chiêm ngưỡng. Hàng năm, không biết có bao nhiều người trên bán đảo tụ tập đến hành hương theo ý tưởng của họ. Không riêng gì những người đa thần giáo, cả những người theo tôn giáo khác cũng đến đó để chiêm ngưỡng về tín ngưỡng của họ. Mặc dù thời tiết oi bức của thung lũng nhưng với nguồn nhiên liệu thiên nhiên mà Allah đã ban xuống từ xưa qua giếng nước zamzam mà nó trở thành nơi phồn thịnh, khang trang. Nơi này cũng là mảnh đất lành mà sau này đã xuất hiện từ đó hòn ngọc quý giá của thế giới, ánh sáng của sự công bằng, bác ái, tình thương nhân loại mà từ xưa chưa bao giờ thấy được.








    نبي محمد صلى الله عليه وسلم:








    Nabi Muhammad (saw) ra đời.








    Nabi Muhammad ra đời vào sáng sớm ngày thứ hai, nhằm ngày 12 tháng Robiul Awwal hay ngày 28/8/570 AD sau kỉ nguyên Thiên Chúa, vào năm con voi, như chúng ta đã biết qua phần trên. Cũng vì biến cố đó mà người Arab đã đặt tên cho năm đó là năm con voi.








    Lúc ra đời, Người ngước mặt nhìn lên trời và hai tay xòa xuống như tư thế sujud (quỳ lạy). Thân mẫu của Người cho hay là lúc bà có mang, bà không hề cảm thấy mệt nhọc, nặng nề, buồn nôn hay khó chịu. Bà cảm thấy thật nhẹ nhàng, thoải mái như người bình thường. Ngay cả khi lâm bồn, bà cũng không cảm thấy đau đớn, vất vả như người khác. Khi đứa bé ra đời, người ta chạy đến báo cho ông Abdul Muttalib. Lúc đó ông đang cầu nguyện hay đang đi bảy vòng quanh Ka’bah. Người ta báo cho ông ta biết là đứa bé ra đời một cách kì lạ. Ông Abdul Muttalib lo sợ hỏi như thế nào, người ta trả lời là đứa bé vừa lọt lòng mẹ đã ngước mặt lên trời và hai tay quỳ xuống đất. Ông Abdul Muttalib liền chạy đến và vội vã mang đứa bé ra cầu nguyện ở Ka’bah, xin Thượng Đế che chở và ban sự lành mạnh cho nó. Ông tuyên bố đặt tên cho đứa bé là محمد Muhammad. Đây là một cái tên lạ mà từ xưa người Arab không hề đặt. Ông giải thích về việc đặt tên này rằng: “Sau này ai ai cũng biết đến và sẽ cảm ơn cậu ta”.








    Năm Nabi ra đời đã xảy ra hiện tượng khác lạ hơn những năm đã qua vì mấy năm vừa qua trên bán đảo Arab không hề có một giọt mưa nào rơi, cây cỏ khô cằn, đất đai chết khô, thú vật gầy ốm, buôn bán khó khăn, dân chúng đói khát. Từ ngày Người ra đời, mây chuyển động, mưa bắt đầu rơi, đất đai sống lại, cây cỏ mọc đầy vườn, buôn bán bắt đầu tấp nập, dân chúng vui vẻ... Người ra đời đã đem lại cuộc sống thịnh vượng, an khang cho dân chúng. Tuy nhiên, những người Do Thái sinh sống ở bán đảo bắt đầu lo lắng cho tương lai theo sự dự đoán trong sách kinh của họ đã diễn tả từ trước. Những đại cường quốc thời đó cũng xảy ra những biến cố mà từ xưa chưa xảy ra trong hoàng cung của họ.








    Thân phụ của Nabi là ông Abdulloh con ông Abdul Muttalib con Hashim con ông Abdulmanaf thuộc dòng dõi Quraish và là cháu tông tích của Nabi Ismael (A). Mẫu thân của Người là bà Aminah con ông Wahbun con ông Abdulmanaf cũng thuộc dòng dõi Quraish.








    Thân phụ của Người mất lúc Người còn trong bụng mẹ. Sau khi ra đời không lâu, mẹ của Người đã trao Người cho bà Halimah As Sa’diyah nuôi nấng ở vùng Ta-if. Từ đó, Người làm quen với cuộc sống sa mạc thô sơ, nghèo nàn, chất phác của dân du mục, sống xa thành phố, xa sự tranh chấp, dành giật, mưu mẹo, giàu hiếp yếu, bất công trong cuộc sống lao động, cho vay lãi mà người mượn suốt đời không trả nổi, danh dự của con người bị coi thường nhất là đàn bà con gái...








    Lúc nhỏ, người được hai vị thiên thần mổ bụng và tẩy sạch những máu dơ để thay vào đó dòng máu mà quỷ Sa-tăng không hại được. Sự thể này đã được người anh bú chung dòng sữa và bà Halimah thuật lại. Khi đứa con chạy đến thông báo cho bà Halimah, lúc đến nơi bà vẫn thấy Nabi nằm thiêm thiếp trên tảng đá. Nabi thuật cho bà nghe, bà mở áo ra xem nhưng không thấy một vết mổ nào. Tuy nhiên, gương mặt của Nabi lại hồng hào và khỏe mạnh hơn. Bà sợ ma quỷ hại Người nên đem trả lại cho bà Aminah. Khi nghe thuật qua, thân mẫu của Người quả quyết: “Ma quỷ không hại được con tôi đâu”. Quả vậy, sau này bà Halimah đã chứng kiến sự thật nên hầu như toàn gia đình của bà đều theo Islam.








    Sau khi đi thăm viếng bà con họ hàng bên chồng ở Medina trở về, thân mẫu của Người lâm bệnh và mất ở ngoại ô Medina. Lúc đó, Nabi mới được sáu tuổi. Được ông nội là Abdul Muttalib đem về nuôi nhưng rồi hai năm sau, ông nội lại vĩnh biệt ra đi. Lúc đó, Người mới được tám tuổi. Từ thuở ấu thơ, Nabi đã mất đi tình thương của cha mẹ, được nương tựa nơi ông nội, nay ông nội lại ra đi, bao tình thương yêu của gia đình thân quyến hầu như không có đối với đứa bé mồ côi này. Sau đó, Người được bác là Abutalib đem về nuôi trong gia đình mười hai đứa con, bữa đói bữa no. Nhưng dù với hoàn cảnh khó khăn nào, người bác cao cường này cũng lo chu toàn cho cháu và lúc nào cũng kề cận bên cháu cho đến khi trưởng thành.








    Năm mười tuổi, Người sống cuộc đời của trẻ chăn cừu như bao trẻ nghèo khác. Có nhiều đêm, người phải ngủ lại ngoài sa mạc. Người chăm nom bầy cừu không hề thất lạc một con. Sau này, nhờ tiếng gọi của Thượng Đế, Người đã trở thành vị chăn chiên của nhân loại mà không ai lại không biết đến sự hiểu biết, danh dự, công bằng bác ái, tình thương nhân loại mà Người đã đem lại.








    Lúc mười hai tuổi, Người đòi theo bác đi buôn ở Sham (xứ Syria). Ở đó, bác và những đoàn tháp tùng được vị linh mục بحيرة Buhairo mời dùng bữa. Vì còn trẻ tuổi nên Người không tham dự. Khi vị linh mục đem thức ăn ra mời, vị ấy hỏi ông Abutalib: “Dường như còn thiếu một người?” Ông Abutalib trả lời: “Con tôi còn nhỏ nên không ra ăn chung”. Vị linh mục nói cứ mời tới ăn chung. Khi Nabi đến, vị linh mục đem thức ăn ra và nói : “Nhân danh Lat và Uzza mời cậu dùng” (Lat và Uzza là hai tượng thần mà quần chúng Mecca tôn thờ), Nabi (saw) trả lời: “Tôi không hề tin ở hai vị đó. Tôi chỉ tin ở Allah”. Vị linh mục nghe những người Arab thường kêu gọi thề thốt với nhau nên mới gọi hai vị thần này để mời Nabi nhưng Nabi đã từ chối sự hiện diện của hai vị thần này trong cuộc sống tinh thần của Người.








    Sau khi nghe qua, vị linh mục đã xác nhận được những gì từ xưa mà ông đã hiểu biết qua sách kinh. Ông căn dặn ông Abutalib hãy mau mau trở về Mecca vì sợ rằng người DoThái biết được sẽ tìm cách hại Nabi (saw).








    Từ nhỏ, Nabi (saw) được mọi người tín nhiệm và đặt cho cái tên الآمين Al Amine có nghĩa là thành thật, chất phác, trung thành. Từ đặc tính này, ai ai cũng cảm mến và tin tưởng nên đã giao của cải cho Người giữ dùm. Vào năm Người được hai mươi lăm tuổi, Người được bà Khadijah giao cho toàn của cải để đem đi bán ở Sham (Syria). Ở đây, hiện tượng lạ lại xảy ra khi Người cùng người tùy tùng là Maisaroh đến nghỉ ngơi dưới bóng mát của một cây cổ thụ mà từ xưa đến nay không một ai đến trọ mát. Kế bên cây cổ thụ này, có một đền thờ nhỏ, khi vị linh mục đi ra thấy vậy ngạc nhiên không ít nên tới gặp Nabi (saw) và nói: “Theo sự học hỏi và hiểu biết của tôi, không có ai đến trọ mát ở đây ngoại trừ vị đó là Sứ Giả của Thượng Đế”. Và hiện tượng lạ nữa là suốt dọc đường trở về Mecca, lúc nào cũng có bóng mát che bóng cho Nabi (saw). Ngay cả khi về gần tới Mecca, người tùy tùng đến thông báo cho bà Khadijah biết trước và chính bà cũng chứng kiến điều này khi bà đứng trên lầu nhìn đoàn của Nabi (saw) trở về. Với chuyến đi này, tiền lời đã tăng gấp đôi những chuyến đi của người khác. Từ sự lạ lùng và thật thà, chất phác này, bà Khadijah đem lòng mến mộ và thương yêu Người. Bà là một người đàn bà góa chồng, lúc nào cũng có những người đàn ông giàu sang, tiếng tăm chờ đợi bà thuận làm vợ của họ. Với sắc đẹp, sự giàu sang, quý phái của bà, bà còn được mệnh danh là bà chủ của Quraish. Qua sự chất phác của Nabi (saw), bà đem lòng thương yêu người thanh niên trẻ, nghèo nhưng thành thật, đạo đức và tín nhiệm. Do vậy, bà gửi người đến hỏi ý kiến ông Abutalib. Sau đó, ông Abutalib hỏi ý kiến cháu, hai bên cùng đồng ý nên ông Abutalib đứng ra làm đám cưới cho hai người. Lúc đó, Nabi (saw) mới hai mươi lăm tuổi, còn bà Khadijah đã bốn mươi tuổi. Bà sinh cho Nabi (saw) bốn người con gái đó là : رقية، زينب،أم كلثم و فاطمة Rokaiyah, Zainob, Ummul Kaksum và Fatimah.








    Chung đụng với cuộc sống bất công, xảo trá, quyền thế trên hết, công bằng, công lí bị coi thường, Người chán nản và từ từ lùi dần vào cuộc sống trầm tư để suy nghĩ về sự biến thiên cao cả của tạo hóa. Người thường bỏ cảnh thao túng tấp nập của thành thị để đến hang đá Goro Hiroh tìm sự yên tĩnh của lương tâm và tinh thần. Theo bà Aisah (thân mẫu của người tin tưởng) thuật lại trong sách Al Bukhory, lúc đó Nabi (saw) theo chân lí của Nabi Ibrahim (A) để trầm tư mặc niệm. Có lần, Người nằm mơ thấy được giao cho một sứ mạng để truyền bá cho dân gian. Giấc mơ đó là hiện thân của Wahy (lời mặc khải) vì không lâu sau, nó đã trở thành sự thật như bình minh ló dạng. Vài ngày sau, thiên thần Jibriel (A) hiện thân đến rồi ôm chặt Người và bảo : «Hãy đọc ! » Người trả lời là không biết đọc. Cứ như vậy ba lần. Sau đó, Nabi (saw) đọc được đó là câu kinh hay wahy (lời mặc khải) đầu tiên của Allah truyền xuống với ý nghĩa :








    قال تعالى: ( اقرأ باسم ربك الذى خلق * خلق الانسان من علق * اقرأ وربك الأكرم * الذى علم بالقلم ) العل 1-4








    « Hãy công bố rằng nhân danh Chúa của người là Đấng Sáng Tạo * Đấng đã tạo ra con người từ một giọt máu đông * Hãy công bố rằng Chúa của ngươi là Đấng Cao Thượng * Đấng đã dạy con người cầm bút viết » Chương 9 : 1-4








    Năm đó, Nabi được bốn mươi tuổi. Kể từ đó, Người bắt đầu truyền bá chân lí cao thượng của Allah cho quần chúng. Người bắt đầu từ trong gia đình, rồi thân quyến, từ chân lí này được truyền ra trong quần chúng. Người đầu tiên đã tin theo đó không ai khác hơn là người vợ yêu quý đã hết lòng tin tưởng, giúp đỡ, an ủi Người khi Người bị người ta chỉ trích hay bạc đãi. Bà đã cung phụng cho Người mọi thứ, từ tinh thần đến vật chất. Đó là bà Khadijah (R) خديجة








    Người đàn ông đầu tiên theo đạo là ông أبوبكر الصديق Abubakar As Siddik (R)








    Con nít đầu tiên theo đạo là على ابن ابي طالب Aly ibnu Abitalib (R). Lúc đó, Aly mới được mười tuổi.








    Đứa con đỡ đầu đầu tiên theo đạo là زيد بن حارث Zaid ibnu Harith (R)








    Nô lệ đầu tiên theo đạo là بلال بن رباح الحبشى Bilal ibnu Ribah Al Habashi (R)








    Từ đó, Islam bắt đầu phát triển dần dần, từ cá nhân đến gia đình, người thân thuộc, láng giềng. Những người không tin bắt đầu cảm thấy sự thờ phụng của họ từ xưa bị lung lay, sứt mẻ nên họ bắt đầu chống lại những người tin tưởng bằng những lời chê bai, sỉ nhục, gây xáo trộn và tạo sự đe dọa cho những người tin tưởng. Nhưng rồi nó không đem lại kết quả mà càng ngày, người theo đạo càng đông nên họ đã dùng đến vũ lực bằng cách ném đá, tẩy chay, hành hạ những nô lệ yếu hèn theo đạo. Ngay cả Nabi (Saw) cũng bị họ ném bã vào mình. Khi Nabi (Saw) đang hành lễ trong thánh đường (Masjid), họ cũng hành hiếp. Mặc dù phải chịu biết bao nhiêu khổ cực nhưng Nabi (Saw) và những người theo đạo vẫn vững lòng chịu đựng cho đến một ngày Nabi (Saw) thấy những người anh em theo đạo đã chịu đựng quá nhiều nên cho phép họ li hương هجرة(Hidroh) đi Habashi (Ethopia) để lánh nạn.








    Cuộc li hương đầu tiên vào năm 615 kỉ nguyên Gia tô, gồm có 16 người, trong đó có 4 người đàn bà. Cuộc li hương này lại không đem sự tốt lành hơn cho những người ở lại. Những người chống đối biết được, họ tăng cường sự hành hạ đối với những người ở lại. Nhưng sau khi Allah hướng dẫn ông همزة Hamzah (R) và ông عمر بن الخطاب Omar ibnu Al Khottob (R) vào Islam, tình hình và tinh thần của người Muslim lại lên cao và sáng sủa hơn. Thể theo lời yêu cầu của ông Omar (R), cuộc truyền bá, giảng đạo được công khai hóa. Mặc dù lúc đó Islam đã khá mạnh nhưng Nabi (Saw) không cho phép chống lại những người chống đối ở Mecca.








    Qua những cuộc chống đối mãnh liệt và sự gia tăng việc gây khổ đau cho những người Muslim, Nabi (Saw) ra lệnh cho li hương đi Habashi lần nữa. Đoàn người đã lên đến 83 đàn ông và 11 đàn bà. Họ đã được vua Najasi bảo đảm an ninh và tiếp đãi chu đáo. Ở đó, họ được mọi quyền công dân như người dân bản xứ. Theo hadith soheh thuật lại khi vua Najasi mất, Nabi (Saw) đã cùng tín đồ ở Medina soly mayid go-ib (hành lễ cho người mất vắng mặt) cho ông ta vì ông ta đã bỏ đạo mà theo Islam dù đã là vua và thông thái học của Thiên Chúa giáo.








    قال تعالى: ( وما أرسلنك الا كآفة للناس بشيرا ونزيرا ولكن اكثر الناس لا يعلمون ) سورة سبأ : 28








    Allah phán với ý nghĩa: « Ta chỉ phái ngươi (Muhammad) xuống để truyền tin và để cảnh cáo nhân loại nhưng đa số con người không biết điều đó » Chương 34 : 28








    Trong thời gian đó, những người đa thần ở Mecca bắt đầu lo lắng khi biết được sự an toàn của những người Muslim dời cư ở Habashi. Ngoài sự kiện đó ra, từ khi ông Hamzah (R) và ông Omar (R) vào Islam, họ không dám đụng chạm trực tiếp vì xưa nay họ rất ngại khi phải đối đầu với hai nhân vật này. Do đó, họ thay đổi chiến lược bằng cách tập hợp lại những bộ lạc Arab để tẩy chay những người Muslim và thân nhân của những người theo đạo Islam.








    Những bộ lạc ở chung quanh họp lại, viết lên một giao ước chống bộ lạc Hashim và Bani Muttalib bằng cách trục xuất những người theo đạo và hai bộ lạc này ra sống cô lập ở ngoại ô Mecca, không có giếng nước, không có cây cối, không buôn bán giao thiệp, không cưới gả với những người này cho đến khi Nabi (Saw) chịu ngưng truyền bá Islam. Cuôc tẩy chay, cô lập này kéo dài hơn hai năm trời đến nỗi họ không còn thực phẩm, phải ăn những lá khô, thiếu thốn mọi nhu cầu cần thiết. Trong thời gian này, bà Khadijah (Ra) đã tiêu dùng hầu như gần hết gia sản của bà để giúp chồng củng cố và tiếp tục truyền bá Islam. Tờ giao ước đó, sau khi được thỏa thuận xong, họ đem niêm yết trong Ka’bah để không một ai dám đụng đến. Cho đến một hôm, Nabi (Saw) nói với người bác là tờ giao ước đó đã bị mọt ăn hết chỉ chừa lại duy nhất chữ Allah mà thôi. Nabi (Saw) cũng bảo đảm với bác là nếu sự việc xảy ra không như lời Người nói, Nabi (Saw) sẽ ra hàng. Sau đó, người bác mời những người chống đối tới nơi điều đình và ra điều kiện như Nabi (Saw) đã nói. Khi hai bên cùng nhau đến mở cửa Ka’bah để xem thực hư thế nào thì quả thật mọt đã ăn hết những chữ viết trên đó và chỉ chừa lại chữ Allah mà thôi. Sự thật đã quá rõ ràng nên không ai chối cãi nữa đành phải trả tự do cho những người Muslim và hai bộ lạc liên quan đến Nabi (Saw). Từ đó, tiếng vang của Islam ngày một tăng thêm.








    Trên đời này, không gì tồn tại mãi mãi, tới một ngày nào đó con người cũng phải theo quy luật để trở về với Allah. Thật vậy, người đã nuôi nấng, che chở bảo vệ cho Nabi (Saw) từ thuở ấu thơ đến lúc trưởng thành, giai đoạn gian nan nhất trên con đường truyền bá đạo giáo mà lúc nào Nabi (Saw) cũng đặt hi vọng là sẽ cùng người bác bước chân vào thiên đàng để hưởng một cuộc đời bình an, vĩnh cửu nhưng không ngờ giây phút cuối cùng của cuộc đời, ông ta đã chết đi trong hàng ngũ của đa thần khi từ chối đọc câu kalimah (câu chứng nhận chỉ có một Thượng Đế Duy Nhất và Mohamad là Sứ Giả của Ngài) chỉ vì tự ái, sợ dư luận những người Arab chê cười cho là theo đạo của cháu truyền lại mà quên đi cách thờ phụng đa thần của tổ tiên xưa kia. Người đó là ông Abutalib, bác của Nabi (Saw). Nabi (Saw) đau buồn, thương xót cho cái chết không cùng đạo của bác và cầu nguyện ngày đêm cho đến khi Allah truyền lệnh xuống với câu kinh để cảnh tỉnh như sau:








    قال تعالى: ( إنك لا تهدى من احببت ولكن الله يهدى من يشاء وهو اعكم بالمهتدين ) القصص 56.








    « Ngươi không thể dẫn đạo tất cả những người mà ngươi yêu mến nhưng Allah sẽ dẫn đạo bất cứ kẻ nào mà Ngài vừa lòng và Ngài biết rõ nhất ai có thể chấp nhận sự dẫn đạo của Ngài » Chương 28 : 56








    Vì quá yêu thương và thấu hiểu hậu quả đau khổ cùng sự hành hạ khốc liệt trong địa ngục nên Nabi (Saw) đã không ngừng cầu nguyện xin Allah tha thứ tội lỗi cho bác. Sau đó, Allah đã truyền đoạn kinh xuống với ý nghĩa như sau:








    قال تعالى: ( ما كان للنبي والذين آمنوا أن يستغفروا للمشركين ولو كانوا اولى قربى من بعد ما تبين لهم أنهم اصحاب الجحيم ) التوبة 112.








    « Sau khi biết rõ những kẻ thờ đa thần giáo là người ở địa ngục, dẫu họ là người thân thích đi nữa, những vị sứ giả và các tín đồ không được xin sự ân xá cho họ ». Chương 9 : 112








    Theo hadith soheh (lời kể có thật) do Muslim ghi lại, bác của Nabi (saw) bị đày vào tầng cuối cùng của địa ngục, nhưng với hồng phúc và sự vị tha của Allah cùng những hành động của ông Abutalib đã từng hết lòng bảo vệ và che chở cho sự truyền bá của Nabi (saw) nên Allah đã giảm xuống tầng nhẹ nhất của địa ngục và bù lại ông sẽ không bao giờ ra khỏi địa ngục.








    Đọc qua ý nghĩa của câu kinh trên, ta hiểu rằng ngay cả Nabi (saw) không cứu vớt được bác ruột của mình ra khỏi sự hành hạ khủng khiếp trong địa ngục huống chi những người tầm thường như chúng ta. Sự cứu rỗi đó chỉ được phép khi Allah ưng thuận mà thôi, không một ai có thể làm trung gian hay can thiệp vào được. Chúng ta chỉ là người truyền đạt, khuyên răn, còn lòng hướng thiện là do Allah quyết định.








    Cũng trong năm ấy hay năm 619, người vợ yêu dấu của Nabi (saw) lại vĩnh viễn ra đi để lại Người đơn độc với đàn con thơ cùng biết bao kỉ niệm mà Nabi (saw) không bao giờ quên. Bà luôn luôn bên cạnh Người khi cô đơn, an ủi lúc Nabi (saw) buồn, hết lòng hi sinh khi Người gặp hoạn nạn. Bà đã sinh cho Nabi (saw) bốn người con trong khi những người vợ sau không một ai sinh con cho Nabi (saw) cả. Người đàn bà đó không ai khác hơn là bà Khadijah (Ra) đã được hồng ân của Allah nhờ thiên thần Jibriel (A) chuyển salam (lời chào bình an) cho bà, và bà là một trong bốn mệnh phụ xinh đẹp, cao sang, đạo đức nhất trên thế gian này như lời của Nabi (saw) đã nói.








    Sau hai sự mất mát lớn lao đó, Nabi (saw) cảm thấy quá cô đơn vì quần chúng không nghe theo mà lại còn chống đối mãnh liệt thêm, nên Nabi (saw) bỏ Mecca đi Ta-if cách đó khoảng 80 km để truyền bá với hi vọng quần chúng ở đó sẽ nghe theo. Không ngờ ở đó, Nabi (saw) lại gặp sự chống đối và xua đuổi mãnh liệt hơn nên Người đành quay trở về Mecca lại. Vì quá đau buồn qua những biến cố đó, Nabi (saw) đã đặt tên cho năm đó là năm Buồn hay Ammul Husnu
    Ashadu An La Ilaha Illolloh!
    Wa ashadu-anna Muhammadar Rosulluloh!
    Tôi nhận chứng không có Thượng đế nào khác ngoài Allah.
    Và tôi nhận chứng Muhammad là vị sứ giả (Rasul) của Allah

  2. #2

    Mặc định SƠ LƯỢC TIỂU SỬ NABI MUHAMMAD (SAW) (Phần 2)

    Trời vừa tối, chúng kéo nhau đến bao vây nhà của Nabi (saw) để chờ đêm xuống là tấn công vào giết Nabi (saw). Khi đó, thiên thần báo cho Nabi (saw) biết về biến cố sắp xảy ra và nói với Nabi (saw) là đừng ngủ ở nhà. Biết được đây là ý định của Allah cho phép Nabi (saw) li hương nên Người bảo Aly (R) ngủ và đắp chiếc chăn màu xanh mà Người thường dùng. Sau đó, Nabi (saw) căn dặn Aly (R) phải hoàn trả lại vàng bạc, tiền của những người đã gửi Nabi (saw) giữ hộ.


    Al Hidroh hay li hương đi Al Medina (12 Robiul Awwal 622 Tây Lịch).




    Màn đêm buông xuống, sau khi dặn dò Aly (R) xong, Nabi (saw) bước ra và đọc câu kinh với ý nghĩa sau:




    قال تعالى: ( وجعلنا من بين ايديهم سدا ومن خلفهم سدا فاغشيناهم فهم لا يبصرون ) يسن 9




    « Và ta đã dựng bức tường chắn trước mắt và sau lưng chúng, rồi bao trùm chúng lại để chúng không thấy được ». Chương 36 : 9




    Đọc xong Nabi (saw) lấy cát rải khắp nơi, cả trên đầu những người đang bao vây và rồi họ không thấy và không hề hay biết gì cả. Cho đến khi Nabi (saw) đã đi xa, họ mới thức tỉnh, thấy có người đang nằm nên an tâm cho rằng người đó là Nabi (saw). Khi mặt trời đã sáng hẳn, họ xông vào thì thấy Aly (R) đang nằm ở đó. Quá bất ngờ và hốt hoảng, họ chạy tìm khắp nơi nhưng không thấy Nabi (saw) đâu cả. Âm mưu của họ đã thất bại.




    Lúc đó, Nabi (saw) tìm đến nhà ông Abubakar (R) thông báo là Allah đã ra lệnh cho phép Người di cư. Ông Abubakar (R) hỏi : « Tôi có được cùng đi chung không ? » Nabi (saw) trả lời : « Có, ông cùng đi với tôi ». Ông Abubakar (R) khóc nức nở vì cảm động và vui mừng vì được tháp tùng với Nabi (saw). Trước đó, ông đã chuẩn bị sẵn hành trang để đi và chờ đợi giây phút cuối cùng này. Không gì vui sướng cho bằng khi được tháp tùng với người mà ông quý trọng nhất trên đời. Ông sẵn sàng quên cả tính mạng để bảo vệ và củng cố con đường truyền bá của Nabi (saw). Hai người âm thầm bỏ trốn đến núi (Jabal Sur) và ẩn trong hang núi để chờ người giúp việc của ông Abubakar (R) mang hai con lạc đà đến. Trong khi đó, những người bao vây nhà Nabi (saw) chia nhau đi tìm kiếm khắp nơi, ngay cả đến hang động này. Nhưng đây là một sự tình cờ hay sự mầu nhiệm của Allah đã khiến gió thổi màng nhện đến lấp cửa hang để không gây sự chú ý cho bọn đi lùng kiếm.




    Hôm sau, người giúp việc và người hướng dẫn mang hai con lạc đà đến để rước Nabi (saw) và ông Abubakar (R) đi. Ông Abubakar (R) đã chuẩn bị chu đáo đầy đủ lương thực. Nabi (saw) hỏi: « Con lạc đà và cuộc chuẩn bị tốn bao nhiêu? ». Ông Abubakar (R) trả lời là tặng cho Nabi (saw) nhưng Người không bằng lòng vì muốn chuyến đi này do sự đóng góp của Người.




    Những người đa thần ra thông báo sẽ trao giải thưởng thật lớn cho ai giết hay bắt sống được Nabi (saw).Chuyến đi di cư với bao hiểm nguy, gian khổ. Theo sử ghi lại, Nabi (saw) ra đi vào đầu tháng Robiul Awwal và đến Medinah vào ngày 12 Robiul Awwal cùng năm, nghĩa là sau 12 ngày đêm vừa đi, vừa trốn trên sa mạc để đánh lạc hướng những người tìm bắt Nabi (saw) và ông Abubakar (R) theo lệnh và giải thưởng của bộ tộc Quraish. Lịch sử của Islam đã lật sang trang mới. Người Muslim căn cứ từ đó mà tính niên lịch của Islam. Nhờ cuộc ra đi này, Islam đã bành trướng và hiện diện trên khắp thế giới như ngày nay.




    Sau 13 năm ròng rã truyền bá, giảng đạo cho thân quyến và thân tộc yêu thương ở Mecca nhưng Người (saw) chỉ nhận lấy sự đau khổ và buồn bã nhiều hơn là niềm vui trọn vẹn. Nabi (saw) ra đi với một tâm hồn buồn bã, thương hại cho quần chúng ở Mecca. Sau bao nhiêu năm dài truyền bá lí thuyết tôn thờ Allah Đấng Tạo Hóa Duy Nhất và dẹp bỏ những tượng thần do con người tạo ra, Người (saw) đã nhận lấy sự chống đối kịch liệt vì quần chúng ở đó không chịu chấp nhận lí thuyết tôn thờ ở Allah Duy Nhất mà cố chấp, duy trì thói quen, tật xấu của tổ tiên để lại.




    Nabi (saw) ra đi trong tâm trạng xót xa, luyến tiếc cho quần chúng sau bao thời gian Người chịu đựng sự chống đối. Buồn cho ngọn đuốc của sự hiểu biết về giáo lí không còn chói sáng nơi đó nữa, buồn cho sự công bằng, bác ái, sự thật và lòng tin cậy không còn đó, buồn cho quần chúng đã mất một người phúc hậu lúc nào cũng nhã nhặn, tươi cười, chân thành lo lắng cho người khác đến nỗi quên cả bản thân. Thật đáng tiếc cho quần chúng ở Mecca đã mất đi một Sứ Giả đức hạnh, ngay thẳng, có tiếng trung thực từ nhỏ, nay lại bị xua đuổi ra khỏi quê hương thân tộc để lập cơ nghiệp đạo pháp ở nơi khác. Họ đã không nhận thức được vinh hạnh có một không hai này.




    Nếu những người đa thần hay dân Quraish ý thức được sự thật, đừng cố chấp, cuồng tín, đừng tranh giành vì tư lợi thì Nabi (saw) đã đem lại bao nhiêu điều tốt lành, hạnh phúc, yên vui mãi mãi cho họ ở trên đời này cũng như Ngày Sau.




    Vâng, Nabi (saw) ra đi mang theo ngọn đuốc soi sáng đến Madinah với bao sự tốt lành cho cuộc sống xã hội, quốc gia và tôn giáo. Rồi cũng từ Medinah, ngọn đuốc Islam đem ánh sáng tỏa khắp bán đảo Arab và thế giới sau này. Những người dân ở Madinah đã hưởng phúc khi ngọn đuốc được thắp lên ở đó cho đến Ngày Tận thế.




    Sau khi đến Meadinah, việc đầu tiên là Người (saw) gửi thư trấn an những người Do Thái sinh sống ở đây và vùng lân cận. Người kêu gọi toàn dân Madinah cùng chia xẻ cuộc sống, xã hội, kinh tế và phòng thủ chung với nhau. Tôn giáo của ai nấy giữ, kẻ phạm pháp sẽ bị xử giống nhau chứ không phân biệt, vì đối với Allah tất cả mọi người đều bình đẳng. Khi người Do Thái bị tấn công, người Muslim sẽ bảo vệ và ngược lại. Sau đó, Nabi (saw) xây cất thánh đường, nơi tụ tập để hành lễ, cầu nguyện và cũng là quốc hội, trường học, văn phòng làm việc, nơi đào tạo những vị sĩ quan, quân đội trong hàng ngũ của chiến binh Islam sau này. Thánh đường vào thời xưa đóng một vai trò rất quan trọng, không chỉ để hành lễ mà còn là nơi xử lí tất cả những công việc lớn nhỏ trong xã hội của người Muslim. Sau đó, Nabi (saw) đổi tên thành phố Yasrib thành Al Medinatul Al Munawwaroh mà chúng ta thường gọi là Madinah, hay Medinatul Rosul (Thành phố của Rosul) cách xa Mecca hơn 400 km. Thật ra, Yasrib không phải là tên cũ của thành phố này. Theo sách sử ghi lại trước đó, thành phố Madina đã có từ 30-40 cái tên gọi khác nhau. Có sách đã ghi đến 94 cái tên trước tên Madinah. Nhưng tất cả tên đó đều bao gồm những ý nghĩa tốt đẹp, dịu dàng hiền từ. Đó là thành phố mà những thương buôn thường ghé qua trước khi lên đường đi Sham (Syria). Đất đai ở đó phì nhiêu có nhiều giếng nước, trồng trọt được nhiều loại cây, nhất là cây chà là rất có tiếng. Thời tiết nóng khi hè nhưng mát vào đông, không ẩm ướt và không nóng gắt như ở Mecca.




    Sau khi bà Khadijah (R) mất, Nabi (saw) sống độc thân, nuôi dạy con cái và tiếp tục truyền bá Islam cho đến khi an cư lạc nghiệp đạo pháp ở Madinah, Người mới tái lập gia đình với bà Aysah (R) con của ông Abubakar (R) và những người vợ khác nữa.




    Ngược thời gian trở lại cuộc đời của Nabi (saw) ở Mecca. Sau 40 tuổi, Nabi (saw) mới nhận lấy wahhy (lời mặc khải) của Allah, 13 năm chịu đựng gian lao truyền bá ở Mecca cho đến lúc dời cư và lập cơ nghiệp ở Madinah. Khoảng một, hai năm sau đó Nabi (saw) mới lập lại gia đình, có nghĩa là gần 55 tuổi Nabi (saw) mới cưới thêm nhiều vợ. Từ sử tích này, người ta mới hiểu rõ cuộc sống gia đình và sự nghiệp đạo pháp của Nabi (saw) như thế nào.




    Trong thời gian đầu, Nabi (saw) và những người Muslim hành lễ hướng về thánh đường Al Akso (Jerusalem). Sau đó, Allah truyền cho đổi hướng về Ka’bah ở Mecca như ngày nay. Cũng trong thời gian ở Madinah, nền tảng thứ ba là nhịn chay nguyên tháng Ramadan, Zakat (bố thí bắt buộc) và hành hương (hajj) được truyền xuống ở đây.




    Thời gian đầu của cuộc di cư, những người Muslim vì phải lẩn trốn mà đi, một số đã để lại gia đình thân quyến, của cải nên cuộc sống thật vất vả. Trước khi Nabi (saw) đến Madinah, để tạo sự thông cảm, chia xẻ với nhau trong cuộc sống hàng ngày, Nabi (saw) đã kêu gọi kết tình nghĩa anh em huynh đệ với nhau giữa những người li hương với những người An Sar (dân bản xứ Madinah) theo đạo trước đó. Trong Qur’an có phán với ý nghĩa như sau:




    قال تعالى: ( والذين تبوؤ الدار والإيمان من قبلهم يحبون من هاجر عليهم ولا تجدون في صدورهم حاجة مما اوتوا ويؤثرون على انفسهم ولو كان بهم خصاصة ومن يوق شح نفسه فأولآئك هم المفلحون ) الحشر 10.




    « Trước khi họ đến, những người đã an cư lập nghiệp trong thị trấn và đã theo đạo thì mến chung những người đến chỗ họ để di trú, và trong lòng họ thì không hề tham muốn những chiến lợi phẩm đã được ban cho những người di trú, dù nghèo khổ đi nữa họ vẫn lo cho những người di trú thật chu đáo hơn cả thân họ. Chính những người không ôm lòng tham muốn rồi sẽ được thành công » Chương 95 : 9




    Sự kết nghĩa huynh đệ trong Islam bắt đầu bằng hành động: Nabi (saw) cầm tay Aly (R) và tuyên bố : « Đây là người anh em của tôi ». Sau đó đến lượt ông Abubakar (R) với ông Khorijah ibnu Zaid Al Ansar (R), ông Omar (R) với ông Utbah ibnu Malik Al Ansar (R), ông Jarfar ibnu Abitalib (R) với ông Muaz ibnu Jabal (R), ông Hamzah (R) với Zaid ibnu Ha’rish (R), ông Osman (R) với Awfu ibnu Thabit Al Ansor (R)... Sự kết nghĩa huynh đệ trong Islam đã tạo ra sự tương thân, tương trợ vô giới hạn. Lòng tin tưởng của họ cũng nhờ đó mà tăng thêm, ngay cả những người giàu có bản xứ cũng vui lòng chia một nửa tài sản và sẵn sàng li dị một người vợ để gả cho người anh em nghèo khó của họ. Lòng hi sinh cao cả của những vị sohabah (bạn hữu) hay những người Muslim thời đó đã in sâu vào lịch sử mà ngày nay không một ai có thể thực hiện được. Nhiều câu chuyện thuật lại rằng chỉ một món quà nào đó được tặng cho một người, người này nhận thấy anh em khác của họ thiếu thốn hơn nên đem cho người kia, món quà cứ di chuyển từ tay người này đến người nọ, rốt cuộc lại trở về chủ nhân ban đầu. Bao nhiêu câu chuyện trong sách sử đã ghi lại, chúng ta cần phải học hỏi và noi theo.




    Trong thời gian đầu, Rosul (saw) lo chuẩn bị cho cuộc sống được ổn định về xã hội, kinh tế cũng như củng cố hàng ngũ và kêu gọi quần chúng ở Madinah vào Islam. Những người còn ở lại Mecca cũng lần lượt ra đi, thoát li khỏi sự đàn áp của nhóm người chống lại Islam để đến Madinah như ông Aly (R). Ông đã đi bộ từ Mecca đến Madinah với hai bàn chân sưng vù và rướm máu. Khi đến Madinah, Nabi (saw) và các bạn hữu đã mừng khóc cho sự can đảm, cao cả này. Sau đó, Nabi (saw) cầu xin Allah và vuốt hai bàn tay của Người lên những vết thương của Aly (R). Từ đó, chân của ông Aly (R) không bị đau nữa.




    Trong khi đó, nhóm người đa thần ở Mecca vẫn không để yên cho Nabi (saw) và những người Muslim. Họ họp nhau lại và cương quyết phải diệt tận cùng Islam. Họ chuẩn bị cả ngàn quân tiến đánh Madinah trong những ngày tháng đầu của cuộc li hương. Nabi (saw) và những người Muslim không được một giờ phút rảnh rang vì cùng lúc phải đối phó với bên trong (ở Madinah lúc đó có rất nhiều người chưa vào Islam và cả những bộ lạc của Do Thái).




    Sau 13 năm dài truyền bá và chịu dựng sự hành hạ của dân Quraish ở Mecca, Nabi (saw) đã hứng chịu nhiều cảnh đau thương của tín đồ do bị đánh đập, hành hạ, hay thậm chí bị giết như gia đình của ông Ammar ibnu Yasir (R). Người đàn bà đầu tiên theo Islam bị giết đó là bà Sumaiyah mẹ của ông Ammar và ngay cả cha của ông Ammar cũng bị giết. Trước những cảnh hi sinh đau khổ đó, những người Muslim đến yêu cầu Nabi (saw) ra tay chống trả lại nhưng Nabi (saw) không cho phép vì chưa được lệnh của Allah. Khoảng hai năm sau khi di cư đến Madinah, Allah mới cho phép Nabi (saw) dùng vũ lực để bảo vệ và chiến đấu chống lại kẻ thù cản trở việc truyền bá đạo qua ý nghĩa mà Allah đã phán như sau :




    قال تعالى: ( اذن للذين يقاتلون بأنهم ظلموا وإن الله على نصرهم لقدير * الذين أخرجوا من ديارهم بغير حق إلا أن يقولوا ربنا الله ولولا دفع الله الناس بعضهم ببعض لهدمت صوامع وبيع وصلوات ومساجد يذكر فيها اسم الله كثيرا ولينصرن الله من ينصره إن الله لقوى عزيز ). الحج 39-40.




    « Những kẻ nào bị đàn áp thì có quyền chiến đấu. Và Allah có quyền năng trợ giúp những người này * Là những người đã bị đàn áp và bị đuổi ra khỏi cố hương của họ chỉ vì đã nói « Chúa của chúng tôi là Allah ». Nếu Allah không cho phép con người tự vệ chống lại sự đàn áp của kẻ khác thì tu viện, giáo đường, giảng đường và thánh đường, nơi mà danh Allah thường được tưởng niệm, tất cả có lẽ đã bị tàn phá hết. Allah sẽ trợ lực kẻ nào giúp đỡ Ngài. Allah thật là đầy quyền năng và uy lực » Chương 22 : 39-40




    Từ đó chiến tranh vì đạo bắt đầu xuất hiện trong lịch sử của Islam. Những trận chiến lớn nhỏ đã kéo dài trong suốt cuộc đời còn lại của Nabi (saw) và tiếp tục cho đến khi Islam bành trướng đến Âu Châu và khắp nơi trên thế giới như ngày nay. Nói như vậy không có nghĩa là Islam chủ trương dùng vũ lực để bành trướng tôn giáo. Trước khi xảy ra những cuộc chiến, Nabi (saw) và những người lãnh đạo Islam đều gửi văn thư đến truyền bá trước. Sau khi tiếp nhận những sự chống đối hay những sứ giả bị giết, khi đó Islam mới dùng đến vũ lực.




    Sơ lược những trận đánh lớn với sự tham gia của Rosul (saw).




    v Trận Badar البدر




    Trận Badar (Trận giao chiến quy mô đầu tiên) xảy ra tại làng Badar, cách Al Madinah hơn 200 km về hướng Jeddah, vào ngày 17 tháng Ramadan năm thứ nhì theo niên lịch Hidry (tức năm 624 Tây Lịch).




    Sau khi về định cư ở Al Madinah được một thời gian, cuộc sống bắt đầu được ổn định dần, người theo Islam ngày càng đông. Dân Quraish ở Mecca không để yên, họ lập mưu đồ trả thù và lúc nào cũng tìm cơ hội để tiêu diệt Islam. Nghe tin họ xuất quân, Rosul (saw) kêu gọi quần chúng ra đi và thông báo rằng không hẳn sẽ chiến đấu nên một số người không tham gia.




    Quân Quraish ra trận với lực lượng hơn 1000 người, vũ trang đầy đủ với áo giáp có chuẩn bị chu đáo, gồm lạc đà và hơn 100 ngựa và có cả đàn bà ca hát đi theo để cổ vũ.




    Những người Muslim ra trận với Rosul (saw) có khoảng 313 người, 70 con lạc đà và 5 con ngựa.




    Sau khi đến nơi và chọn lựa địa điểm chiến đấu, đoàn quân Islam đã lấp lại giếng nước sau khi tích trữ. Lúc đó, đoàn quân Quraish đến giếng nước và dành nhau tìm nước thì nước không còn nữa nên họ đã hoảng hốt và mất tinh thần. Rosul (saw) dàn trận và các tướng lĩnh ra thử sức. Kết quả là ba người từ Quraish bị giết, còn bên Islam có một người bị trọng thương. Sau đó, trận đánh xảy ra khốc liệt giữa một ngàn quân Quraish với hơn ba trăm người Muslim. Rosul (saw) đứng trên đồi cao không ngớt cầu xin Allah phù hộ. Và Allah đã yểm trợ bằng cách cho những thiên thần của Ngài tham dự cuộc chiến qua lời phán cuả Allah:




    قال تعالى: ( ولقد نصركم الله ببدر وانتم اذلة فاتقوا الله لعلكم تشكرون *اذ تقول للمومنين الن يكفيكم ان يمدكم ربكم بثلاثة الف من الملائكة منزلين *بلا ان تصبروا وتتقوا ويأتوكم من فورهم هذا يمددكم ربكم بخمسة الف من الملائكة مسومين * وما جعله الله إلا بشرى لكم ولتطمعن قلوبكم به وما النصر إلا من عند الله العزيز الحكيم) آل امران 123-125




    « Allah yểm trợ các ngươi tại Badar khi các ngươi yếu thế. Hãy kính sợ Allah và các ngươi phải cảm tạ Ngài * Khi ngươi bảo các tín đồ : «Dầu Chúa khiến ba ngàn thiên thần trên trời xuống yểm trợ các ngươi, các ngươi vẫn chưa đủ sao ? » * Không, không, nếu các ngươi nhẫn nại và kính sợ Ngài, khi bọn chúng thình lình tập kích các ngươi, Chúa sẽ khiến năm ngàn thiên thần xuống yểm trợ và phản công mãnh liệt * Đây chính là tin mừng mà Allah đã ban cho các ngươi để các ngươi được yên tâm. Ngoài Allah ra không ai sẽ yểm trợ các ngươi. Ngài là Đấng Toàn Năng và Khôn Ngoan » Chương 3 : 123-126




    Allah đã yểm trợ cho cuộc chiến thắng với thiệt hại 70 tính mạng bên Quraish, 74 người bị bắt làm tù binh. Bên Muslim có 14 người hi sinh tử vì đạo. Trong số này có sáu người li hương (Muha’jirine) và tám người gốc Madinah (Al Ansar). Cũng trong trận này, những người đã chống đối, ngoan cố, hành hiếp những người Muslim và Rosul (saw) lúc ở Mecca đã bị những người yếu đuối trước kia giết chết. Trong đó có ông Abu Jahal, Umaiyah ibnu Kholaf là những người lúc khởi đầu đã gây khó khăn và đàn áp những người Muslim nhiều nhất, nay đã đền mạng cùng với những người khác nữa...




    Những tù binh đã từng dùng vũ lực chống đối và đàn áp những người Muslim và Nabi lúc trước đã bị hành quyết, còn lại một số thì được thân nhân chuộc tiền hay kí giao ước. Dân Quraish đã thất bại nặng nề nên họ mang sự oán hận và trả thù người Muslim.




    قال تعالى: ( ولينصرن الله من ينصره إن الله لقوى عزيز ) الحج : 40.




    « Allah sẽ trợ lực kẻ nào giúp đỡ Ngài * Allah thật là đầy quyền năng và uy lực ». Chương 22 : 40




    غزوة أحد




    v Trận Uhud




    Trận Uhud xảy ra vào ngày thứ bảy 15 Shawal năm thứ 3 theo niên lịch Hidry (625 Ad) tại núi Uhud, Al Madinah.




    Đó là tên gọi của một trong những ngọn núi ở Al Madinah, nằm cách Madinah khoảng 5 km. Đây là một ngọn núi nằm riêng biệt một mình nên người ta mới gọi là Uhud có nghĩa là riêng biệt hay độc nhất.




    Trong trận đánh Badar vừa qua, ông Abu Jahil cùng con và những người có tiếng tăm khác ở Mecca đã bị giết, người mất cha, kẻ mất chồng, mất anh, mất em, mất những người thân quyến. Tiếng vang chiến thắng của người Muslim loan ra khắp nơi nên họ đã ôm mối hận và lập mưu kéo quân đến Madinah để trả thù.




    Kì xuất quân này do ông Abu Sufyan ibnu Harbun (R) dẫn đầu với lực lượng gồm 3000 người, cùng với 700 áo giáp, 300 con ngựa và 17 phụ nữ đi theo... Khi đoàn quân chuẩn bị ra quân, ông Al Abbas bác của Nabi (saw) đã viết thư và mướn người đến mật báo cho Nabi (saw) biết. Lúc đó, Nabi (saw) đang ở tại làng Kuba’a cách Madinah khoảng 7 km.




    Khi Rosul (saw) được tin, Người liền ra lệnh tập hợp và chuẩn bị ra quân đón chờ để không cho kẻ thù vào Madinah. Trong đoàn quân, Nabi (saw) thấy mặt cả những người Do Thái cùng đi với ông Abdulloh ibnu Ubai (đầu đảng của nhóm Munafik đạo đức giả). Tất cả có khoảng 1000 người. Sau khi giàn quân, ông Abdulloh ibnu Ubai rút lui với khoảng 300 người đi theo, bỏ lại 700 người Muslim chiến đấu với 3000 quân sĩ và đoàn kị binh hùng hậu của Quraish.




    Rosul (saw) phân chia 73 người phục kích trên ngọn đồi tiến vào nơi đóng quân của người Muslim. Trong lúc lâm chiến đợt đầu, đoàn người Muslim đã áp đảo được quân thù nên những người phục kích thấy vậy bỏ hàng ngũ mà chạy xuống núi. Họ đã bất tuân vị chỉ huy cũng như lệnh của Rosul (saw). Trong lúc này, ông Kholid ibnu Walid thừa cơ dẫn đoàn kị mã tiến vào đánh bọc hậu nên những người Muslim trở tay không kịp mà chém giết lẫn nhau. Trong lúc giao chiến, có một vị sohabah (bạn hữu của Thiên Sứ) tên là Masab ibnu Amir (R) bị giết. Vị này có gương mặt và tướng người giống Rosul (saw) nên quân Quraish tưởng đâu đó là Nabi (saw). Do đó, họ phao tin để làm cho hàng ngũ người Muslim bị mất tinh thần. Quân sĩ náo loạn không còn tinh thần chiến đấu nữa. Trong trận xô xát và xáp chiến này, Nabi (saw) bị ngã và bị thương. Những vị sohabah đã hi sinh để che chở bảo vệ Nabi (saw). Nhiều người bị trúng tên và thương tích đến sáu bảy chục vết thương mà họ vẫn không màng đến mạng sống cá nhân mà chỉ biết lo bảo vệ Rosul (saw).




    Trong trận này, người Muslim bị thiệt hại đến 70 tính mạng. Trong đó, có ông Hamzah bác của Nabi (saw) đã bị bà Hind treo giải cho vị nô lệ tên là Wahsy giết trả thù. Ông Wahsy đã lén đến gần và phóng lao vào mình ông Hamzah. Sau đó, ông Wahsy được tự do. Sau này, ông ta vào Islam và là một trong những người cùng với Kholid Ibnu Walid đã giết ông Musailamah Al Kazzab khi ông này tự xưng là Nabi, sau khi Nabi từ thế. Khi ông Hamazh (R) ngã xuống, bà Hind đến mổ bụng và moi tim gan của ông Hamzah ra để thỏa mãn hận thù của bà ta. Sau khi Rosul (saw) chiếm lấy Mecca, bà vào Islam và ân hận vì hành động trước kia nên bà xung phong ra trận để lo cơm nước, chăm sóc vết thương cho những chiến sĩ Muslim ở khắp trận địa. Còn bên Quraish có 23 người bị thiệt mạng.




    غزوة الخندق وهى الأحزاب




    v Trận al Khandak hay Al Ahzab




    Trận al Khandak hay Al Ahzab xảy ra vào tháng Shawal năm thứ 5 của lịch Islam.




    Sau hai trận đánh vừa qua, trong thời gian chỉnh đốn hàng ngũ, người Muslim phải đối đầu với những kẻ chống đối từ bên trong của nhóm đạo đức giả (Munafik) và những người Do Thái cư trú lân cận Madinah. Những người Do Thái đã đoàn kết với nhóm đạo đức giả và đưa ra nhiều âm mưu nhằm sát hại Rosul (saw). Rosul (saw) phải đối phó với bao nhiêu công việc từ bên ngoài đến bên trong... Trong lúc đó, những người Quraish lại cấu kết với những người ganh tị và chống đối Islam từ Madinah để thừa cơ hội nội công ngoại kích mà tiêu diệt người Muslim.




    Lần này, những người chống đối từ Mecca tổ chức một cách đại quy mô. Nhiều bộ lạc Arab khác ở bán đảo cũng tham gia với lực lượng của Quraish. Họ xuất quân với hơn 10 ngàn người, kéo nhau trực chỉ hướng Madinah. Khi nhận đươc tin này, những người Muslim họp lại chỉ có khoảng 3 ngàn người. Vậy làm sao chống chọi với lực lượng hùng hậu kể trên. Hơn nữa, bên trong thì lại có nhóm phản loạn chỉ chờ cơ hội là tấn công... Ông Salman Al Farishy (R) đưa ý kiến lên Rosul (saw) là bên xứ Iran khi bị tấn công, người Iran thường đào chiến hào để ngăn chặn đoàn quân tấn công, dù bằng ngựa cũng không thể phóng qua được.




    Ý kiến được Rosul (saw) chấp nhận và Người ra lệnh cho quân sĩ đào hầm. Chính bàn tay cao quý của Người đã cầm cuốc đào hầm, khiêng vác những thùng cát hay tảng đá cùng với quân sĩ Muslim để chống lại kẻ thù và để không cho họ tấn công vào Madinah mà sát hại người Muslim được. Khi quân địch tiến tới, chúng bị chiến hào chặn lại, chỉ nằm chờ ở bên ngoài và dùng tên hay lao phóng qua chứ không có cách nào phá hàng ngũ mà xông vào. Cuộc bao vây kéo dài cả tháng trời, chỉ xảy ra những cuộc tấn công nhỏ. Cho đến một đêm nọ, Allah cho một cơn gió lạnh thấu xương thổi đến làm cho những thú vật, lương thực và hàng ngũ quân sĩ hoảng hốt chạy tán loạn, mất tinh thần chiến đấu nên họ không thể ở lại chờ đợi tấn công. Thấy tình hình bất ổn, ông Abu Sufyan ibnu Harbu chỉ huy của họ ra lệnh rút quân trở về mà không gặt hái được thành công nào. Ngược lại, họ bị tổn thất rất nặng nề về tinh thần chiến đấu và tiếng vang đồn ra khắp bán đảo.




    Trong cuộc bao vây này, bên Muslim đã bị mất 6 người, bên Quraish 3 người, nhưng vật chất bên Quraish bị thiệt hại nặng nề và nhất là tinh thần chiến đấu. Ngược lại, tiếng vang về sự đoàn kết của người Muslim thống nhất hàng ngũ để chiến đấu bảo vệ tôn giáo đã vang vọng ra khắp nơi. Điều này đã làm cho những người chống đối bên trong Madinah khiếp sợ
    Ashadu An La Ilaha Illolloh!
    Wa ashadu-anna Muhammadar Rosulluloh!
    Tôi nhận chứng không có Thượng đế nào khác ngoài Allah.
    Và tôi nhận chứng Muhammad là vị sứ giả (Rasul) của Allah

  3. #3

    Mặc định SƠ LƯỢC TIỂU SỬ NABI MUHAMMAD (SAW) (Phần 3 - Hết)

    Trong cuộc bao vây này, bên Muslim đã bị mất 6 người, bên Quraish 3 người, nhưng vật chất bên Quraish bị thiệt hại nặng nề và nhất là tinh thần chiến đấu. Ngược lại, tiếng vang về sự đoàn kết của người Muslim thống nhất hàng ngũ để chiến đấu bảo vệ tôn giáo đã vang vọng ra khắp nơi. Điều này đã làm cho những người chống đối bên trong Madinah khiếp sợ.


    v Liên quan đến giao ước Al Hudaibiyah.








    Al Hudaibiyah là danh của giếng nước mà người Arab tụ nhau lại gần đó để sinh sống. Từ đó, nó đã trở thành một địa danh của những người du hành, buôn bán hay trên đường đi tới Mecca ghé vào nghỉ chân.




    Rosul (saw) nằm mơ thấy Người cùng với những bạn đồng đạo trở về Mecca làm Umroh (hành hương không bắt buộc). Sau đó, Người kêu gọi ai muốn tháp tùng đi thăm Mecca hay Baitulloh thì tháp tùng. Người cùng với những bạn hữu ra đi với mục đích viếng thăm baitulloh. Đó là vào tháng Zul Ko’dah, sáu năm sau hay năm thứ sáu của lịch Islam, tính từ khi Người bỏ Mecca đến lập cơ nghiệp đạo pháp tại Medinah.




    Cuộc ra đi này có mục đích viếng thăm Ka’bah nên những bộ lạc Arab mới vào Islam cũng muốn tháp tùng nhưng Rosul (saw) khuyên họ nên ở lại vì tình hình không yên ổn và Rosul (saw) không an tâm cho lắm. Người sợ những người Quraish phục kích hay hiểu lầm về mục đích ra đi nên Người chỉ cho phép những người xuất thân từ Mecca và một số người gốc Medinah đi theo. Số người ra đi khoảng từ 1400 đến 1600 người.




    Đoàn người mặc lễ phục Ehrom (lễ phục màu trắng để đi hành hương) đến Al Hudaibiyah để nghỉ ngơi và chuẩn bị vào Mecca. Dân Quraish nghe tin và tưởng rằng những người Muslim xuất quân tấn công Mecca nên họ chặn lại không cho vào. Họ không cho bất cứ một người nào trong đoàn vào Mecca. Sau đó, họ gửi sứ giả đến nói chuyện và Rosul (saw) gửi ông Osman ibnu Affan (R) với một vài sohabah (bạn hữu của Rosul) khác vào Mecca để điều đình với lãnh tụ của dân Quraish. Sau ba ngày không có tin tức cũng như không thấy ông Osman trở về, lại có tin cho rằng Osman đã bị giết nên Rosul (saw) ra lệnh cho ông Omar (R) tập họp đoàn người lại dưới bóng cây mà cùng nhau tuyên thệ với sự nhân chứng của Allah là sẽ cùng nhau sống chết với ông Osman (R). Quraish nghe được tin này lo sợ người Muslim sẽ tấn công nên gửi sứ giả đến đàm phán và trấn an là ông Osman vẫn bình yên. Sau cuộc đàm phán, hai bên đã đưa đến nghị quyết là tạm ngưng chiến trong thời gian 10 năm và đoàn người phải trở về Medinah và không được vào Mecca. Vài ngày sau, ông Osman trở về đoàn tụ với đoàn và Rosul (saw) ra lệnh quay trở về.




    Một vài chi tiết quan trọng trong nghị quyết là: « Mọi người được tự do chọn lựa vào phe nào họ muốn, không ai ngăn cản hay ép buộc ai và không được xâm chiếm, giết hại nhau) ». Thời gian 10 năm quả thật là dài đối với những ai nóng lòng muốn thành công một cách nhanh chóng. Nhiều vị sohabah (bạn hữu của Rosul) hay những người trung thành với Rosul (saw) đã tỏ ý bực bội và bất bình về thỏa ước này nhưng họ không hiểu được ý nghĩ và thời gian cần thiết mà Rosul (saw) đã chấp thuận. Mười năm quả thật rất dài để trở về Mecca. Nhưng thời gian mười năm cũng tạm đủ để rảnh tay phòng hờ kẻ thù mà dùng nó để truyền bá đạo giáo khắp nơi trên bán đảo và cả các quốc gia láng giềng hùng mạnh. Nhưng rồi chỉ trong hai năm, đoàn quân Muslim khải hoàn trở về chiếm lấy Mecca một cách hiên ngang với 10 ngàn quân sĩ. Đó là một sự thành công về chính trị lẫn quân sự mà người Muslim đoạt được không tốn một giọt máu. Và rồi tất cả những người ở Mecca đều trở thành Muslim.




    غزوة خيبر




    v Trận chiến Khoibar








    Trận Khoibar xảy ra vào tháng Muharram năm thứ bảy của lịch Islam.




    Khoibar là một thị trấn nhỏ, cách xa Medinah khoảng 180 km về hướng Syria, là nơi tập họp đông đảo những người Do Thái, kể cả một số những người Do Thái bỏ Medinah ra đi khi Rosul (saw) mới đến lập nghiệp. Nơi đây có nhiều nước, đất đai màu mỡ nên cây cỏ tươi tốt, trồng được nhiều cây cối, nhất là cây chà là. Những người Do Thái sống rải rác xung quanh ruộng nương hay vườn tược của họ.




    Những người Do Thái này rất can đảm, xảo trá và thiện chiến, nhiều âm mưu... Họ đã có ý chống lại người Muslim từ sau trận Khandak nên Rosul (saw) ra quân để bảo vệ sự an nguy cho quần chúng ở Medinah.




    Rosul (saw) ra quân với khoảng 1600 người, hầu hết là những người đã tham gia vào cuộc hòa ước Al Hudaybiyah. Khi đoàn quân gần đến nơi, Rosul (saw) gửi sứ giả đến mời họ vào Islam nhưng họ không theo. Ngược lại, họ chống đối vì nghĩ rằng với dân số hơn 10 ngàn người của họ, họ sẽ chống cự và tiêu diệt được người Muslim với quân số ít hơn. Sau đó, Rosul (saw) ra lệnh cho bao vây và đánh chiếm từng khu vực một. Trong suốt bảy ngày, bảy đêm, quân sĩ Muslim đã chiếm được tất cả. Sau một tuần lễ giao chiến, người Do Thái bị thiệt mạng đến 93 người, còn bên Muslim có 15 người tử vì đạo. Toàn thể còn lại chịu đầu hàng, bỏ lại tài sản, vũ khí mà ra đi. Từ đó, người Do Thái đã từ từ ra đi khỏi bán đảo Arab, chỉ còn lại những người Do Thái theo Islam mà thôi.




    غزوة فتح مكة




    v Cuộc khải hoàn trở về Mecca, vào tháng Ramadan năm thứ 8 niên lịch Hidry (630 trước công nguyên).








    Như đã được biết, trong hiệp ước kí với Quraish ở Al Hudaibiyah có khoản ghi rõ: « Bất cứ ai ai đều được tự do chọn lựa bên nào họ muốn gia nhập, không được gây sự chém giết giữa hai bên trong thời gian đã ấn định ». Không may trong thời gian đình chiến này, có hai bộ lạc cùng gốc gác với nhau nhưng lại tranh chấp nhau vào thời trước đây nên họ tách rời nhau và lập thành hai bộ lạc mới mang tên là Bani Bakr và Khoza’ah. Sau này, Bani Bakr đi theo Quraish, còn Khoza’ah theo Islam. Hai bộ lạc gây sự đưa đến việc tàn sát lẫn nhau và Quraish đã tiếp ứng người của họ để giết hại Khoza’ah. Cuộc đụng chạm đã xảy ra nhiều án mạng và đã đưa Quraish đến vi phạm hiệp ước. Điều này khiến cho ông Abu Sufyan lãnh đạo Quraish lo âu sẽ có biến cố lớn xảy ra.




    Sau khi xảy ra án mạng giữa hai bên, những người Khoza’ah đến báo cáo sự việc với Rosul (saw). Sau khi nghe qua và nắm vững được tình hình, Rosul (saw) khuyên họ hãy bình tĩnh, đừng nên tập họp mà quay trở về Mecca để chờ lệnh của Người.




    Quả thật không lâu sau, ông Abu Sufyan lên đường đến Medinah để trấn an Rosul (saw) về hiệp định đã kí. Ông tìm đến nhà bà Ummul Habibah con gái của ông và là vợ của Rosul (saw) để nhờ bà tiếp ứng về tinh thần. Khi ông bước vào nhà và định ngồi trên nệm của Rosul (saw), bà Ummul Habibah nói: « Đó là nệm của Rosul (saw), cha không thể ngồi trên đó được vì cha là người đa thần ». Do đó, hai cha con lớn tiếng với nhau. Ông Abu Sufyan tức giận bỏ đi. Ông tìm đến gặp Rosul (saw) nhưng Rosul (saw) không tiếp. Ông bỏ đi và biết rằng sắp sửa có biến cố sẽ xảy ra. Ông tìm đến nhờ ông Abubakar (R) can thiệp nhưng vô ích. Ông tìm đến ông Omar (R) cũng vô hiệu. Sau đó, ông tìm đến gặp vợ chồng ông Aly (R) để nhờ can thiệp nhưng không thành. Sau cùng, ông Abu Sufyan nói với ông Aly (R): « Ta phải làm sao bây giờ? ». Ông Aly trả lời: « Chỉ có cách ông tuyên bố xin lỗi mọi người và trở về Mecca ». Ông Abu Sufyan lên ngựa và tuyên bố rồi tiến về hướng Mecca trong sự lo âu, chờ đợi những gì sẽ xảy ra.




    Rosul (saw) xuất quân vào khoảng 10 ngày đầu của tháng Ramadan. Dọc đường, Rosul (saw) và đoàn quân đều ăn chay, cho đến Al Kuday gần Mecca, Rosul (saw) ra lệnh: « Những ai muốn nhịn chay thì nhịn, còn không muốn thì xả chay ». Sau khi tập họp lại, đoàn quân nghỉ đêm ở đó. Rosul (saw) ra lệnh cho nhóm lửa thật nhiều chỗ để cho Quraish biết là đoàn quân đến với lực lượng hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu.




    Sáng dậy, Rosul (saw) ra lệnh cho mỗi toán quân một lá cờ lệnh. Toán này tiến sau toán kia và chỉ ra tay với những ai chống cự. Đoàn của ông Kholid ibnu Walid tiến vào và gặp sự cản trở của Bani Bakar và Bani Al Ha’rish ibnu Abdulmannaf. Ông Kholid ra lệnh tấn công. Sau vài tiếng đồng hồ đánh nhau, quân của Kholid đã giết hơn 30 người, còn bên Muslim bị mất hai người. Trận đụng chạm đã được ông Kholid giải quyết nhanh chóng. Đoàn quân tiếp tục tiến vào. Thấy vậy, ông Hakim ibnu Hazzam và ông Abu Sufyan nguyên là lãnh tụ của Quraish kêu gọi quần chúng: « Hỡi quần chúng Quraish ! Không lẽ các ngươi lại muốn bỏ xác hay sao? Những ai bước vào nhà thì được bình an, những ai bỏ vũ khí cũng được bình an ». Nghe vậy, mọi người bỏ vũ khí và chạy vào nhà rồi đóng cửa lại. Không bao lâu, đoàn quân đã chiếm lấy Mecca. Ông Kholid báo cáo tình hình chiến thắng lên Rosul. Rosul (saw) nói: « Alhamdulillah (tạ ơn Thượng Đế), Allah đã giải quyết một cách tốt đẹp ».




    Theo sử ghi lại, Rosul (saw) và đoàn quân tiến vào Mecca vào 10 ngày còn lại của tháng Ramadan. Sau khi chiến thắng và nắm vững được tình hình Mecca. Rosul (saw) ra lệnh tử hình 15 người, trong đó có 4 người đàn bà. Họ là những người đã gây quá nhiều đau khổ, phiền hà cho Rosul (saw) và giết hại những người Muslim yếu đuối xưa kia. Trong số này, có một vài người đã vào Islam rồi bỏ hàng ngũ đi theo Quraish. Nhưng rồi đa số những người mang án tử hình này lại được Rosul (saw) tha thứ khi họ nhận lỗi và chấp nhận Islam. Sau này, họ đã ăn năn và đã chuộc tội bằng cách đã tạo được nhiều công trạng lớn lao cho Islam.




    Sau đó, Rosul (saw) cùng đoàn quân vào thánh đường và kêu gọi ông Osman ibnu Talha (người giữ chìa khoá Ka’bah) mở cửa. Rosul (saw) vào trong hành lễ hai rak’at (hai lần quỳ lạy) xong Người bước ra ngoài và tuyên bố: « Chỉ có Allah là Đấng Duy Nhất, không có ai khác đồng đẳng với Ngài. Những gì Ngài đã hứa nay đã trọn lời và Ngài đã dẹp tan kẻ thù và ban sự thành công, khải hoàn cho nô lệ của Ngài ». Rosul (saw) nói với quần chúng Quraish : «Hỡi quần chúng Quraish ! Các người đã thấy Ta đã đem lại những gì cho các ngươi ? » Họ trả lời: « Đem lại những điều tốt lành và là người anh em thân quyến của nhau ». Sau đó, Rosul tuyên bố: « Hãy giải tán ! Từ nay, các ngươi là những người được tự do ». Theo văn tự Arab là : Antum Tulako’u hay các ngươi là những kẻ đã được giải phóng và tự do.




    Ngày hôm sau, hầu như toàn thể quần chúng Mecca kéo nhau lại mà tuyên bố chấp nhận Islam và thừa nhận sứ mạng Thiên Sứ cao cả của Rosul (saw) mà trước kia họ đã từ chối. Rosul (saw) ra lệnh đập bỏ hết 360 bục tượng thần xung quanh Ka’bah mà họ tôn thờ và ngay cả trong nhà của họ, không một ai được chừa lại.




    Vào tháng Sha’wal hay một tháng sau khi vào Mecca, Rosul (saw) xuất quân từ đó đi dẹp loạn quân ở Hunyny trên đường đi Ta-if. Sau khi dẹp xong, Rosul (saw) ra lệnh tiến vào Taif. Từ ngày hôm đó, Mecca và vùng lân cận đến Ta-if xa hơn 80km cũng thuộc về Islam.








    غزوة تبوك..أو العسر




    Trận xuất quân đi Tabuk vào tháng Rajab năm thứ 9 của lịch Islam (tức tháng 10 năm 631 trước công nguyên) hay còn được gọi là trận Al Usrotu hay trận vất vả khó khăn.




    Tabuk là một thị trấn nằm gần ranh giới Saudi với Jordany, cách xa Medinah khoảng 700 km, cách Amman thủ đô Jordany khoảng 300 km và Damas thủ đô Syria khoảng 500 km. Đây cũng là cuộc ra trận cuối cùng của Rosul (saw), được gọi là trận khó khăn vất vả vì xuất quân vào mùa hè nóng cháy da, cần nhiều lương thực, nhất là nước uống cho quân sĩ và thú vật như lạc đà và ngựa.




    Lí do ra quân là vua Hirkal của La Mã sau khi nhận được thư mời vào Islam của Rosul (saw) đã nổi giận và tập họp quân đi với sự tiếp tay của những bộ lạc Arab quy thuận theo quân La Mã ở Syria. Họ chuẩn bị kéo quân tấn công nhằm ngăn chặn làn sóng bành trướng Islam.




    Rosul (saw) kêu gọi sự hi sinh và sự đóng góp ít nhiều của người Muslim để chuẩn bị cuộc chiến quy mô. Ông Abubakar (R) đã xuất ra 40 ngàn Dirham toàn gia tài, ông Omar (R) xuất ra một nửa gia tài, ông Abdurrohman ibnu Awf (R) xuất ra 200 awkiyah vàng (tương đương với 6kg vàng), ông A’sim ibnu Addy (R) xuất ra 70 waskon chà là (tương đương với 4 tấn chà là), ông Osman ibnu Affan (R) xuất ra số lượng lương thực cho 1/3 quân số lính dùng.




    Kỳ xuất quân này gồm hơn 30 ngàn quân, có khoảng 10 ngàn lạc đà, ngựa và vật chuyển vận quân dụng. Rosul (saw) đóng quân ở Tabuk chờ đợi hơn 20 ngày mà quân La Mã không có một hành động nào nên họ đã trở về trong tháng Ramadan với thời tiết nóng cháy da trên quãng đường đi bộ gần 700 km. Quả thật, khi nghĩ lại cuộc hi sinh lập nghiệp đạo pháp của Rosul (saw) và những vị sohabah (bạn hữu của Rosul) xưa kia không dễ dàng chút nào.




    حجة الوداع




    Hadjatul wada’u cuộc hành hương cuối cùng của Rosul (saw) vào năm thứ 10 lịch Islam.




    Theo lời thuật lại của bà Aysah (R), Rosul (saw) và đoàn người tháp tùng đi hành hương khởi hành từ Medinah vào năm ngày cuối cùng của tháng Zul Ko’dah. Kỳ ra đi này, Rosul (saw) đã dẫn theo tất cả những bà vợ của Người.




    Theo sự giải thích của các vị học giả, ngoài tên gọi Hadjatul wad’a hay hành hương cuối cùng còn được gọi là hành hương hoàn hảo hay sứ mạng thiên sứ của Rosul (saw) đã được hoàn tất trọn vẹn khi Người đang ở tại Arafah qua câu kinh với ý nghĩa như sau:




    قال تعالى: ( اليوم أكمات لكم دينكم وأتممت عليكم نعمتى ورضيت لكم الإسلام دينا ).المائدة:3




    « Bây giờ Ta đã hoàn thành tôn giáo này cho các ngươi, bao trùm ân huệ của Ta trên các ngươi và đã đề xướng Islam là tôn giáo cho các ngươi » Chương 5 : 3




    Theo sử ghi lại, sau khi dòng kinh Qur’an này được truyền xuống, Rosul (saw) chỉ lưu lại trên thế gian 81, 82 ngày nữa. Và từ đó, Allah không truyền xuống dòng kinh Qur’an nào khác nữa.




    Chuyến đi này được gọi là hành hương cuối cùng hay vĩnh biệt của Rosul (saw) như ý nghĩa ở trên đã nói vì lúc Rosul (saw) ở Mecca, năm nào Người cũng làm hành hương (dĩ nhiên với hình thức khác bây giờ) cũng như hầu hết quần chúng Quraish. Nhưng người Quraish lại thi hành với ngày giờ trễ hơn với hình thức theo tôn giáo của họ. Từ khi bỏ quê hương đi lập nghiệp đạo pháp ở Medinah, Rosul (saw) không hề đi hành hương. Có lần, Người dự định đi làm umroh (hành hương không bắt buộc) nhưng bị quân Quraish cản lại như chúng ta đã đọc qua về hiệp ước Hudaybiyah.




    Ở tại Arafah, Rosul (saw) đã đọc bài khudbah (bài giảng thuyết) lịch sử, nói rõ về tình nghĩa nhân loại, phép cư xử giữa con người, giữa vợ chồng con cái, bổn phận trách nhiệm của người Muslim phải đối xử với nhau, giao thiệp với nhau với danh nghĩa của Allah không được gian lận, lừa gạt lẫn nhau, mạnh hiếp yếu, giàu khinh khi người nghèo... Mọi người ai ai cũng đều có bổn phận và trách nhiệm với nhau. Những gì Islam cấm đã được liệt kê rõ ràng và những gì cho phép cũng vậy. Những gì thêm vào Islam đều là sự tai hại và đưa đến sự mù quáng. Sự mù quáng đưa con người vào địa ngục. Những phong tục tập quán hủ lậu, cổ truyền, sự cho vay ăn lãi đã chấm dứt ở đây và sẽ không được tái phát trong Islam nữa… Rosul (saw) cũng nói thêm với ý nghĩa : « Ngày hôm nay, Ta đã truyền giảng tất cả cho các ngươi, những người có mặt hãy làm chứng cho Ta và chuyển đạt lại cho những người vắng mặt vì không biết ngày này năm tới Ta sẽ có mặt ở đây nữa hay không ». Và rồi sứ mạng cao quý của Rosul (saw) đã được những người có mặt ngày hôm đó tiếp nhận và chuyển đạt nó đi khắp thế giới như ngày hôm nay. Chúng ta là môn đệ của Người, chúng ta cũng có bổn phận và trách nhiệm chuyển đạt sứ mạng của Người cho những người anh em khác và sứ mạng này sẽ kéo dài cho đến ngày tận thế.




    Theo sử ghi lại, chuyến đi cuối cùng này có khoảng 90 ngàn người tháp tùng với Rosul (saw) không kể những người Muslim từ các bộ lạc lân cận Mecca hay Yemen đến. Sau khi hành hương xong, Rosul (saw) trở về Medinah trong những ngày cuối cùng của tháng Zul Hadjah và sống thêm mấy tháng nữa. Trong lúc lâm bệnh, Rosul (saw) đã cử ông Usamah ibnu Zaid ibnu Ha’rish người giúp việc cho Rosul (saw) trước kia cầm đầu đoàn quân viễn chinh đi đánh ở Syria bao gồm cả Palestine.




    Vì mới hai mươi tuổi và xuất thân từ một gia đình vô danh và lại là người giúp việc nên những kẻ đạo đức giả ở Medinah lợi dụng tình hình tuyên truyền gây khủng hoảng tinh thần cho đoàn binh. Đoàn quân trong lúc chuẩn bị quân trang thì Rosul (saw) từ thế, gây thêm sự hoang mang không ít. Khi ông Abubakar (R) lên nắm quyền kholifah (lãnh đạo), ông ra lệnh phải thi hành chỉ thị của Rosul (saw). Vào lúc duyệt binh để tiễn đưa đoàn quân lên đường, ông Abubakar (R) đi bộ và kêu ông Usamah ngồi trên lưng ngựa để biểu thị quyền chỉ huy quân dù ông còn trẻ. Và rồi ông Usamah đã đem lại chiến thắng vẻ vang cho Islam mà ai ai cũng kính nể và biết đến.




    Theo sử gia nổi tiếng của Islam là ông Ibnu Ishak ghi lại : Rosul (saw) đã trực tiếp chinh chiến khoảng 27 trận lớn nhỏ và gián tiếp chỉ đạo 11 trận khác. Cuộc đời lập nghiệp đạo pháp của Rosul (saw) chỉ có 23 năm, đã mất 13 năm cầm cự, chịu đựng để truyền bá ở Mecca, 10 năm lập nghiệp ở Medinah mà Rosul (saw) đã tham gia hơn 27 trận đánh. Quả thật, thời giờ cũng như sứ mạng của Người không dễ dàng và thoải mái chút nào. Do vậy, chúng ta phải ý thức để trở thành một người Muslim hoàn hảo hơn.




    Sau khi Rosul (saw) tiếp nhận câu kinh cuối cùng trên, Rosul (saw) chỉ sống thêm 82 ngày. Vào những ngày cuối cùng, Người lâm bệnh và thường lên cơn sốt. Căn bệnh kéo dài hơn 13 ngày. Người dưỡng bệnh tại nhà bà Ummul Maimunah (R) rồi Người tỏ ý với tất cả các bà vợ cho Người về dưỡng bệnh tại nhà bà Ummul Aysah (R) và rồi Người đã từ trần trên giường và đầu gác lên đùi của bà Aysah (R). Trong lúc lâm bệnh, Người ra lệnh cho ông Abubakar (R) làm Imam hướng dẫn hành lễ. Sự vắng mặt thường xuyên của Người đã làm cho các tín hữu lo sợ và buồn rầu cho tính mạng của Người. Sự lo âu này thấu đến tai Người nên Người kêu tập họp quần chúng lại và đọc bài diễn văn cuối cùng với ý nghĩa sau: « Hỡi tín hữu thân mến ! Ta đã nghe và biết được sự lo âu buồn rầu của các ngươi về cái chết sắp tới của Thiên Sứ. Thử nhìn lại quá khứ, có một vị Nabi nào trước Ta đã sống mãi mãi trong quần chúng của họ đến bây giờ không? Không, không bao giờ. Nên Ta cũng phải ra đi như bao nhiêu người khác, rồi các ngươi sẽ tiếp tục theo Ta mà ra đi ».




    Vào buổi sáng thứ hai 12 Robiul Awwal năm 11 Hidroh tức năm 633 trước công nguyên, trước khi sola fajar (hành lễ buổi sáng), Rosul (saw) vén màn ra nhìn, ông Abubakar (R) tưởng đâu Rosul (saw) sẽ ra hành lễ chung nhưng Rosul (saw) ra dấu cho ông Abubkar (R) làm imam (người hướng dẫn hành lễ) để hành lễ với những người có mặt. Như thường lệ, sau khi hành lễ xong, ông Abubakar (R) đến thăm Rosul (saw) thì thấy bà Aysah (R) và các bà vợ khác của Rosul (saw) đang khóc. Nhìn lên giường thì không thấy mặt Rosul (saw) vì các bà vợ đã che mặt lại. Khi ông Abubakar (R) đến kéo chăn ra thì mới biết là Rosul (saw) đã vĩnh biệt ra đi. Khi hay biết tin đau buồn này, toàn thể tín hữu ai ai cũng muốn vào để nhìn mặt Rosul (saw) lần cuối cùng. Có người vì quá xúc động ngất đi, người thì bủn rủn tay chân, có người thì mất hồn vía, có người thì không tin là Rosul (saw) đã mất. Ngay cả ông Omar (R) phản đối kịch liệt và còn nói là ông sẽ giết những ai nói là Rosul (saw) đã chết. Ông Osman (R) thường ngày thì ôn hòa, trầm tĩnh, nay như kẻ câm điếc. Ông (R) thì can đảm không ai bằng, nay thì bủn rủn tay chân. Ngược lại, ông Abubakar (R) là người cứng rắn, sáng suốt và bình tĩnh khác thường. Ông đã đứng lên và trấn an tinh thần quần chúng với lời cương quyết sau: « Hỡi những ai tôn thờ Muhammad, nay Muhammad đã chết, còn những ai tôn thờ Allah, thì Allah sống mãi không bao giờ chết ». Sau đó, ông dẫn chứng thêm những câu kinh. Sau khi nghe xong, ông Omar (R) nói lại với ông Abubakar (R): « Tôi chưa hề nghe qua ». Những câu kinh đó như sau:




    قال تعالى: ( انك ميت وانهم ميتون ) الزمر




    « Chắc chắn ngươi sẽ phải chết, và chắc chắn chúng sẽ chết » Chương 39 : 30




    قال تعالى: ( وما محمد إلا رسول قد خلت من قبله الرسل أفإن مات او قتل انقلبتم على اعقابكم ومن ينقبلب على عقبيه فلن يضر الله شياء وسيجزى الله الشاكرين ) .أل عمران 144.




    « Muhammad chỉ là Sứ Giả. Trước ngươi đã có nhiều Sứ Giả khác qua đời. Nếu ngươi chết đi hay bị sát hại, các ngươi định quay gót đi sao? Nếu có kẻ nào quay gót đi nữa, họ sẽ không làm hại đến Allah, Allah chắc chắn sẽ ân thưởng kẻ nào biết ơn Ngài » Chương 3 : 144




    Ông Aly (R) và ông Fadal (R) con của ông Abbas đã tắm mayid cho Rosul (saw). Sau đó, từng nhóm người một, dẫn đầu là ông Abubakar (R) soly janazah (hành lễ cho người mất) cho Rosul (saw). Tiếp đến là những người đàn ông, thanh niên rồi đàn bà. Hành lễ xong, thi hài của Rosul (saw) được chôn tại chỗ hay tại giường ngủ của bà Aysah (R).




    Và rồi Thiên Sứ Muhammad (saw) đã ra đi giống như bao nhiêu Thiên Sứ và con người khác do Allah tạo ra. Người ra đi và sứ mạng truyền bá của Người cũng đã chấm dứt và hoàn hảo. Còn lại là kho tàng của sự truyền bá học hỏi mà người Muslim chúng ta cần phải noi theo. Tin theo những gì Rosul (saw) đã chuyển đạt là phải làm theo những gì Người khuyên dạy và muốn trở thành môn đệ của người là trước tiên ta phải có kiến thức, học hỏi ở những gì Rosul (saw) để lại rồi thi hành theo và truyền bá lại cho những người vắng mặt.








    ونسأل الله أن ينفع بها المسلمين وان يهدينا وإخواننا المسلين صراطه المستقيم، وصلى الله وسلم على نبينا محمد وعلى آله وصحبه أجمعين. والحمد لله الذي بنعمته تتم الصالحات.




    Alhamdulillah, xin chân thành ca ngợi và tạ ơn Allah, cầu xin Ngài ban sự hữu ích cho tất cả và xin Ngài hướng dẫn chúng tôi và tất cả đến nẻo chính của Ngài và Thiên Sứ cuối cùng của Ngài truyền giảng. Cầu sự bình an cho Thiên Sứ cùng gia quyến và toàn thể những người tin theo cho đến Ngày Tận thế.
    Ashadu An La Ilaha Illolloh!
    Wa ashadu-anna Muhammadar Rosulluloh!
    Tôi nhận chứng không có Thượng đế nào khác ngoài Allah.
    Và tôi nhận chứng Muhammad là vị sứ giả (Rasul) của Allah

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Nabi adam (a) thủy tổ của nhân loại
    By vinhken89 in forum Các Đạo khác
    Trả lời: 9
    Bài mới gởi: 12-11-2011, 03:29 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •